Dẫn nhập: Chủ
nghĩa thực dân người ta hay nhắc đến hiện nay để chỉ một giai đoạn lịch sử từ
thế kỷ 15 đến thế kỷ 20 khi người châu Âu tiến hành những cuộc viễn chinh xâm
lược xây dựng các thuộc địa của mình tại các lục địa khác để mở rộng thị trường,
gia tăng uy quyền quốc gia. trốn thoát sự ngược đãi tại mẫu quốc, truyền bá
Giáo lý Cơ đốc nhằm nô dịch tinh thầnngười dân của quốc gia bị họ chiếm đóng. Bọn
thực dân và lũ truyền giáo phương Tây kiêu ngạo tự cho rằng họ đã giúp đỡ
bằng cách "khai hóa văn minh" cho dân bản xứ về chủ nghĩa
nhân đạo, tinh thần bác ái, trọng danh dự và sống có trách nhiệm. Nhưng
thực tế cho thấy bản chất của chế độ thực dân từ cổ sơ cho đến cận đương đại vẫn
chỉ là cướp của, giết người và cách thức khai hóa bằng súng đồng, giày đinh, lưỡi
lê với thành tích những vụ thảm sát kèm theo tệ nạn biến người dân từ các
nước châu Phi thành hàng hóa bán sang châu Mỹ trong hơn ba thế kỷ, bọn thực dân
đã bức hại nhược tiểu da vàng, tận diệt dân da đỏ, hành hạ dân da đen cấy sâu
những mầm mống phản dân tộc vào trong lòng các dân tộc để phân hóa nội bộ các
dân tộc trong mục đích nô dịch cả nhân loại. Nhân đọc bài viết rác rưởi
"Thực dân Pháp tốt hay xấu?" được đài RFA phổ biến, chúng tôi không
thể ngồi yên bỏ mặc cho hành động vô liêm sỉ, thái độ vong ơn, vong bản, tư tưởng
vọng ngoại phi dân tộc, phản dân tộc và phản quốc ngụy trang dưới hình thức chỉ trích nhà cầm quyền cộng sản nhưng thực
ra tấn công trực diện vào tinh thần dân tộc, ca tụng bọn thực dân Pháp cướp
nước và những tên gián điệp Thiên Chúa Giáo môt cách lố bịch, tác hại, đầu độc
tinh thần tư tưởng giới trẻ đương đại trong nước cũng như hải ngoại và đó
là nguyên nhân có bài viết này, mời độc giả theo dõi.
NỌC ĐỘC
CỦA TƯ TƯỞNG
NÔ
LỆ VỌNG NGOẠI
PHI DÂN
TỘC
Vào ngày 2018-05-25 đài phát thanh
điền thế RFA chọn đưa lên blog của đài một bài viết với cái tựa đề “Thực
dân Pháp” tốt hay xấu?” khiến chúng tôi thật sự ngỡ ngàng vì sự
ngu dốt của ban biên tập và ban giám đốc của đài này trở thành thái độ vô liêm
sỉ, vong ơn, phi dân tộc trong việc nhận thức về chủ nghĩa thực dân phát sinh
trong thời kỳ các nước quân chủ Âu Tây bước vào cuộc cách mạng khoa học về kỹ
thuật và sản xuất. Thời đại thực dân là thời đại lộng hành của bọn quỷ sứ da trắng.
Tội ác của chủ nghĩa thực dân Âu Tây đối với nhân loại còn kinh khủng hơn cộng
sản gấp nhiều lần, nhưng do bọn da trắng Âu tây này cấu kết chặt chẽ để chạy tội
nên chúng đã nhấn chìm và bưng bít tội ác đã thực hiện khi tranh nhau đem quân
đi xâm lược, cướp bóc giết hại con người của các quốc gia lạc hậu, nhược tiểu tại
các châu Á Úc, Phi, Mỹ.
Tư tưởng thực dân là cái bóng lớn đồng
hành với các thế lực gieo rắc tội ác suốt tiến trình phát triển của nền văn
minh nhân loại chất chứa căn tính bạo ngược, bản chất man rợ của bọn kẻ
cướp. Từ khi loài người ở khắp nơi quần tụ thành lập nên những quốc gia thì việc
quốc gia này xâm chiếm cai trị quốc gia khác đều mang tính thực dân. Nhưng loại
thực dân nhân loại quen nói đến hiện nay khởi đầu từ năm 1415 khi Bồ Đào Nha
chiếm được hải cảng Ceuta của người Hồi giáo tại Bắc Phi, sau đó chủ nghĩa
thực dân phát triển qua các cuộc thám hiểm châu Mỹ, bờ biển châu Phi, Trung
Đông, Ấn Độ và Đông Á của hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Đó là nguyên
do những đoàn thám hiểm được tổ chức lên đường Christophe Columbus tìm ra
châu Mỹ và đem tới tai họa khủng khiếp cho lục địa này vì bản chất man rợ
phi nhân của bọn da trắng châu Âu chịu ảnh hưởng từ những cuộc Thập Tự Chinh
Thiên Chúa Gíao đã tác oai, tác quái gieo rắc tai họa lên đầu những người dân của
các quốc gia châu Mỹ, Á, Phi còn chìm đắm trong hình thái sinh sống, lao động
lạc hậu bán khai qua những cuộc tàn sát đẫm máu trong chiến tranh xâm lược.
Nếu chủ nghĩa thực dân là tốt, châu
Phi đã không mất đi 100 triệu người bị bắt cóc bán làm nô lệ ở châu Mỹ trong ba
trăm năm từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 và thực dân Anh đã không bị những lực lượng
cách mạng do George Washington lãnh đạo đánh đuổi khỏi Bắc Mỹ để có Hiệp Chủng
Quốc Hoa Kỳ ngày nay, và đến hậu Đệ Nhất Thế Chiến từ 1918 – 1939 toàn thể
lục địa Á châu đều bùng lên tinh thần giải thực và phong trào độc lập dân tộc ở
các thuộc địa trỗi dậy mạnh mẽ dẫn tới những cuộc cách mạng rồi kháng chiến
gian khổ chỉ với mục đích cuối cùng đánh đuổi bằng được các lực lượng viễn
chinh Âu châu xâm lược tàn ác, bóc lột ra khỏi lãnh thổ của họ. Thề giới đã chứng
kiến hầu như tất cả các dân tôc bị trị đều quyết tống cổ bọn thực dân xâm lược
ra khỏi đất nước dù đó là Vương Quốc Anh, Cộng Hòa Pháp, Vương Quốc
Hòa Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha hay chính là Cộng Hòa Liên Bang Hoa Kỳ như ở
Phi Luật Tân chẳng hạn. Nhân loại đã kết thúc chủ nghĩa thực dân bằng cách vứt
nó vào sọt rác lịch sử không chút áy náy. Chủ nghĩa thực dân không bao giờ được
các dân tộc thuộc địa thừa nhận là… tốt. Chỉ có những loại bồi bút
vô minh làm việc ở đài phát thanh điền thế RFA công nhận là TỐT bằng cách đưa
lên một bài viết đặt ra câu hỏi vớ vẩn “Thực dân Pháp tốt hay ,,, xấu” và tự trả
lời.
Riêng với việc thực dân Pháp nếu một
người Việt Nam có đọc sách sử đều đã biết………
Người Pháp đã mở màn cuộc chiến xâm lược
Đại Nam từ năm 1858 hậu bán thế kỷ thứ 19, nhưng tính từ năm 1867 khi Phan
Thanh Giản lợi dụng được đảm nhiệm việc thương nghị đã phản lại nhà Nguyễn, tự
ý cắt nhượng cho Pháp sáu tỉnh Nam kỳ trở thành lãnh thổ đầu tiên Pháp chiếm được
trong quá trình xâm lược Đại Nam, việc làm này chẳng khác gì cho giặc Pháp thấy
triều đình Đại Nam không có khả năng tự vệ. Dĩ nhiên sau đó toàn bộ lãnh thổ
rơi vào tay giặc Pháp đúng như tiên kiến. Suốt thời gian gần một thế kỷ, không
biết bao nhiêu nghĩa sĩ ái quốc đã ngã xuống trong cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm để vãn hồi độc lập tự chủ cho nước nhà.
80 năm dân tộc Việt Nam đã chứng kiến
quá nhiều sự lật lọng phản bội của Nguyễn triều hèn nhát từ khi Hàm Nghi xuất
bôn phát hịch Cần Vương rồi những việc phế lập tại triều đình Huế đã biến những
kẻ cầm mệnh nước trở thành “bù nhìn giữ dưa” cho quân xâm lược, phản bội lại
tinh thần phò vua giúp nước của quốc dân do các sĩ phu, hào kiệt dẫn dắt. Tất
nhiên những gì bọn thực dân Pháp cướp nước đem đến trong thời kỳ xây dựng guồng
máy cai trị và đàn áp, khai thác, cướp bóc tài nguyên Đại Nam là một luồng gió
văn minh hơn hẳn thời kỷ “bế quan tỏa cảng” của triều đình hủ lậu nhà Nguyễn
nhưng mở mồm, ngoác miệng phát ngôn hay gõ máy viết lên câu hỏi “Thực
dân tốt hay xấu?” rồi tự trả lời là “…tốt” đã cho thấy tâm địa và bản chất phi
dân tộc, phản dân tộc, phản quốc của tác giả và những kẻ đồng tình quảng bá. Bầy
đàn ngu dốt này không khác gì những kẻ đã vẽ đường, chỉ điểm và làm tay sai cho
giặc Pháp chiếm đất nước Đại Nam, giết hại những nghĩa sĩ, anh hùng, hào kiệt, sĩ
phu của dân tộc.
Chúng tôi tạm nêu ra một số tên trong
muôn nghìn người ái quốc như Trương Công Định, Tán Thuật, Nguyễn Tri Phương,
Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám, Phạm Hồng
Thái,Trần Trung Lập, Nguyễn Thái Học và 13 liệt sĩ Yên Bái mà ngay cả những pho
“nô lệ sử” của Nguyễn Triều do các “sử nô” biên soạn theo lệnh bề trên là giặc
Pháp cũng vẫn phải ghi lại. Thực dân Pháp không ban phát gì cho người dân
Việt Nam ngoài những phát đạn vào đầu, những nhát lê đâm vào cơ thể Việt Nam.
Ngoài tác giả và đám bút nô trong đài
RFA đồng tình khen thực dân Pháp tốt? Ai dám bảo thực dân Pháp là tốt? Thực dân
Pháp tốt tại sao suốt 80 chục năm tuy dân tộc Việt Nam phải sống dưới ách cai
trị, kiểm soát của giặc Pháp vẫn không ngừng chống Pháp. Đọc tác giả bài viết
tâng bốc công lao của thực dân Pháp qua việc xây dựng các công trình kiến trúc
trong thời kỳ Pháp thuộc, ca tụng "phương Tây họ có chủ nghĩa
nhân đạo, có danh dự, có tinh thần trách nhiệm" một cách ngu dốt
và vô liêm sỉ, chúng tôi thực sự tội nghiệp cho con người vong bản, vong thân
này vì chúng tôi là người đã ra đời ở miền Bắc, chạy giặc cộng sản vào Nam
nhưng chưa bao giờ chúng tôi cảm thấy tự hào về những kiến trúc tầm thường do
người Pháp xây dựng nhằm phục vụ cho công việc củng cố guồng máy cai trị, khai
thác thuộc địa Đại Nam. Thực tế cho thấy không bọn thực dân nào xây dựng ở thuộc
địa những cơ sở mang tầm vóc vĩ đại hơn mẫu quốc của chúng vì bọn thực dân Âu
Tây xâm lược chỉ nhằm giết người, cướp của để làm giàu chứ không nhằm mục
đích khai hóa các dân tộc bị trị.
Nói đến khai hóa có nghĩa là nói đến vấn
đề giáo dục người ta phải hiểu rằng đó chỉ là một công việc bất khả kháng. Bọn
thực dân phải xây dựng trường học, nhà thờ, không phải nâng cao dân trí
cho dân bi trị vì mục đích sau cùng của nền giáo dục đó là tạo ra những người
thợ có tay nghề để làm ra sản phẩm tốt, đào tạo ra đám quan lại tay sai bản xứ
cai trị giúp cho sự trường tồn của thực dân trên thuộc địa.
Trong hoàn cảnh và điều kiện triều đình
không giữ nổi chủ quyền để giữ lại nhà cửa, mộ phần tổ tiên để thờ phượng, đất
đai ruộng vườn để thâm canh nuôi sống những người đi chiến đấu nên người dân Việt
Nam vẫn phải sống chung với kẻ thù và bọn phản quốc trên cùng một mảnh đất chờ
thời khắc quyết định của lịch sử để quật khởi đánh đuổi bọn ngoại xâm ra khỏi bờ
cõi.
Đã sinh ra là người Việt kể cả những những
kẻ thất học không được đến trường cũng biết bốn câu thần thi.
Nam quốc sơn hà Nam Đế cư.
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Hơn ai hết chính chúng tôi là người hiểu
rất rõ "chủ nghĩa nhân đạo, danh dự và trách nhiệm của phương
Tây" chứ không phải những người hoàn toàn mù tịt về những
việc làm sâu kín của người Pháp hay người Mỹ.
Đích thân tôi đã dậy cho chính quyền Hoa
Kỳ một bài học về danh dự và trách nhiệm, công lý và nhân đạo trước
đây 23 năm vì họ đã bất nhân, vô trách nhiệm và cư xử mất danh dự khi đã bỏ mặc
chúng tôi trong nhà tù cộng sản và hồ sơ tài liệu phim ảnh vẫn còn lưu lại trên
websites www.chinhnghia.com
Đối với
những chủ nghĩa, tín điều đã tàn hại dân tộc trong gần hai thế kỷ đã qua, dân tộc Việt Nam muôn đời không được
phép tha thứ, không được phép quên. Hình ảnh thủ cấp của 13 liệt sĩ, nạn đói xảy
ra trong năm 1945 cướp đi hơn hai triệu sinh mạng đồng bào của chúng ta mà thủ
phạm là thực dân Pháp và phát xít Nhật, mỗi khi nhìn thấy hay nhắc đến là máu
Việt lại sôi lên.
Chúng
ta treo những tội ác của bọn xâm lược trong lịch sử cho hậu thế ghi nhớ soi
sáng lương tri để đừng bao giờ đánh mất độc lập chủ quyền thêm một lần nữa. "Lịch sử đã chứng minh, không
một đám ngoại nhân nào yêu thương đất nước, dân tộc của chúng ta nếu
chúng ta không biết yêu thương lấy đất nước và dân tộc của mình. Dân tộc Việt
Nam phải tự quyết định lấy vận mệnh của mình chứ không thể vanna2i, cầu xin được
trở thành quân cờ phục vụ cho lợi ích của ngoại bang và thế lực quốc tế." Kim
Âu
Chỉ
những kẻ vô liêm sỉ, phi dân tộc, phản dân tộc, đánh mất phẩm giá làm người mới
có thể ca ngợi bọn thực dân cướp nước hay ca tụng ơn đức của bọn gián điệp
đội lốt truyền đạo trong việc tạo ra chữ quốc ngữ dùng ký tự Latin, ca tụng thực
dân Pháp, chê bai dân tộc của mình qua những mẩu chuyện vu vơ, nhặt nhạnh nơi
quán xá ven đường.
Thế
hệ tuổi trẻ đương đại cần nhận thức sáng tỏ rằng: "Chúng ta học hỏi khoa
học kỹ thuật tiến bộ, lĩnh hội văn minh của nhân loại để cải cách binh bị, canh
tân kinh tế, sản xuất nhưng về mặt văn hóa không có một học thuyết, chủ nghĩa
hay một tôn giáo ngoại lai nào tốt đẹp phù hợp với văn hóa dân tộc như những di
sản tinh hoa trí tuệ của tiền nhân để lại. Dân tộc ta phải học hỏi để theo kịp
với nếp sống, làm việc văn minh nhân loại nhưng không học để đánh mất nền ta3ng
văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc". Kim Âu
Vấn đề mẫu tự quốc ngữ hiện nay
như ván đã đóng thuyền nên chúng tôi không muốn lạm bàn nhưng thiết tưởng cũng
nên nói rõ rằng “ký tự Latin chỉ là phương tiện tạo âm chứ không phải
là nội dung, bản chất của ngôn ngữ ,văn hóa Việt Nam”.
Bản chất của văn hóa dân tộc rất khó
thay đổi, thay thế nhưng phương tiện thì có thể tạo ra cái khác tốt hơn để thay
thế dễ dàng.
Truyện Kiều bản nôm hay bản quốc ngữ vẫn
là Truyện Kiều chứa đựng tải hoa ngôn ngữ ‘Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu’ của Nguyễn Du xuất hiện vào thời Tây Sơn, chữ Nôm
được thịnh hành. Chữ Nôm có gốc từ chữ Hán biến chế ra, chưa rõ.xuất hiện đầu
tiên vào thời nào ở nước ta nhưng vào năm 1279-1293 thời Trần, sĩ phu đã dùng
chữ Nôm làm thơ Đường luật, do Hàn Thuyên khởi xướng. Chữ Nôm từ đó được phổ biến,
song cũng chỉ trong dân gian dùng mà thôi, còn các giấy tờ nơi cửa công đều
dùng Hán tự. Đến đời nhà Hồ (1400-1407), chữ Nôm mới được các cơ quan chính quyền
dùng vào việc thảo văn tự công, nhưng khi nhà Hồ mất, chữ Nôm cũng mất địa vị.
Thời vua Quang Trung cho phục hồi lại chữ Nôm, coi đây là Quốc tự, Ngôn ngữ
chính thức được sử dụng là tiếng Việt và hệ thống chữ Nôm được sử dụng viết
toàn bộ các văn kiện hành chính, trong các văn bản của quốc gia. Quang Trung
quy định các bài hịch, chiếu chỉ phải soạn bằng chữ Nôm; đề thi viết bằng chữ
Nôm, và các sĩ tử phải làm bài bằng chữ Nôm. Ông còn chủ trương thay toàn bộ
sách học chữ Hán sang chữ Nôm nên năm 1791 đã cho lập “Sùng chính viện” để dịch
kinh sách từ Hán sang Nôm. Việc Quang
Trung loại bỏ vai trò chính thức của Hán tự thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ
của nước ta. Như vậy Chữ Nôm là chữ viết của thời kỳ độc lập và quốc ngữ mẫu tự
Latin là của thời kỳ nô thuộc.
Đọc nhiều bài hô khẩu hiệu của những người
nông nổi, dở điên, dở khùng kêu gọi không dùng chữ Hán Việt để chống
Hán hóa. Chúng tôi chán ngán cho sự đần độn của họ vì từ Hán Việt cũng viết bằng
chữ quốc ngữ nào có dính dấp đường nét nào của Hán tự mà phải loại bỏ trong khi
tự điển Hán Việt có đến hơn 70,000 từ. Một khi đã chống Hán hóa thì cũng phải
chống luôn Âu hóa, chống luôn việc dùng chữ quốc ngữ đánh vần bằng mẫu tự Latin
do bị thực dân Pháp cưỡng ép phải dùng.
Người Việt Nam vì mất nước, bị đô hộ nên
buộc phải tuân theo lệnh của thực dân Pháp sử dụng loại chữ do các nhà truyền
giáo chế tác để giảng đạo. Nếu muốn loại bỏ mẫu tự Latin để không vướng mắc quá
khứ nô thuộc chỉ cần những người cầm quyền ký lệnh thay thế như thực dân
Pháp đã loại bỏ chữ Hán và chữ Nôm khi họ đè đầu, cưỡi cổ, áp bức dân tộc ta là
xong. Vài chục năm sau là hệ thống chữ quốc ngữ sẽ trở thành cổ tích. Tuy nhiên
đó là phương tiện đơn giản dễ học chúng ta cứ sử dụng không cần câu nệ bởi vì
không ai đòi bản quyền khỏi bàn tới chuyện ơn huệ vì trong quá khứ cả hai bên
cùng có lợi.
Tiện đây chúng tôi cũng khai hoang não bộ
cho những kẻ ngoa ngôn cũng như đám bồi bút ở RFA biết rằng, việc sử dụng chữ
quốc ngữ hiện nay là bằng chứng về âm mưu đồng hóa tuyệt đối xóa trắng di sản
chữ Nôm đã có từ 800 năm trước của bọn thực dân và đám linh mục chỉ điểm.
Nguyên nhân chính bởi nhà Nguyễn đã biết hiểm họa sẽ đến từ bọn truyền
giáo phương Tây nhưng chủ trương và chính sách cấm đạo dở dang, nửa vời, không
tận diệt được những kẻ phi dân tộc, phản dân tộc và phản quốc để mất nước vào
tay giặc Pháp và bọn linh mục thừa sai Thiên Chúa Gíao, nhà Nguyễn mất quyền
cai trị mà còn gây ra đại họa đưa dân tộc vào vòng nô lệ ngoại bang cả thể xác
lẫn tinh thần.
Lý luận cho rằng chữ quốc ngữ giúp cho dễ
tiếp thu, hội nhập với văn minh phương Tây chỉ là thứ lý lẽ cùn vì Nhật Bản,Triếu
Tiên, Trung Hoa, Đài Loan, Ấn Độ, Thái Lan, Ả Rập và hầu như toàn bộ các dân tộc
và quốc gia khác không hề thay đổi chữ viết vẫn đứng trên Việt Nam nhiều bậc về
khoa học, kỹ thuật cũng như nếp sống văn minh hiện đại. Ngày nay thiết tưởng
dân tộc Việt Nam nên thức tỉnh để thấy rõ sở dĩ dân tộc ta chìm đắm trong đói
nghèo, lạc hậu lâu dài suốt gần hai thế kỷ qua chính vì sự xâm lăng của chủ
nghĩa thực dân Pháp, chủ nghĩa cơ đốc và chủ nghĩa cộng sản. Ba thứ chủ nghĩa
ngoại lai này xâm nhập tàn hại xã hội, văn hóa, đời sống tinh thần và vật
chất, tài nguyên của dân tộc ta đến khánh kiệt.
Nhìn sang Nhật Bản chúng ta thấy rõ nhờ
vào quyết định sáng suốt cấm truyền giảng Thiên Chúa Giáo của tướng Toyotomi
Hideyoshi năm 1587. Sau khi chính quyền chuyển đổi về tay tướng quân Tokugawa
Ieyasu thì ông ta đã nghiêng theo hướng cấm đạo, nhưng có lúc lợi nhuận khổng lồ
từ hoạt động giao thương, mậu dịch với các tàu buôn Tây dương khiến Ieyasu đã bị
mua chuộc để ngầm công nhận việc truyền giáo.Tuy nhiên, từ năm Keicho thứ 18
(1613), sau khi công bố công văn trục xuất các giáo sĩ do nhà sư Suden (Sùng
Truyền), một cận thần soạn thảo thì ông đã quyết định cấm Thiên chúa giáo triệt
để.
Văn bản trục xuất đó
chính danh lý luận:“Nhật Bản vốn là Thần quốc” và cho rằng, cần phải cấm Thiên
chúa giáo vì tôn giáo này sẽ phá hoại trật tự xã hội Nhật Bản vốn được coi là
Phật quốc và Thần quốc. Như
vậy, cuối cùng Thiên chúa giáo đã bị đào thải, không thâm nhập được vào trong
trật tự của Thần Phật.
Nhiên hậu các thề hệ Mạc phủ nối tiếp
đã triệt hạ tận gốc bọn phản quốc, phi dân tộc theo Thiên Chúa Giáo ở Nhật Bản,
xóa bỏ ttình trạng thôn tính tôn giáo, trục xuất bọn đội lốt truyền giáo lén
lút làm gián điệp cho Tây phương nên nước Nhật tránh khỏi bị xâm chiếm và
thực dân hóa, vẫn giữ được bản sắc dân tộc, chữ viết; đến khi Minh Trị Thiên
Hoàng tiến hành cải cách binh bị, canh tân đất nước; chỉ trong vòng ba chục năm
Nhật Bản trở thành một cường quốc kinh tế, quân sự đánh bại lục quân Nga ở
Mãn Châu, xóa sổ hai hạm đội Nga ở Lữ Thuận, Phụng Thiên, Đối Mã, từ đó được
coi là một cường quốc hiện đại đầu tiên của châu Á sánh ngang các quốc gia Âu
Tây..
Trong thời đại Thiên Hoàng Minh Trị, Phật
giáo Nhật Bản cũng trải qua một cơn bão táp, bị trấn áp một cách dữ dội, bởi lẽ
tôn giáo này là một yếu tố nền tảng của chính quyền Mạc phủ - một chế độ đã
thao túng triều đình Thiên hoàng trong nhiều thế kỷ. Chính vì thế mà sau khi loại
bỏ được chế độ Mạc Phủ thu hồi quyền lực hoàng gia, Thiên hoàng Minh Trị đã tỏ
thái độ kỳ thị, xem Phật giáo là một "tôn giáo ngoại lai". Minh Trị
quyết định lấy Thần đạo làm tôn giáo chính thức của Nhật Bản, triều đình lấy hệ tư tưởng Nho giáo làm giềng mối cho
nền chính trị, cho công cuộc phát triển kinh tế, khoa học-kỹ thuật theo cơ cấu
các quốc gia phương Tây. Đối với Ki-tô giáo, Thiên hoàng chấm dứt
việc trấn áp đối với các nhà truyền giáo cũng như tín đồ tôn giáo này.
Tháng tư năm 1871, niên hiệu Minh Trị thứ
ba, theo lệnh của Thiên hoàng, mọi tăng ni
bị ép buộc phải ăn mặn, không được cạo trọc đầu, lại còn phải kết hôn giống như
người bình thường. Năm tháng sau,
Thiên hoàng lại hạ lệnh không cho sư sãi lấy họ "Thích" như sư sãi ở
các nước khác, mà phải dùng họ do cha mẹ đặt. Sau đó, nhận thấy những vụ trấn
áp dữ dội đối với Phật giáo không đem lại một điều tốt lành gì mà chỉ làm cho đất
nước rối bời, ông bèn làm nhân dân yên lòng bằng tuyên bố rằng Triều đình không
có ý muốn triệt hạ Phật giáo, đó chỉ là ý muốn của giới lãnh đạo các địa phương
và các tín đồ Thần đạo. Lúc đó hơn 1320 ngôi chùa đã bị hủy hoại.... sau
đó các học giả thuộc những tông phái sang các quốc gia phương Tây, để học hỏi
chính sách tôn giáo. Khi trở về, họ đã phản đối lại những chính sách phân biệt
đối xử với Phật giáo của các lãnh đạo thời Minh Trị. Họ kiến nghị mong muốn được
tự do tôn giáo và Phật giáo phải được bình đẳng. Năm 1872, triều đình Thiên
hoàng thiết lập Bộ Tôn giáo.
Từ năm Minh Trị thứ 8 đến năm Minh Trị
thứ 17, các cơ quan có vai trò hạn chế Phật giáo như "Sảnh Giáo Bộ" dần
dần bị triều đình giải tán. Triều đình cũng bãi bỏ chức giáo đạo, Thần đạo và
Phật giáo được phép hoạt động bình đẳng như xưa.
Đến năm Minh Trị thứ 22 (1889), Thiên
hoàng ban hành Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản. Trong điều 28 của Hiến pháp này có
quy định nhân dân Nhật Bản có quyền tự do tín ngưỡng.
Lịch sử cho thấy Thiên Chúa Giáo
và Phật Giáo tại Nhật bản đều bị trừng phạt khi nuôi dưỡng, manh nha tư tưởng lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo đội lốt tu hành xen vào lĩnh vực nội trị để lũng đoạn
chính quyền thế tục.
Thiên Chúa Giáo và Phật
Giáo không cứu được nước Nhật nhưng nhờ có Thiên Hoàng Minh Trị có đường lối,
chính sách cải cách, canh tân nên Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu
thế giới. Điều đó chứng minh rằng muốn đất nước được hùng cường thì quyền lợi của
tổ quốc, dân tộc phải được đặt lên bản vị tối thượng. Khi đất nước hưng thịnh,
dân tộc độc lập thì chùa chiền, thánh thất, giáo đường sẽ nguy nga lộng lẫy
khi vận nước điêu linh thì Chúa cũng di cư, Phật cũng tỵ nạn.
Đối chiếu lịch sử Nhật Bản và Việt Nam
chúng ta càng thấm thía nỗi đau của dân tộc khi những người cầm mệnh nước không
đủ bản lĩnh và tinh tường để đưa ra chính sách canh tân, bảo quốc chặt chẽ nên
để đất nước và dân tộc rơi vào vực thẳm nô lệ.
Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo ở Việt Nam
đều là các tôn giáo ngoại lai nương nhờ vào lòng bao dung quảng đại của dân tộc
Việt, mượn đất nước Việt Nam làm nơi truyền đạo, hoằng pháp nhưng có lúc sinh
ra kiêu căng láo lếu như gia đình họ Ngô mưu toan đem cả dân tộc Việt Nam vào
vòng nô lệ giáo triều Vatican.
Phật giáo đến Việt Nam từ sớm, pháp
môn bồ tát đại thừa tương hợp với văn hóa dân tộc Việt nên hòa nhập với
triết lý Khổng Lão hình thành hệ thống triết lý Tam Giáo Đồng Nguyên góp phần
vun đắp tình tự dân tộc, phụng thờ quốc tổ gia tiên, vun đắp đời sống văn hóa
tâm linh cho dân tộc Việt Nam.
Sư sãi tham chính dưới các triều
Đinh Lê Lý Trần đã góp công dựng và giữ nước phát triển văn hóa sang tới triều
Trần nhưng bọn kiêu tăng thoái hóa khiến Phật giáo rơi vào thời mạt pháp, sau
khi Lê Lợi đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi, Phật giáo không còn ảnh hưởng đến việc
triều chính suy tàn dần. Năm 1963 Hoa Kỳ mượn lý do xã hội mất ổn định rối ren
do nhà Ngô lạm dụng chính quyền kỳ thị tôn giáo làm sút giảm tinh thần quân đội
đang đối diện với tình hình chiến sự gia tăng xúi giục gậy ra chính biến lật đổ
thanh toán xong anh em Ngô Đình Diệm, Phật giáo được đối xử bình đẳng thì một số
sư sãi đấu tranh lại sinh thói kiêu căng nuôi giấc mơ lãnh tụ, hợp tác với Việt
Cộng tiếp tục gây rối ren, biểu tình bạo loạn ở miền Trung góp phần vào việc
làm suy yếu lực lượng chống cộng. Điều đáng nói ngày 30/4/1975 các lãnh tụ Phật
giáo công khai lộ diện là "Cộng Sản Chính Hiệu Bà Lang Trọc" "hồ
hởi phấn khởi" kéo cả bầy đàn Vạn Hanh đi rước "bộ đội cụ hồ".
Chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa cơ đốc, chủ
nghĩa cộng sản cội rễ ở phương Tây nối tiếp nhau tạo ra những lực lượng
nhân danh khai hóa và cách mạng gây vô số tội ác tày trời đối với toàn thể nhân
loại đều phải bị lên án và loại trừ. Nếu muốn buộc tội hay phê phán chế độ cộng
sản đang nắm quyền cái trị đất nước hiện nay chỉ cần viết đúng hiện tình, không
nhất thiết phải bày điều đặt chuyện so sánh tốt xấu và lòng nhân từ
giữa hai bọn ăn cướp, và hãy giữ lấy chút liêm sỉ rơi rớt trong lương tâm để
tránh sử dụng ngôn từ biểu hiện tâm thức nô lệ vọng ngoại, vong bản, vong thân,
và vong ân, xúc phạm đến anh linh của những bậc anh hùng, nghĩa sĩ đã
hàng hàng, lớp lớp tận hiến sinh mệnh cho cuộc chiến trường kỳ chống những lực
lượng thực dân để vãn hồi độc lập, tự chủ cho đất nước và dân tộc.
Do biết vận dụng khát vọng độc lập, tự
chủ của dân tộc; những người cộng sản Việt Nam đã thống nhất được đất nước, chiếm
đoạt và thừa hưởng những hy sinh của dân tộc Việt Nam sau gần một trăm năm
tranh đấu, chiến đấu dành lại quyền độc lập, tự chủ cho đất nước đã thi hành
chính sách bất khả dung giáng những đòn trả thù hiểm độc lên toàn thể miền Nam
tạo ra hận thù sâu sắc làm tan vỡ tình tự dân tộc. Nhưng chủ nghĩa cộng sản đã
tự tiêu vong khi đạt được chiến thắng như chúng ta đã thấy xảy ra ở Liên Xô kéo
theo sự sụp đổ dây chuyền của cả Đông Âu. Hiện nay cả hai đảng Cộng Sản của
Trung Cộng và Việt Nam hầu hết đảng viên đều là thành phần tư sản và tư bản, ngoài lớp vỏ đỏ không ai biết được trong tận
đáy sâu tư tưởng từng đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam đang nghĩ gì. Điều
này có nghĩa là “chuyên chính vô sản” thực sự đã tiêu vong và trở
thành công cụ của những bầy đàn Mafia cai trị dùng vào việc đàn áp “giai cấp vô
sản” và những nông dân nghèo khó.
Đất nước và dân tộc Việt Nam là nạn nhân
của các thế lực chính trị quốc tế và hệ thống tôn giáo hòan vũ đầy tội ác. Những
hệ thống và thế lực này theo đuổi tư tưởng thống trị thế giới và nhân loại từ
ngày hình thành trước đây hàng nghìn năm, bọn chúng đã hóa quỷ, thành tinh nên
kế hoạch, âm mưu và hành động vô cùng hiểm độc đến nỗi những đế quốc rộng lớn
như Ấn Độ, Trung Hoa cũng một thời trở thành nô lệ.
Bốn mươi ba năm đã qua, những tên thực
dân xâm lược đã phải rút khỏi Việt Nam, lực lượng Bắc Việt đè bẹp Việt Nam Cộng
Hòa một thiểu số cầm quyền và đám gia nô hèn hạ tháo chạy theo cuộc di tản của
người Mỹ bỏ mặc dân tộc cho những người cộng sản cai trị đàn áp, làm tình làm tội
hay giết hại chẳng chút áy náy. Nhưng đến nay chủ nghĩa cộng sản một thời đắc
thắng đang trên đường tàn lụi, không cần đến một thế lực ngoại bang nào dân tộc
Việt Nam đã tự cứu nước đồng thời đang tự giải phóng khỏi xích xiềng cộng sản mở
đường đi tới tương lai. Tình hình Việt Nam
hiện nay đã và đang thay da đổi thịt, biến chuyển theo chiều hướng tốt do đã ở dưới mức xấu quá
lâu, không thể xấu hơn, tệ hơn nữa thì phải tốt lên và Việt Nam là một
dân tộc có sức mạnh quật khởi phi thường nên không thể chết hay tiêu vong nhưng nọc độc ngoại giáo vẫn còn rơi rớt.
Vì thế nhiệm vụ những người ái quốc chân
chính trong tình thế hiện nay phải bằng mọi cách vun bồi ý thức độc lập, tự
chủ; tinh thần dân tộc để thúc đẩy nền chính trị và xã hội Việt Nam từng bước
tiến lên, tới khi hoàn toàn thoát khỏi sự kiềm tỏa của chủ nghĩa cộng sản, chủ
nghĩa cơ đốc, lúc đó đất nước Việt Nam mới thực sự bước vào thời kỳ hưng thịnh.
Đối diện với những tư tưởng nô lệ vọng
ngoại, phi dân tộc xấc láo, ngu muội. Người còn yêu thương quốc gia dân tộc
không thể im lặng để loại nọc độc vô loài, phi dân tộc tự do khuếch tán làm nhiễm
độc tư tưởng lớp người trẻ tuổi ở bất cứ nơi đâu.
Kim Âu
May 30/2018
__._,_.___