Đại Học chăn Trâu




Tuesday 31 March 2015

Nguyễn thế Thảo CT UBND TP Hà Nội là tay sai của Tầu Cộng




Date: Thu, 26 Mar 2015 16:55:20 -0500
Subject: Chuc CHU TICH UBNDTP HANOI.
From: lehuutu0

From: "Truong Vu vuhtruong  
Sent: Wednesday, March 25, 2015 6:32 PM
Subject: Nguyễn thế Thảo CT UBND TP Hà Nội là tay sai của Tầu Cộng

 

TIN TÌNH BÁO - NGUYỄN THẾ THẢO MUA CHỨC CHỦ TỊCH HÀ NỘI BẰNG TIỀN CỦA "TRUNG NAM HẢI" 1.500 TỶ ĐỒNG ĐƯỢC CHIA CHO BỘ CHÍNH TRỊ.

Đây là tin tình báo thuộc loại chính xác là 99.9%. Vào tháng 6 năm 2008, cuộc chạy đua vào chức vụ Chủ Tịch UBND T.P Hà Nội chỉ còn 2 nhân vật được Bộ Chính Trị CSVN đưa vào danh sách là (1) ông Trịnh Đình Dũng vào thời điểm 2008, ông là Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Vĩnh Phúc. (2) Vào thời điểm 2008, Nguyễn Thế Thảo chỉ là Bí thư tỉnh ủy tỉnh Bắc Ninh.

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng, Bộ trưởng Bộ Xây dựng ngày hôm nay đúng ra là được BCT điều động vào chức vụ Chủ Tịch UBND T.P Hà Nội, tuy nhiên chỉ 1 tháng trước khi ông được bổ nhiệm thì Nguyễn Thế Thảo được thay thế vào vị trí.

Vào ngày 1 tháng 8 năm 2008, Nguyễn Thế Thảo được Trung ương đảng cộng sản Việt Nam điều động từ vị trí đương nhiệm là Bí thư tỉnh ủy tỉnh Bắc Ninh (nhiệm kỳ 2005-2011) về Hà Nội làm phó bí thư thành ủy kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
Cả hai "ứng cử viên" bí mật của BCT là Trịnh Đình Dũng và Nguyễn Thế Thảo đều CHẠY chức bằng tiền tỷ, nhưng Trịnh Đình Dũng bị đánh bại vì số tiền Nguyễn Thế Thảo chia cho BCT là 1.500 tỷ (Một ngàn năm trăm tỷ).

Đây là số tiền CỰC KỲ LỚN đối với cá nhân Thảo, và Thùy Trang truy tìm nguồn tiền "Chạy Chức" nầy có nguồn gốc từ Trung Nam Hải được đưa cho Thảo qua một tay ANH CHỊ có bí danh là HOÀNG ở Quảng Châu. Hoàng chính là cháu đích tôn của Hoàng Văn Hoan.
(*) Hoàng Văn Hoan nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Việt Nam. Năm 1979, trong một chuyến đi sang Đông Đức chữa bệnh, ông đã bỏ trốn tại sân bay Karachi (Pakistan) ngày 11 tháng 6 năm 1979, rồi trốn sang Trung Quốc sau đó.

Số tiền 1.500 tỷ mà Nguyễn Thế Thảo nhận được từ Trung Quốc được Thượng Tá Công An Nguyễn Đức Chung (Phó Giám đốc Công an Thành phố Hà Nội) là con của Lê Hồng Anh làm nhiệm vụ giao tiền cho BCT.

(*) Nguyễn Đức Chung được bổ nhiệm làm Giám đốc Công an thành phố Hà Nội từ tháng 9 năm 2012, thay thế Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh về hưu, được phong hàm Thiếu tướng ngày 13 tháng 7 năm 2013.

Vào khóa thứ 2 chức vụ Chủ Tịch UBND T.P Hà Nội, Trịnh Đình Dũng ra chạy đua lại lần nữa nhưng bị Nguyễn Thế Thảo đánh bại.

NGUYỄN THẾ THẢO TIÊU DIỆT TRUNG TƯỚNG NGUYỄN ĐỨC NHANH NHƯ THẾ NÀO?


Sau khi Thảo thương lượng với tướng Công An Nguyễn Đức Nhanh, nhường ngôi cho Công An thân Trung Quốc là Nguyễn Đức Chung vào chức vụ Giám đốc Công an thành phố Hà Nội nhưng Nguyễn Đức Nhanh phản đối.

Nguyễn Thế Thảo dằn mặt tướng NHANH bằng cách liên lạc với HOÀNG (Quảng Châu) đưa XÃ HỘI ĐEN Trung Quốc từ Hồng Kông sang giết chết con trai Nguyễn Đức Nhanh.
Đầu tháng 9/2011, Nguyễn Đức Quang, tự Quang Béo, con trai của trung tướng Nguyễn Đức Nhanh bị bắn trọng thương tại dốc Bác Cổ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Lúc đó Quang bị thương nặng, được đưa vào bệnh viện và qua đời 3 ngày sau đó.

NGUYỄN THẾ THẢO LÀM MAI ĐỖ THỊ HUYỀN TÂM CHO NỒNG ĐỨC MẠNH.

Đỗ Thị Huyền Tâm, sinh 17/10/1966, quê tại Ninh Xá, Bắc Ninh (cùng quê với tướng Phạm Văn Trà). Về tuổi đời, người vợ mới của Cụ Tổng trẻ hơn con trai Cụ là Nông Quốc Tuấn, Bí thư tỉnh uỷ Bắc Giang 3 tuổi. Cô dâu là Tổng giám đốc một công ty TNHH Minh Tâm , là đại biểu Quốc hội khoá 12 và khoá 13 hiện nay.

Vào tháng 3 năm 2012 thì Đỗ Thị Huyền Tâm chính thức làm vợ của Nồng Đức Mạnh về ở chung tại Dinh Thự tại Hồ Tây, Hà Nội.

Đường giây Trung Nam Hải hiện nay ở Hà Nội là:
(1) Chủ tịch UBND T.P Hà Nội Nguyễn Thế Thảo 

(2) Giám Đốc Công An T.P Hà Nội Nguyễn Đức Chung

Đường giây nầy liên quan mật thiết với Hoàng (Quảng Châu) cũng là ông Trùm Gỗ Lậu, Trùm Du Đảng ở Trung Quốc. Đường giây chuyển Gỗ Lậu sang Trung Quốc từ Hà Nội sẽ đưa sang cho Hoàng với sự tiếp tay của Chủ tịch UBND Thành phố Bắc Ninh là Nguyễn Quốc Liêm.

Như vậy chúng ta thấy là bàn tay của Trung Nam Hải rất chặt chẽ, là những tay lãnh đạo từ Bắc Ninh cho tới Hà Nội.

(*) Kỳ HAI sẽ là TIN TÌNH BÁO nói về T.T Nguyễn Tấn Dũng bị Trung Nam Hải ÁM SÁT hụt 2 LẦN tại Hà Nội như thế nào.


Thân Ái
Nguyễn Thùy Trang 


__._,_.___

Posted by: =?UTF-8?B?TkdVWeG7hE4gVsOCTiBUw5lORw

Nghèo + Ngông = Ngố



---------- Forwarded message ----------
From: Van-Nghe

Nghèo + Ngông = Ngố


Bùi Tín (Danlambao) - Nước Việt Nam ta còn nghèo, điều này ai chả biết. Chỉ trừ các quan chức CS nay đã thành triệu phú, tỷ phú đô la, vượt xa các điền chủ Nam bộ xưa, các tư sản hàng Đào Hà Nội hồi nào. Theo thông kê thu nhập tính theo đầu người, dân Việt hiện nghèo hơn dân Philippines, Indonésia, kém xa dân Thái Lan, kém rất xa dân Singapore ở quanh ta.

Đã thế lại chơi ngông. Chạy theo những thành tích ảo, bề nổi, vô nghĩa.


Tết vừa qua, có chiếc bánh chưng 7 tạ, 12 người gánh, gọi là để cúng bà mẹ ông Hồ, có chiếc bánh tét dài 11 mét, bánh phồng tôm nặng tạ rưỡi độn nhựa xốp, chậu hủ tíu cho 1 ngàn người ăn, được các quan chức cộng sản đến chứng kiến, đề cao, ca ngợi..., cuối cùng không một ai ăn nổi, để mốc meo, đổ xuống cống.

Nguyên liệu gồm 100 kg hủ tiếu gạo, 100 kg tôm, thịt… có thể phục vụ cho 1.000 người ăn.

Những trò chơi ngông một cách đần độn. Lẽ ra lãnh đạo phải ngăn ngừa, nhưng họ bận chuyện của sân sau, cửa hậu, đếm phong bìa, tiếp khách sộp, đi cúng bái xem quẻ thăng quan tiến chức, tranh nhau ấn thiêng để hòng trúng vận phất đại gia.

Những ngày Tết ảm đạm, các giá trị đảo lộn. Người ngay thẳng, có lòng yêu nước, thương dân, trọng nhân quyền, đòi dân chủ tự do rên siết trong tù. Kẻ gian manh cướp đất, cướp nhà, cướp tiền bạc của công đầy túi vẫn hoành hành cưỡi cổ nhân dân.


Ngày 10/3/2015 giữa Hà Nội, trong phòng lớn của khách sạn Hilton, Lễ ký thỏa thuận hợp tác về Dự án đầu tư xây dựng Tháp truyền hình Việt Nam đã diễn ra với các quan chức, đại diện của Đài truyền hình, Tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước SCIC, Công ty cổ phần tư nhân thuộc tập đoàn BRG và ngân hàng Đông Nam Á SeaBank.

Sau buổi lễ ký thỏa thuận, ông Trần Bình Minh, ủy viên TƯ đảng, Tổng giám đốc đài truyền hình VN cho biết các bên thoả thuận đã thống nhất phương án được thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo gợi ý là Tháp truyền hình mới của Hà Nội phải lập kỷ lục thế giới về chiều cao.

Ông Trần Bình Minh thích thú nhấn mạnh: Tháp truyền hình Hà Nội chẳng những sẽ là tháp cao nhất Đông Nam Á, mà sẽ là cao nhất châu Á. Do hiện nay tháp ở Nhật Bản - Tokyo Sky Tree là cao nhất thế giới - cao 634 mét, nên tháp TH Hà Nội sẽ cao 636 mét, nghĩa là còn soán luôn ngôi cao nhất toàn thế giới.

Các báo trong nước như Tin Nhanh - VNExpress cũng như TTX Vàng Anh đưa tin giật gân này, không quên kể ra các tháp truyền hình từng lập kỷ lục cao nhất thế giới, như Tháp Eifel/ Pháp cao 325m, tháp Sky/ Tân Tây Lan 328m, tháp Berlin 388m, tháp Thượng Hải 468m, tháp Ostankino/Moscow 540m, tháp Canton- Quảng Châu 600m, tháp Sky Tree/Tokyo 634m.

Ghê chưa! Anh hùng chưa! Hà Nội sẽ có tháp Truyền hình cao hơn Paris, cao hơn Berlin, cao hơn Moscow, cao hơn Thượng Hải, Quảng Châu, cao hơn Tokyo. Chưa thấy hé ra sẽ chi phí hết bao nhiêu nghìn tỷ đồng, mất trăm triệu hay mấy tỷ US$.

Nghèo mà chơi ngông. Quá ngông. Ngông không giới hạn.

Để làm gì? Để ăn cái giải gì? Tiền đâu mà phí phạm đến thế?

Tập đoàn tư nhân BRG là ai, thuộc phe nhóm tư bản đỏ nào? quan hệ với bí thư và các quan chức trong thành ủy ra sao?

Tháp truyền hình cao ngất ngưởng, mà nền giáo dục thấp lèo tèo, nền y tế xã hội bệ rạc, dân trí thấp, tai nạn giao thông kỷ lục, tham nhũng loại cao không đâu bằng, nhiều nơi các em đi học không có cầu phải níu theo dây cáp để có thể chết đuối, nền công nghiệp chưa làm ra nổi một con ốc thật đúng chất lượng... Tiền của đâu có thừa thãi gì mà chơi ngông vậy? Nợ quốc gia còn đầm đìa ra đó kia mà. Ganh đua gì những chuyện viển vông trê trời cao đến thế. Liệu thần kinh quý vị đưa ra chủ trương này có bình thường?

Tháp cao nhất thế giới thường là tiêu biểu cho một nền công nghiệp tổng hợp cao nhất, - về vật liệu xây dựng, về kiến trúc, về toán học, tin học, về địa chấn, về thông tin minh bạch, về nền văn minh tổng hợp của nhân loại. Thật là mỉa mai khi một anh lùn về khoa học kỹ thuật, lùn về khoa học nhân văn, anh lùn về công nghiệp - kỹ thuật lại chơi ngông liều lĩnh và lạc điệu đến thế. Lại là một kiểu anh nông dân nuôi voi chơi.

Rồi để sau khi khai mạc, cái tháp cao nhất thế giới ấy sẽ truyền đi cho người xem TV ở Việt Nam, Đông Nam Á và thế giới những tin tức, hình ảnh có giá trị ra sao, hay vẫn là những nội dung đã được định hướng trước, những sự thật bị cắt xén, bóp méo, xuyên tạc, bịa đặt, những bản tin nhạt nhẽo, biết rồi khổ lắm nói mãi, chuyên tra tấn tai mắt của khán giả. Cho đến nay khán giả truyền hình trong nước vẫn còn vướng mắc là tại sao ban lãnh đạo Đài truyền hình VN vẫn còn dùng những phát thanh viên trong nhà đài từng bị vi phạm nhân cách một cách ô nhục, trong một số cuộc đi công tác ở nước ngoài - ở Bắc Âu và Nhật bản - đã thò tay xoáy ở các siêu thị những đồ dùng mỹ phẩm đắt tiền, bị chụp ảnh, hài tội tại chỗ rồi đuổi về nước. Tội ăn cắp lắp đi lắp lại đến mức tại các nước đó họ phải in cờ đỏ sao vàng và tiếng Việt để cảnh cáo, Thật đẹp mặt cho đài truyền hình VN. Nay làm tháp cao nhất thế giới để xóa tiếng xấu, làm nhục quốc thể chăng?

Chơi ngông kiểu này còn có thể là do tư duy thâm thủy của các nhà chính trị trong thành ủy CS và ban tuyên huấn mác xít. Dân Hà Nội sẽ luôn ngẩng cổ tự hào ngắm nhìn tháp truyền hình cao nhất thế giới của mình để quên đi những nghịch cảnh khó chịu, đau lòng, bất công tràn đầy trên mặt đất, giá điện cao, tham nhũng lan tràn, nông dân mất đất, công an kết hợp bọn xã hội đen đàn áp thô bạo các sinh viên yêu nước yêu dân chủ ‘không thích đảng CS’. Để không còn nhớ là tự do báo chí còn thấp hơn ngọn cỏ, chất lượng nghiên cứu khoa học và số lượng sáng chế phát minh là lẹt đẹt, ‘đèn đỏ’ của thế giới.


Khi Quảng Nam dự định dựng tượng Bà Mẹ Anh hùng trị giá hơn 400 tỷ đồng, có ngay ý kiến can ngăn, nên lấy tiền đó chia cho hơn 6 ngàn Bà Mẹ Anh hùng đang thiếu đói, mỗi gia đình có thể nhận 60 triệu đồng, thiết thực biết bao nhiêu, đỡ khổ cho biết bao gia đình.

Mong rằng sẽ có cuộc trưng cầu dân ý gấp, ít nhất là dân ý của công dân thủ đô về ý đồ xây dựng Tháp Truyền hình hoành tráng, ngất ngưởng đã được định vị ở cạnh Hồ Tây, ở phía Tây Bắc của Hà Nội. Giữa một vùng đồng không mông quạnh sẽ nổi bật trơ trọi một anh khổng lồ quá khổ như đi trên đôi chân cà - kheo, để ai nấy đi qua đều phải ngẩng cao đầu xít xoa: cao nhất thế giới một cách tuyệt đối. Để rồi mà đâm xe vào nhau.

Đúng kiểu trưởng giả học làm sang, thành ra ngố, sẽ bị cả thế giới họ cười vào mũi.

Đúng kiểu trọc phú, nghèo văn hóa, thiếu thực chất của con người có trí khôn.

Có nên để tượng đài Nghèo mà Ngông nên Ngố như thế hình thành thật sự giữa thủ đô?

Việt Nam ta và trưởng tồn, mà không ai thấy ngượng hay sao!

Lễ ký kết thỏa thuận đã xong, bút sa gà chết rồi. Có ý kiến của thủ tướng rồi.



__._,_.___

Posted by: truc nguyen 

Sunday 29 March 2015

Trương Vĩnh Ký và những nỗ lực phổ biến chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIX


TẠP CHÍ VĂN HÓA

Trương Vĩnh Ký và những nỗ lực phổ biến chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIX

Phát Thứ sáu, ngày 27 tháng ba năm 2015
Trương Vĩnh Ký và những nỗ lực phổ biến chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIX

Pétrus Ký và các học trò.@historicvietnam.com/tim-doling/

Trong suốt cuối thế kỷ XVI và nửa đầu thế kỷ XIX, chữ quốc chỉ được dùng trong mục đích truyền giáo. Đây là loại kí tự dùng chữ cái La tinh để ghi lại tiếng nói của người Việt. Công trình này lần lượt được các nhà truyền giáo dòng Tên khởi nguồn và hoàn thiện, từ Gaspard d’Amaral và Antonio Barbosa, hai giáo sĩ dòng Tên người Bồ Đào Nha, cho tới Alexandre de Rhodes (cha Đắc Lộ) hay Pigneaux de Béhaine (cha Bá Đa Lộc), người Pháp.

Khi mới đặt chân tới Tourane (Đà Nẵng) vào năm 1624, cha Đắc Lộ đã không khỏi ngạc nhiên khi nghe người bản địa, đặc biệt là phụ nữ, nói như “chim hót” và đã từng nghĩ không thể nào học được tiếng nói này. Sau này, chính ông là người đã hệ thống hóa và phổ biến loại chữ viết La tinh, vừa dễ học vừa nhanh hơn so với chữ Hán và chữ Nôm. Tuy nhiên, chữ quốc ngữ được hoàn thiện như ngày nay là nhờ vào công sức của cha Bá Đa Lộc trong khoảng cuối thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX.

Sau khi chiếm được Sài Gòn và bắt đầu công cuộc khai thác, chữ quốc ngữ trở thành công cụ hữu ích cho chính sách đô hộ. Chính quyền Pháp muốn sử dụng loại chữ viết này để cắt hẳn mọi liên hệ giữa người dân Nam Kỳ, giờ đây nằm dưới sự cai trị của người Pháp, với nền văn minh Trung Hoa, tiếp theo là phổ biến học thuật Pháp và đồng hoá dân bản địa.

Trong thư văn đề ngày 15/01/1866 gởi cho thống đốc Sài Gòn, giám đốc nội vụ Paulin Vial có viết : « Từ những ngày đầu người ta (Pháp) đã hiểu rằng chữ Hán còn là một ngăn trở giữa chúng ta và người bản xứ ; sự giáo dục bằng thứ chữ tượng hình khó hiểu làm chúng ta rơi tuột hoàn toàn ; lối viết này chỉ tổ khó cho việc truyền đạt đến dân chúng những điều tạp sự cần thiết có liên quan tới khung cảnh của nền cai trị mới cũng như cho việc thương mại... Chúng ta bắt buộc phải theo truyền thống nền giáo dục riêng của chúng ta ; đó là cách duy nhất khiến chúng ta có thể gần gũi người An Nam thuộc địa hơn, ghi vào tâm não họ những manh mối của nền văn minh Âu châu đồng thời cô lập họ khỏi ảnh hưởng đối nghịch của các lân quốc của chúng ta ».

Tuy nhiên, các đô đốc Pháp nhanh chóng hiểu rằng rất khó thay đổi được một đất nước chịu ảnh hưởng của Khổng giáo và lòng trung thành sâu sắc của người dân đối với triều đình. Họ chú ý tăng cường ảnh hưởng của Pháp tới đời sống và phong tục của người Nam Kỳ. Để thực hiện thành công chính sách cai trị và “mị dân”, các “quan” Pháp được khuyến khích học chữ hán, chữ quốc ngữ, nghiên cứu phong tục tập quán, ngôn ngữ và lịch sử của Việt Nam. Chính vì thế, rất nhiều tài liệu bằng tiếng Pháp và tiếng Việt mang tính chuyên môn cao được các “học giả” quân sự dịch và soạn thảo trong giai đoạn này.

Mặt khác, họ đưa chữ quốc ngữ ra khỏi khuôn khổ của Giáo Hội để phổ biến trong dân. Ngay từ năm 1864, các trường tiểu học quốc ngữ được thành lập tại các trung tâm quan trọng nhất và các làng công giáo. Mục đích chính là nhằm đào tạo một thế hệ công chức tương lai tận tâm với nước Pháp, đồng thời cắt đứt ảnh hưởng của Nho giáo. Bắt đầu từ năm 1882, chữ quốc ngữ được dùng là văn tự chính thức trong giao dịch, giấy tờ hành chính, tư pháp và thương mại của nhà cầm quyền thuộc địa. Các quan địa phương phải học chữ quốc ngữ và chỉ được thăng chức hay giảm thuế nếu biết đọc, biết viết loại văn tự này.

Biên soạn giáo trình dạy chữ quốc ngữ
Về phần mình, từ khi được bổ nhiệm làm chánh tổng tài tờ Gia-định báo (16/09/1869), Trương Vĩnh Ký có cơ hội để phát triển sự nghiệp dịch thuật và viết văn. Đây cũng là vị trí và công cụ giúp ông phổ biến rộng rãi hơn chữ quốc ngữ. Thái độ ủng hộ việc truyền bá học thuật bằng kí tự La tinh này đã được ông thể hiện với Richard Cortembert ngay từ chuyến công du sang Pháp.

Sau này, lợi ích và vai trò của nó còn được ông nhấn mạnh trong cuốn Manuel des écoles primaires (Giáo trình cho các trường tiểu học, 1876) như sau : « Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của nước nhà. Cần phải nắm vững nó cho điều tốt đẹp và cho sự tiến bộ. Vì thế, chúng ta phải tìm mọi cách để phổ biến chữ viết này ». Ông cho rằng loại chữ viết đơn giản, dễ học này sẽ là phương tiện hiệu quả để tiếp thu những kiến thức mới vì ba lý do : Thứ nhất, do nạn mù chữ đại trà trong dân, tiếp theo là chữ hán sẽ không còn có ích một khi người Pháp cai trị Nam Kỳ và cuối cùng, chỉ cần ba tháng là có thể biết đọc và viết chữ quốc ngữ.

Ngoài ra, ông còn khuyên nhủ người học như sau :
« Sách nầy là sách rút tóm lại những đều đại-cái người ta phải học, để cho con trẻ mới vô trường, học những đều đại lược mà phá ngu, cho đặng đến sau khi vào trường chung nghe dạy nghe giải rộng các đều ấy thì mau hiểu hơn là một ; hai nữa là để mà tập coi, tập đọc tập viết tiếng Annam trong chữ quốc-ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ-ràng.

Khuyên các trò hãy bớt tính ham chơi, mà chuyên việc học-hành, chữ-nghĩa, văn-chương cho được vào đường công-danh với người-ta cho sớm, trước là cho đặng đẹp mặt nở mày cha mẹ, giúp đời dạy dân, sau là cho mình được công thành danh toại, thơm danh, tốt tiếng ở đời ».

Dù tên sách viết bằng tiếng Pháp nhưng đây là bộ giáo án giành cho giáo viên, gồm hai phần, phần một là « phép học chữ quốc ngữ, lịch sử An Nam và Tàu », và phần hai gồm « các khái niệm khoa học cơ bản ». Trong đó, Trương Vĩnh Ký giải thích cách tổ chức một buổi lên lớp, các hoạt động hay cách đánh giá học sinh.

« Hễ trò nào mới vô thì phóng vở theo đã ra trước nầy, giao cho nó, cấp cho một trò cũ đã biết mà nhác-biểu chỉ-vẽ cho nó.
Phân lớp ra mà dạy cho dễ : Như học-trò đã biết viết, biết đọc thì bát nó viết mò, bát đọc một đoạn sách cho lẹ cho xuôi. Viết mò thì lấy những tuồng, văn, thơ, phú, mà nói cho nó viết, viết rồi thì thầy coi mà sửa lại cho nó, cho chính câu chính chữ.
Còn mỗi bữa học, bát nó kiếm câu hát, câu đối, lời phương ngôn tục ngữ, diêu ngôn vân vân, mà viết ra một đâu câu chẳng hạn, đem tới nộp cho thầy sửa, góp những cái ấy lại, để một nơi.

Dạy toán thì trước hết dạy bốn phép, cộng, trừ, nhơn, chia, cho rõ. Rồi cứ ra bài đố cho nó mần cho quen. Dạy phép đo cũng vậy… Những tập nó học nó viết mỗi bữa học thì thầy sửa rồi đề ngày vô cho nó, cho dễ xét đứa nào trễ-nải, đặng như quan có đòi thì thầy có sẵn mà nộp cho quan ».

Một giáo trình khác được Trương Vĩnh Ký biên soạn nhằm chủ yếu vào giới quan lại địa phương khi có nghị định bắt buộc dùng chữ quốc ngữ trong các văn bản hành chính. L’Alphabet quốc ngữ en treize tableaux avec des exercices de lecture (Vần quốc ngữ thông qua 13 bảng và các bài tập đọc, 1887) giúp các quan học loại chữ viết này trong một thời gian ngắn. Tám bảng đầu dạy học nguyên âm và phụ âm cùng với sáu thanh điệu và cách ghép vần. Các bảng còn lại gồm các bài tập đọc, từ đơn giản tới phức tạp.

Sưu tầm-chuyển ngữ
Song song với việc soạn giáo trình, Trương Vĩnh Ký dùng chữ quốc ngữ ghi lại những cuốn sách Tàu và những tác phẩm được viết bằng chữ nôm. Trên thực tế, hai loại chữ tượng hình trên dần dần bị sao nhãng và ngày càng có ít người sử dụng. Chữ Hán chỉ giành cho một bộ phận nhỏ gồm các nhà nho và quan lại. Trong khi đó, chữ Nôm còn phức tạp hơn do mượn Hán tự. Vì vậy, cần phải biết chữ Hán mới có thể học được loại chữ này.

Hơn nữa, Trương Vĩnh Ký cho rằng văn học Việt Nam mới chỉ có thơ ca với nhiều thể loại khác nhau, song không có văn xuôi và các loại khảo cứu, nghị luận. Dịch thuật là một cách giúp học làm văn và làm giàu từ vựng tiếng Việt. Chính vì thế, không có gì ngạc nhiên khi một phần ba trong tổng số 118 tác phẩm của ông là các công trình dịch thuật.

Vấn đề phiên dịch các tác phẩm Tầu ra thể văn vần chữ quốc ngữ cũng đã được Luro, một thanh tra bản xứ sự vụ, trong bản báo cáo ngày 06/01/1873, đề xuất : « Từ lâu, tôi thỉnh cầu một cách vô hiệu rằng người ta phải phiên dịch, dưới sự chăm sóc của một hội đồng có đủ quyền hành, lịch sử nước An Nam và những sách cao quí triết lý của Trung Hoa. Người dân ít nghe tiếng Quan thoại, họ sẽ rất sung sướng có được những cuốn sách dịch bằng ngôn ngữ thường ngày của họ một cách thanh nhã. 

Họ sẽ mua, sẽ đọc những cuốn sách đó. Trong số các thừa sai và viên chức của chúng ta, chúng ta có nhiều người có đủ khả năng để hoàn thành những sách dịch thanh nhã từ tiếng Quan thoại ra tiếng nói hàng ngày ».

Như vậy, cả chính phủ Pháp và Trương Vĩnh Ký đều tận dụng thời cơ để phổ biến chữ quốc ngữ. Chính quyền Pháp muốn « mượn tay » những công chức Pháp hóa để tách rời dân chúng khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. Còn Trương Vĩnh Ký thì hoàn toàn tin vào chính sách khai hóa của nước Pháp. Và, theo ông, công cụ duy nhất để có thể đạt tới trình độ « Học thuật Châu Âu » là chữ quốc ngữ. Chính vì thế, ông tìm mọi cách để loại chữ viết La tinh này được phổ biến rộng rãi tới các tầng lớp dân chúng.

Từ khi chữ quốc ngữ trở thành văn tự chính thức tại Nam Kỳ vào năm 1882, ông chuyển ngữ ngay nền văn chương truyền khẩu bình dân, gồm những áng văn vần và chuyện dân gian rất được ưa chuộng, như : Phép lịch sự Annam (1881), Thơ dạy làm dâu (1882), Thơ mẹ dạy con (1882), Nữ tắc (1882), Thạnh suy bỉ thới phú (1883), Cờ bạc nha phiến (1884), Ngư tiều trường điệu (1884)… Trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã nhận định rất đúng khi viết : « Hồi đó, ông (Trương Vĩnh Ký) cần phải xuất bản như thế, cốt dùng những chuyện phổ thông làm cái lợi khí cho chữ quốc ngữ được lan rộng trong nhân gian... »

Tất cả đều được bán với giá rất hợp lý. Thường những tập dày 7 đến 10 trang, được bán với giá từ 35 đến 50 xu franc và từ 1 đến 2 franc đối với những tập dày trên hai mươi trang.
Viết văn
Thông qua những bản dịch, lần đầu tiên một loại hình văn học mới được đưa vào Việt Nam. Đó là văn xuôi, với nhiều thể loại khác nhau, như tiểu luận, kí sự hay tiểu thuyết. Tại thời kỳ đó, thể loại này còn chưa được ưa chuộng và không được coi là « văn học », vì người ta cho rằng văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ ngang như lời nói. Công bằng mà nói, lời nhận xét khá đúng, vì ngôn từ và cách hành văn trong các tác phẩm thời đó thiếu trau chuốt và tự nhiên như văn của thế hệ sau này.

Bài văn xuôi đầu tiên do Trương Vĩnh Ký biên soạn, dài khoảng bẩy trang, xuất hiện trên tờ Gia-định báo vào năm 1863, dưới tựa đề Ghi về vương quốc Khơ Me (1863). Phải chờ tới năm 1881, Trương Vĩnh Ký viết một tập bút kí khác, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876), công phu hơn và trau chuốt hơn. 

Tuy nhiên, ông phải mượn rất nhiều từ Hán để có thể miêu tả tỉ mỉ chuyến đi này. Không bàn tới mục đích của chuyến công du Bắc Kỳ của Trương Vĩnh Ký, ở đây chúng ta chỉ quan tâm sau chuyến đi này, ông viết một bản hồi kí ghi lại những kỉ niệm, những điều « mắt thấy tai nghe », vị trí địa lý, lịch sử, những phong tục tập quán của những địa phương nơi ông đi qua.

Ví dụ văn phong trong một đoạn miêu tả « Chợ » ở Bắc Kỳ : « Chợ-búa nội cả tỉnh cũng nhiều lắm. Mà chợ lớn có tiếng và đủ đồ hơn hết tại Bắc-kỳ, thì là những chợ kể trong câu ví nầy : Xứ Nam là chợ Bằng Vồi ; xứ bắc Giâu, Khám, xứ đoài Xuân Canh ; nghĩa là tỉnh Hà-nội, Hưng-yên, Ninh-bình, Nam-định là phía nam, thì có chợ Bằng, chợ Vồi có tiếng hơn hết. Còn bắc là Bắc-ninh, thì có chợ Giâu, chợ Khám ; xứ đoài là trên Sơn-tây thì là chợ Thâm-xuân-canh ».

Một nhà nghiên cứu nhận xét đây là « một trong vài tác phẩm viết bằng chữ quốc ngữ sớm nhất của thế kỷ XIX, Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi để lại nhiều dấu ấn ngôn ngữ với những phương ngữ, tiếng Việt cổ có giá trị về mặt ngôn ngữ. Câu văn khúc chiết, sinh động chứng tỏ năng lực viết văn xuôi quốc ngữ của tác giả trong buổi sơ khai của loại chữ mới mẻ này ».

Tới năm 1918, quốc ngữ trở thành chữ viết bắt buộc tại Bắc Kỳ. Từ giai đoạn này trở đi, các nhà trí thức trẻ không ngừng trau dồi, phát triển và phổ biến nền văn học hiện đại Việt Nam. Năm 1954, quốc ngữ trở thành chữ chính thức của các cơ quan hành chính Việt Nam. Điều này đã khẳng định tiên đoán cũng như mong muốn của Trương Vĩnh Ký vào năm 1876 : « Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của nước nhà ».

__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Friday 27 March 2015

Diễn từ bế mạc lễ trao giải Văn hóa Phan Châu Trinh 2015

 

Diễn từ bế mạc lễ trao giải Văn hóa Phan Châu Trinh 2015

Nguyên Ngọc

       
Thưa …,

Hôm nay, rất đúng hẹn, chúng ta lại gặp nhau trong không gian đầm ấm này, cho một sự kiện trang trọng: Lễ trao giải Văn hóa Phan Châu Trinh lần thứ 8. 

Nếu kể cả lần trao giải năm 2007 của Quỹ Dịch thuật Phan Châu Trinh, tiền thân của Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh, thì đây là lần thứ 9.Vậy là chúng ta đã cùng nhau đi được một chặng đường dài 9 năm, và tôi nghĩ với tất cả lòng khiêm tốn vẫn có thể nói rằng, bằng một sinh hoạt đều đặn, nhẹ nhàng và giản dị, thân mật mà thâm trầm, chúng ta đã tạo nên được gần như là một tục lệ văn hóa mới tốt đẹp và hằng năm được mong đợi. 

Được mong đợi, đúng thế, bởi vì quả thật mỗi năm ở đây chúng ta lại được gặp không chỉ những diện mạo văn hóa xứng đáng, với những công trình, không ít khi là những sự nghiệp đồ sộ, đa dạng, sâu sắc và đầy gợi mở được phát hiện, phát hiện lại, để tôn vinh và từ đó giới thiệu rộng rãi với toàn xã hội; mà cũng qua chính những con người đáng kính ấy và các công trình tâm huyết của họ, từng nêu lên, thống thiết và đầy trách nhiệm với toàn xã hội những vấn đề bức thiết và nhiều khi khá cơ bản về văn hóa và tinh thần, nghĩa là về nền tảng tồn tại và phát triển của đất nước.

Thật vui mừng là năm nay truyền thống đó vẫn được giữ vững.

Xin được nói trước hết về Giải thưởng Giáo dục, lần này được trao cho nhà giáo lão thành Phạm Toàn đã ngoại bát tuần và nhóm Cánh Buồm phơi phới trẻ trung của ông. Như chúng ta đều biết, trừ với Hồ Ngọc Đại, hai giải thưởng về giáo dục trước đây đã được trao cho Giáo sư Hoàng Tụy và Hiệu trưởng Bùi Trân Phượng, là những chuyên gia toàn diện về giáo dục, song thường đã tập trung rất đúng đắn quan tâm và nổ lực vào đại học vốn là một trong những khâu yếu nhất trong hệ thống giáo dục chúng ta hiện nay. 

Lần này là những người khởi sự từ một đầu khác, ngược lại, từ khâu thấp nhất, tiểu học. Và họ có cái lý sâu sắc của họ. Nếu quả thật thiêng liêng nhất của giáo dục là tạo nên con người tự do cho đất nước thật sự tự do – bởi không có nó thì mọi thứ trên đời này có to tát đến mấy, kể cả độc lập, đều thảy vô nghĩa –thì con người đó phải được tạo nên, đúng hơn nữa là tự tạo nên ngay từ đầu, khởi thủy đã là tự do, bằng tự do, và lại chỉ có thể duy nhất với phương pháp tự do. 

Nhà triết học François Jullien có ví tâm trí con người với một tờ giấy bạc (mà ta thường thấy dùng gói các bao thuốc lá) một khi đã bị vò nhàu đi rồi thì sẽ không thể nào vuốt lại cho phẳng được hoàn toàn, trong sáng sạch sẽ hoàn toàn. Vẫn thường nghe nói giáo dục hiện nay rất nặng áp đặt, áp đặt tư duy, áp đặt kiến thức, áp đặt chân lý có sẵn và từ đâu đó tít trên cao, áp đặt đồng phục … Áp đặt là nói cho sang, đúng tên thì ấy chính là nô lệ. 

Tôi nghĩ rằng tư duy lớn nhất, đẹp đẽ nhất của Cánh Buồm là quyết không để cho người ta biến trẻ con thành nô lệ, không để tâm trí con trẻ bị nhàu nát ngay từ đầu bằng những nếp gấp nô lệ sẽ suốt đời không còn gỡ ra cho sạch hết được. Họ tin rằng nếu học là khám phá thế giới, và qua đó tự khám phá chính mình, thì đối với một con người thế giới chỉ được thật sự khám phá khi tự mình làm phám phá đó, đi lại con đường khám phá đó, tự mình “thi công” khám phá đó như cách nói của Phạm Toàn và Cánh Buồm. Và như vậy, tức cũng chịu trách nhiệm về khám phá của mình, về chân lý do tự mình “thi công” mà tìm ra và có  được cho mình. Đấy cũng là ý nghĩa đích thực của điều được gọi là “tự học”. 

Tự học không chỉ là học ở ngoài nhà trường, mà là tự mình làm lấy để mà học, như nhà giáo dục lớn John Dewey từng nói: “Giáo dục tự nó là hoạt động sống chứ không phải là sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai”. Hoạt động quan trọng nhất ngay trong nhà trường cũng phải là sống, tức là tự học, không có tự học thì không thật sự có giáo dục. Cũng không còn là sống. Hay như khẳng định của vị Bộ trưởng giáo dục đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Vũ Đình Hòe: “Học vấn chỉ là phương tiện của giáo dục. Hoạt động mới là cứu cánh của nó”. 

Trong giáo dục, đấy là con đường duy nhất để tạo nên con người tự do. Vậy đó, một định nghĩa về tự do, về giáo dục tự do vì con người tự do, ngắn gọn, rõ ràng, cơ bản. Nhân đây cho phép tôi được nói điều này: điều ta vẫn mong muốn được gọi đích danh là Cải cách giáo dục, công việc hiện nay được gọi là Đổi mới toàn diện và căn bản giáo dục, chủ trương to tát ấy sẽ chẳng đi đến đâu hết, sẽ vẫn mãi lúng túng, loay hoay, chắp vá, rối ren …, nếu nó còn không xác định được rõ ràng và chắc chắn điều vừa nói trên đây. Đấy có thể là ý nghĩa của cái sự kiện ta đang nói đến hôm nay, có tên là Cánh Buồm.

Cánh Buồm không chỉ nghĩ và nói, Cánh Buồm làm. Sáu năm nay, lặng lẽ, bắt đầu hoàn toàn từ tay không, một nhà giáo già từng trải và không nguôi trằn trọc vì giáo dục, cùng một nhóm 6 người, rồi dần dần non 20 người rất trẻ trung, trong sáng và hăng hái, họ hình thành một tổ chức kỳ lạ, không một đồng xu tài trợ của Nhà nước, nghĩa là không tốn một đồng thuế của dân, không ai có đồng một lương của tổ chức, mỗi người tự tìm lấy cách riêng mà sống, họ căm cụi làm việc, tận tụy, thiện nguyện, thậm chí khó nhọc xin mãi để được làm không công. Và họ đã cho ra đời sản phẩm, hẳn là rẻ nhất trong tất cả các sản phẩm giáo dục từng có ở ta hiện nay: một bộ sách giáo khoa cấp I hoàn chỉnh hoàn toàn mới, theo quan điểm giáo dục hoàn toàn mới, với phương pháp hoàn toàn mới; và đang bắt tay làm tiếp sách cho cấp 2. Song song là một tủ sách dịch những tác phẩm kinh điển quan trọng nhất về tâm lý giáo dục …

Cái mới đương nhiên bao giờ cũng gợi tranh cãi, chính vì thế mà nó là cái mới. Qua việc trao giải hôm nay, Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh trân trọng bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ của mình đối với Cánh Buồm, đường hướng cơ bản và công việc thật tốt đẹp của nó, cũng là để nói lời cảm ơn đối với nhà sư phạm lão thành đáng kính Phạm Toàn cùng các thành viên trẻ cũng rất đáng kính trọng của nhóm ông.

Thưa …
Chúng ta đều biết trong văn hóa có một vấn đề lớn và sâu là mối quan hệ biện chứng, tinh tế, phong phú và phức tạp, tác động lẫn nhau giữa bộ phận gọi là bác học được coi là ở bên trên và phần gọi là dân gian ở bên dưới. Trong đó, một trong những khía cạnh quan trọng là khi ở tầng bên trên có những xao động, bất ổn định, rối ren …, thì chính ở bên dưới, trong văn hóa dân gian lại là nơi gìn giữ, bảo toàn những giá trị căn bản, lâu dài, thậm chí cho những khả năng và cơ hội phục hưng. Trong dân gian, những giá trị đó thường tản mác, không chỉ để nhìn thấy, phát hiện chúng, mà ngay cả để hiểu thấu và cả gìn giữ chúng, cần có những chuyên gia uyên thâm và tâm huyết đến mức hiến trọn vẹn cả một cuộc đời dài cho chúng. Hôm nay Quỹ Văn hóa của chúng ta rất vui mừng và vinh dự được tôn vinh đúng một một con người như vậy, Nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo.

Trước hết, tôi xin phép được đề nghị trong đêm vui này tất cả chúng ta cùng chúc mừng Đại thọ Nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo. Năm nay ông đã 98 tuổi. Nếu Phan Huy Vịnh ca ngợi người kỹ nữ tài ba “học đàn từ thưở 13”, thì còn sớm hơn, Nguyễn Vĩnh Bảo học đàn từ năm lên 7, và từ đó, gần tròn 90 năm từng ngày gắn bó với đờn ca tài tử Nam Bộ như chưa từng có bất cứ một người nào làm được như thế. Ông là một trong những nghệ sĩ hàng đầu của nền nghệ thuật độc đáo này. Nhà nghiên cứu âm nhạc nổi tiếng Trần Văn Khê gọi ông là “Đệ nhất danh cầm”, biết sử dụng ở trình độ cao tất cả các nhạc khí chính của đờn ca tài tử, đặc biệt đặc sắc với đàn Tranh và đàn Kìm (đờn nguyệt) “có ngón đàn điêu luyện, gân guốc và sâu sắc”, đã từng hòa đờn cùng các danh cầm lớn nhất, biết rõ lai lịch của hầu hết nhạc sĩ, nhạc sư cả miền Nam. Một tượng đài, nói thế không hề quá đâu, và một pho sử sống của đờn ca tài tử Nam Bộ.

Nhà nghiên cứu âm nhạc, GS.TS Nguyễn Tuyết Phong thì gọi ông là “Người bảo vệ cuối cùng của truyền thống”. Về mặt này, Nguyễn Vĩnh Bảo cũng cho chúng ta những bài học thật sâu sắc. Bảo vệ không chỉ, không phải là gìn giữ khư khư. Bảo vệ phải đi cùng với sáng tạo, bằng sáng tạo. Bảo vệ không mâu thuẫn với phát triển, bảo vệ để phát triển, phát triển để mà bảo vệ. Đương nhiên chỉ có thể làm được điều đó khi và chỉ khi có một tình yêu tha thiết và một hiểu biết uyên thâm đối với di sản; có lẽ còn hơn thế nữa, cả một hiểu biết rộng rãi âm nhạc thế giới. 

Chính trên cơ sở như vậy mà Nguyễn Vĩnh Bảo đã vượt qua lối ký âm theo solfège phương Tây, sáng tạo ra cách ký âm đặc biệt rất tinh vi cho nhạc khí Việt Nam theo phong cách “tablature” – như cách gọi của GS Trần Văn Khê, hoàn toàn thích hợp với nhạc dân tộc Việt; lại kết hợp linh hoạt, tinh tế với cách truyền khẩu, truyền ngón riêng độc đáo trong đời sống âm nhạc truyền thống của người Việt.

Ông còn là nhà sáng tạo nhạc khí tài năng; là tác giả đầu tiên của cây đàn tranh 17 dây (để về sau có thêm những cây đàn tranh 19, 21, 25 dây). “Đờn tranh Vĩnh Bảo” hoàn chỉnh, đặc sắc, nổi tiếng đến mức được nhà thanh học lừng danh Émile Leipp coi là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc thanh học (accoutisme) và thậm chí được sánh với Violon Stradivarious huyền thoại của phương Tây.

Nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo có hàng trăm học trò trong nước và trên khắp thế giới; cách truyền dạy của ông cũng rất sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyển lối truyền khẩu, truyền ngón dân gian Việt Nam với lối dạy hiện đại hàm thụ qua thư từ và internet, hoặc giảng dạy trực tiếp ở nhiều trường đại học nước ngoài, Paris, Tokyo, Singapour, Illinois… Năm 2008, Tổng thống Pháp đã trao tặng ông Huy chương Officier des Arts et des Lettres, Hiệp sĩ Nghệ thuật và Văn chương. Ông thật xứng đáng với danh hiệu ấy.

Xin chúc mừng Nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo, lần nữa xin kính chúc ông đại thọ, vượt ngưỡng trăm tuổi, mãi cường tráng trong sự nghiệp sáng tạo đẹp đẽ của mình.

Thưa …,
Ở trên, chúng ta đã nhắc lại cùng nhau rằng hoạt động đầu tiên của Quỹ Văn hóa chúng ta là một giải thưởng về dịch thuật. Hẳn như vậy là tất yếu. Chúng ta đi theo con đường Duy tân Phan Châu Trinh. Và nhìn lại mà xem, tất cả các trào lưu duy tân, ngay từ đầu thế kỷ trước, từ Nhật Bản, Trung Hoa, qua Việt Nam … đều bắt đầu bằng dịch thuật. Như là một quy luật, không thể khác. Để tồn tại và phát triển trong thế giới toàn cầu hóa và hội nhập ngày nay, càng phải coi trọng dịch thuật, nhất thiết phải đẩy mạnh không ngừng dịch thuật. 

Quỹ chúng ta có chủ trương, qua Tủ sách Tinh Hoa, cố gắng trong vòng nửa thế kỷ, trang bị cho mọi người Việt Nam, trong tiếng Việt, toàn bộ những tác phẩm lớn nhất của nhân loại, trước hết và chủ yếu về khoa học xã hội và nhân văn. 

Tham vọng lớn ấy từng ngày được thực hiện bởi những dịch giả tâm huyết, lặng lẽ từng ngày vật lộn trên từng con chữ – những ai đã từng lao mình vào công việc có người gọi là rất “bạc bẽo” này đều biết, đúng như vậy, khó nhọc kiên trì vật lộn trên từng con chữ – như những con ong chăm chút khó nhọc khui tìm tận đáy hằng trăm hàng nghìn đài hoa, tẩn mẩn vo tròn từng hạt phấn hoa, để kiên nhẫn góp nhặt từng chút, từng chút … tạo nên kho mật ngọt cho đời. Hôm nay chúng ta chào mừng và cám ơn một con người như vậy, dịch giả Nguyễn Nghị.

 Cũng như ở tất cả những người dịch nghiêm túc, đáng nói trước hết là ở cách ông chọn lựa những gì cần công phu đem lại cho xã hội ta hôm nay. Trong hoạt động trí tuệ và xã hội rộng lớn của mình, Nguyễn Nghị đặc biệt quan tâm đến lịch sử; và trong lịch sử đó, như nhận xét của một nhà nghiên cứu thường gần gũi ông, “ông có một sự mẫn cảm đặc biệt đối với những khía cạnh “bình thường” cụ thể của đời sống xã hội, theo chiều hướng “lịch sử xã hội”, nghĩa là bao hàm cả những khía cạnh kinh tế, xã hội và văn hóa của thường dân, chứ không chỉ bận tâm tới chiều kích chính trị của các sự kiện…”. 

Hãy xem một số tác phẩm ông chọn dịch: Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 18 và 19 của Li Tana, Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản của Max Weber, Các nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo của Hans Küng, Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII của Nguyễn Thanh Nhã, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XX của Lê Thành Khôi … Một đóng góp, một gợi ý rõ ràng và thuyết phục, chúng tôi nghĩ, thật sự có ý thức, cho một cách nhìn lịch sử khác với thói quen ở ta từ đã khá lâu, cho một lịch sử của đời sống thật, cụ thể, của nhân dân, trong tất cả hiện thực thường ngày và đích thực của họ. Không chỉ để nhìn nhận lại chân xác quá khứ, mà còn quan trọng hơn, cho “lịch sử” của chính hôm nay.

Mặt khác cũng còn có thể nhận ra sự tinh tường của Nguyễn Nghị qua những mốc tác phẩm ông chọn để tập trung nổ lực dịch: đấy đều là những công trình đánh dấu những cái mốc tư tưởng quan trọng trong các lĩnh vực sử học, triết học, thần học, xã hội học …Cách làm như vậy giúp người đọc tiếp thu tri thức lớn một cách có hệ thống. Một đóng góp không nhỏ cho phương cách tư duy về nền tảng tri thức chung, thật cần thiết cho tất cả những ai quan tâm.

Là một người có tri thức rộng, lại nắm vững nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhưng Nguyễn Nghị luôn coi “dịch là một thách thức to lớn” như chính ông nói, người dịch cần có trách nhiệm rất cao không chỉ với tác giả mà còn với người đọc, cả những thế hệ người đọc sẽ đến. Ông làm việc miệt mài, nhọc nhằn hằng nhiều năm cho mỗi cuốn sách dịch, coi công việc dịch cũng chính là công việc nghiên cứu, cẩn thận và chặt chẽ trên từng thuật ngữ, kiên trì lục tìm, tra cứu, không ngại trao đổi, hỏi han, luôn cố gắng diễn đạt trong một thứ tiếng Việt trong sáng và dễ hiểu nhất cả những khái niệm thường rất phức tạp của các khoa học xã hội …
Xin chân thành cám ơn dịch giả Nguyễn Nghị.

Thưa …,
Dường như giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh có một truyền thống đáng quý: nó đã giữ mình không bị thu hút vì những vẻ ngoài ồn ào, mà ngược lại thường tìm đến những nhân vật đặc sắc mà lẩn khuất. Năm 2009, giải dịch thuật đã được trao cho một người mà cho đến tận ngày trao giải toàn bộ hội đồng chấm giải và cả chính người đề cử chưa hề gặp mặt. Lần ấy dịch giả Lê Anh Minh được phát hiện, thẩm định và trao giải qua công trình dịch thuật công phu và rất xuất sắc: bộ Lịch sử triết học Trung Quốc nổi tiếng của Phùng Hữu Lan. Bản dịch ra tiếng Việt của Lê Anh Minh là bản dịch trọn vẹn ra tiếng nước ngoài đầu tiên của bộ lịch sử đã trở thành kinh điển này.

Năm nay giải nghiên cứu của chúng ta rất vui mừng được trao cho một người mà chắc giới nghiên cứu và học thuật rất ít khi được gặp mặt, học giả Phạm Hoàng Quân. Ông sống tận Cai Lậy, Tiền Giang, lặng lẽ sống và lặng lẽ làm việc. Suốt hơn hai mươi năm nay. Tập trung ráo riết vào một đề tài nóng bỏng: Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa. 

Thực ra cũng đã có một thời gian ngắn ông sống ở Sài Gòn, nhưng rồi không thuộc biên chế nào hết, công việc nghiên cứu không nuôi sống được nhà khảo cứu, ông lui về quê, một mình căm cụi làm việc trong những điều kiện hết sức khó khăn, xa các thư viện lớn, xa các hiệu sách, xa các cộng đồng nghiên cứu, thực sự là một nhà nghiên cứu độc lập, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng, nói vậy để biết rằng mặt khác cũng chính điều kiện khắc nghiệt đó lại tạo cho ông một tư thế độc lập độc đáo, đặc biệt quý trong nghiên cứu, nhất là với đề tài rất nhạy cảm ông đeo đuổi. Dường như độc lập, độc đảm là đặc điểm nổi bật của Phạm Hoàng Quân. 

Hầu như hoàn toàn tự học, chẳng có bao nhiêu bằng cấp, nhưng ông nắm chắc, am hiểu sâu sắc cổ ngữ Hán Nôm để có thể bao quát được nhiều sử liệu Trung Quốc, dùng chính lời của họ, sử liệu của họ để bẻ gãy ngụy luận của họ; lại đọc rộng trong tất cả các nguồn tư liệu khác, chăm chú nghiên cứu các công trình của những người đi trước; kết hợp với những chuyến tự mình khảo sát thực địa ở hầu khắp các tỉnh ven biển miền Trung, Phạm Hoàng Quân đã hoàn tất công trình “Hoàng Sa – Trường Sa – Nghiên cứu từ sử liệu Trung Quốc” dày gần 400 trang, gồm 14 bài nghiên cứu công phu, nghiêm túc, khách quan, chặt chẽ, sắc bén, có thể đưa ra đối thoại, tranh luận trên các diễn đàn quốc tế, “từ phân tích tổng quan đến khảo cứu những sử liệu tiêu biểu trong chính sử, phương chí, địa đồ … chứng minh rằng từ thời nhà Hán đến thời nhà Thanh Trung Quốc chưa từng quản lý và xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và vùng Biển Đông Việt Nam”.

Xin cho phép tôi, từ diễn đàn này, thay mặt tất cả chúng ta nói lời cám ơn đóng góp to lớn của nhà nghiên cứu độc lập Phạm Hoàng Quân.

Thưa quý vị,
Hôm nay chúng ta rất tiếc về sự vắng mặt của vị tân khoa của giải Việt Nam học 2015, GS. Keith Weller Taylor. Ông không đến được vì lý do sức khỏe. Keith Taylor là một trong những nhà Việt Nam học nổi tiếng nhất, cả ở Việt Nam cả ở nước ngoài. Ông cũng là một nhà Việt Nam học độc đáo, từ điểm xuất phát, đến con đường nghiên cứu Việt Nam học ông đã đi, các chặng khác nhau và những chuyển hướng trên con đường đó, và có lẽ cả ở sự gắn bó, gần gũi kỳ lạ của ông với giới nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam, những chuyển động bên trong nghiên cứu ấy.

Keith Taylor là cựu binh của chiến tranh Việt Nam. Sống sót sau chiến tranh, ông muốn nghiên cứu kẻ đã đánh bại mình. Họ là ai, họ đến từ đâu trong lịch sử thăm thẳm của nhân loại? Sự kết hợp của thân phận con người và thân phận lịch sử có lẽ đã thôi thúc Taylor, khiến ông trở thành người xông pha miệt mài trong lĩnh vực Việt Nam học trong suốt quãng đời của mình. Cuốn sách lớn đầu tiên của ông về Việt Nam có tên là The birth of Vietnam, viết năm 1983, được dịch là Việt Nam khai quốc

Ông đi tìm câu trả lời trong lịch sử bốn nghìn năm liên tục chống ngoại xâm phương Bắc của Việt Nam, mà ông coi là vốn có cội nguồn từ buổi mà ông gọi là thuở “khai quốc”, trong đêm mờ xa xăm của những huyền thoại, những huyền thoại được lịch sử hóa, từ những An Dương Vương, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ trăm trứng, Sơn Tinh Thủy Tinh, Tản Viên, Chử Đồng Tử …, khởi nguồn từ đấy và thống nhất xuyên suốt cho đến tận người Việt hôm nay đã đánh bại ông. Đến từ bên kia chiến tiuyến, vậy mà ông giống những người ở bên này một cách lạ lùng. 

Một nhận thức và thể hiện lịch sử đẹp đẽ, đơn tuyến, một mạch nhất quán xuyên suốt như vậy là cần thiết cho nhu cầu tuyên truyền động viên trong chiến tranh mất còn, và đã được giới sử học trong nước, ít ra cũng là số đông trong họ, chăm chú thực hiện. Đấy là khi – và điều này là hoàn toàn có thể hiểu – lòng yêu nước được lấy làm chuẩn thay vì khoa học. Còn ở Keith Taylor thì có thể đó là lòng khâm phục, và cả tình cảm kinh ngạc nữa. Có người đã gọi đấy là “Kẻ chiến bại hát theo giọng của người chiến thắng”; hoặc nghiêm trọng hơn, “một biểu hiện di thực của chủ nghĩa quốc gia dân tộc (từ Việt Nam) ra nước ngoài”.

Nhưng là nhà khoa học nghiêm khắc, Keith Taylor đã không dừng lại ở đó. Cũng có thể hiện thực thế giới và hiện thực Việt Nam hậu chiến đã đánh thức dậy trong ông một nhu cầu chuyển động nhận thức quan trọng. Năm 2003 ông viết một tác phẩm lịch sử mới về Việt Nam với cái tên có thể hơi lạ; không phải The History of Vietnam – Lịch sử Việt Nam, mà là A history of the Vietnamese – Một lịch sử của người Việt Nam. Ông đã hoài nghi những gì mình viết năm 1983. 

Ông nói: “Quyển sách (kia) của tôi in 20 năm trước rồi. Trước kia tôi chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia, tôi đã nghĩ rằng không có (khác biệt) quan điểm quan trọng gì giữa thời cận đại và thời quá khứ… Cho nên, (nay) tôi nghi ngờ về ý kiến phát triển lịch sử liên tục, một lịch sử thống nhất liên tục, tức là lịch sử của một nhóm lấy quyền hành chính trị muốn dùng chuyện lịch sử để giảng dạy và tuyên truyền dân chúng phải theo chính sách quốc gia của chính phủ. 

Lịch sử thống nhất liên tục là lịch sử bị chính trị hóa, không là lịch sử khoa học.”[1] Trong cuốn sách mới của mình, ông dã dùng 30 trang để xóa hết những gì mình đã viết bằng tưởng tượng suốt 400 trang trước kia. Lần này lịch sử Việt Nam được bắt đầu bằng chương An Dương Vương, chứ không phải chương “Lạc hầu”. Ông viết: “Nhu cầu truy tầm nguồn gốc trong quá khứ xa xăm là nỗ lực nhận thức chung của nhiều dân tộc ở mọi thời điểm và mọi không gian… Nhưng nhu cầu bức thiết kết nối với quá khứ đó chỉ là một ham muốn chứng thực tự thân, chứ không phải là nỗ lực học thuật”. 

Ông cũng nói: “Tôi tin rằng, công việc của giới sử học là nhìn vào những gì may mắn còn sót lại từ quá khứ trong mối quan hệ tương hỗ với sự tồn tại của những người đương thời, chứ không phải là bằng chứng về những người được coi là tổ tiên của người hôm nay. Quá khứ Việt Nam không thể hiện một logic tự thân cho sự phát triển dẫn đến hiện tại.” Vì vậy “trong cuốn sách này, tôi kết hợp một tự sự chính trị theo tuyến tính lịch đại, với trình bày theo đề mục thuyết minh và thảo luận về địa lý, giáo dục, tư tưởng, ngôn ngữ, văn học, tôn giáo, xã hội, chính quyền, kinh tế, và chiến tranh… Như một thám sát hoa tiêu, cuốn sách này cung cấp một điểm vào/ một lối vào lịch sử Việt Nam, và chưa thể phát quật hết khối sử liệu đã tạo nên những ý tưởng của tôi. 

Nó hy vọng sẽ cung cấp những phác thảo về quá khứ người Việt bằng việc sử dụng các thông tin về chính trị, hành chính, kinh tế, và văn hóa”.  Đấy là một lịch sử Việt Nam với tính đa diện, đa chiều của nó, lịch sử Việt Nam không phải chỉ là lịch sử của chiến tranh chống ngoại xâm, lịch sử của chính trị với vua chúa và quan lại, mà còn là lịch sử của thơ ca, nghệ thuật, của thương mại, của đời sống thật và thường nhật của con người, của nhân dân, của “người Việt Nam” như tên sách mới của ông, con người thật với vô số hay và dở, được và thiếu, thịnh và suy, thành công và thất bại, thường thắng lợi huy hoàng trong chiến tranh mà nhọc nhằn thất bại trong xây dựng … 

Một cuốn sách như vậy không chỉ “tường thuật”, ngợi ca, mà đặt vấn đề, tất sẽ gây tranh cãi, thậm chí gay gắt. Nhưng đấy là cuốn sách của một người thật sự yêu đất nước này, muốn hiểu nó tận cùng như hiểu chính mình, để cho đất nước anh hùng mà khổ đau này sống được thật đàng hoàng trong thế giới xiết bao khó nhọc ngày nay.
Xin cám ơn Keith Weller Taylor, vì tình yêu chân chính và nổ lực trằn trọc của ông cho khoa học lịch sử Việt Nam, cho Việt Nam.
Thưa quý vị,
Như Chủ tịch Nguyễn Thị Bình đã tuyên bố trong lời khai mạc, bắt đầu từ năm nay Quỹ Văn hóa của chúng ta có thêm một hoạt động thường niên quan trọng: Tôn vinh những Danh nhân văn hóa Việt Nam thời hiện đại. Chúng tôi xác định “Thời hiện đại” ở đây, trong chương trình này, là bắt đầu từ khi có chữ quốc ngữ, và cho đến năm 1945. Với thời kỳ Hán Nôm trước đó, có lẽ các giá trị văn hóa đã được xác định khá rõ, đã khá ổn định. Với thời kỳ sau 1945, Nhà nước Việt Nam bằng nhiều cách đã thường xuyên làm công việc này. 

Qua chương trình của Quỹ chúng ta, chúng ta muốn đóng góp vào việc dựng lại một cách ngày càng cố gắng đầy đủ, khách quan, công bằng hơn những giá trị văn hóa, nhiều khi rất lớn của thời kỳ vừa nói trên, do những điều kiện lịch sử, xã hội, chính trị nhất định, đã không được minh định thích đáng. Đây là một công việc khó khăn nhưng thật hết sức cần thiết, cần sự chung trí, chung tay của toàn xã hội. Chúng tôi dự định làm lần lượt, không nhất thiết theo đúng thứ tự biên niên. Đối với mỗi nhân vật được tôn vinh sẽ xây dựng hồ sơ đầy đủ, xuất bản hoặc tái bản các công trình của các vị và về các vị, tổ chức những tọa đàm rộng rãi, tìm học bổng cho những nghiên cứu sâu hơn về từng vị, ở cấp tiến sĩ …

Năm nay, để mở đầu, chúng tôi đề nghị rước vào ngôi đền Pathéon của chúng ta ba vị Trương Vĩnh Ký, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Với sự giúp đỡ của các chuyên gia, chúng tôi đã chuẩn bị các ấn phẩm dày dặn về từng người, rất tiếc không in kịp cho hôm nay. Tối nay chỉ xin tạm gửi đến quý vị một bài viết khá đầy đủ của Nguyễn Văn Tố về Trương Vĩnh Ký, và hai bài ngắn gọn về Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu.

Xin nói đôi lời về Trương Vĩnh Ký.
Ông sinh năm 1837 và mất năm 1898, hai năm trước khi kết thúc thế kỷ 19.

Trước hết, đấy là một nhà bác học, nhà bác học lớn đầu tiên của Việt Nam ở thời hiện đại. Jean Bouchot bấy giờ gọi ông là “nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và cho đến cả Trung Hoa hiện đại nữa”. Theo Bouchot, “người dân hoàn toàn Nam Kỳ ấy sánh kịp với các nhà thông thái xứng đáng nhất của châu Âu trong đủ ngành khoa học”. Một đánh giá không hề quá.

Trương Vĩnh Ký là một thiên tài về ngôn ngữ học. Một vị giáo sĩ một lần đến thăm ông thấy ông nói thành thạo và một cách sang trọng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào nha, Hy Lạp … và nhiều ngôn ngữ phương Đông Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Mã Lai … Và buổi chiều khi từ giã ông thì lại thấy một nhà truyền giáo đến thảo luận với ông về thần học bằng tiếng La Tinh … 

Ông học ngoại ngữ ở Chủng viên Pénang, và tự học. Ông còn am hiêu sâu, hết sức cập nhật và với một đầu óc độc lập, cực kỳ nhạy cảm và sáng tạo những vấn đề lý thuyết ngôn ngữ học mới nhất đương thời. Ông thành thạo hàng chục ngôn ngữ và hiểu sâu sắc các nền văn hóa và văn minh đằng sau các ngôn ngữ ấy.

Năm 1886, coi là đã xong công cuộc bình định, Pháp đưa Paul Bert, một nhà bác học, viện sĩ Viện Hàn lâm sang làm toàn quyền Đông Dương. Đã biết và khâm phục Trương Vĩnh Ký từ khi gặp ông ở Pháp cùng phái đoàn Phan Thanh Giản, Paul Bert mời ông ra Huế, sung vào nội các Nam triều, với mục đích giúp người Pháp hiểu Việt Nam, và người Việt Nam hiểu Pháp, cũng là tâm nguyện của Trương Vĩnh Ký. 

Nhưng chỉ 7 tháng sau Paul Bert chết đột ngột vì bệnh tả. Lạc lõng giữa một đám thực dân khinh khỉnh và cao ngạo, một đám quan lại Nam triều hèn mọn, hiềm khích, Trương Vĩnh Ký bỏ về. Và từ đấy cho đến khi qua đời, ông đã cống hiến toàn bộ tài năng và công sức của mình, mà Nguyễn Văn Tố gọi là một “lao động mênh mông”, cho công cuộc văn hóa, tập trung nhiều nhất cho việc nghiên cứu, phân tích với một trình độ chuyên môn uyên bác về ngôn ngữ học và các khoa học tinh tế liên quan đến văn học và nghệ thuật, và chuyển ngữ các tác phẩm ưu tú nhất trong gia tài văn học dân tộc mà ông thiết tha yêu quý. 

Ông là người đầu tiên chuyển dịch Truyện Kiều ra quốc ngữ. Ông để lại hơn trăm tác phẩm nghiên cứu và sáng tác về văn học Việt Nam, về ngôn ngữ học, về lịch sử, về sư phạm …, cả những tác phẩm mô tả sinh động hiện thực xã hội Việt Nam đương thời, một gia tài mênh mông mà chắc chắn chúng ta có nhiệm vụ phải tận khai, cho cả hôm nay.

Trương Vĩnh Ký đã sống trong một thời kỳ xáo động và đã trải một cuộc đời đẹp đẽ mà cũng lại có nét éo le, bi tráng. Ngay khi phải sống và làm việc cho Pháp, ông vẫn nhắc câu châm ngôn”Sic vos non vobis” – Ở với họ mà không theo họ. Sưu tầm, chú thích bản Gia Định thất thủ vịnh, ông gọi rõ ràng Tây là “giặc”. Ông phản đối quyết liệt chủ trương có màu sắc đồng hóa của chính quyền thực dân muốn đưa tất cả những người Việt là thuộc dân (sujet français – tức dân thuộc địa Nam Kỳ và ba thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) vào quốc tịch Pháp, tự mình suốt đời nhất quyết chỉ giữ quốc tịch Việt Nam. Học giả Vương Hồng Sển viết: Trương Vĩnh Ký ở “gần bùn mà chẳng nhuốm mùi bùn, không ham “đục nước béo cò” như ai, chỉ say đạo lý và học hỏi, sống đất Tào mà lòng giữ Hán, thác không tiếng nhơ…”.
Nhà bác học Trương Vĩnh Ký xứng đáng là một trong những danh nhân đầu tiên làm vinh dự cho ngôi đền văn hóa của chúng ta.

Hôm nay chúng ta cũng rước vào Panthéon của chúng ta hai nhà chí sĩ yêu nước lớn nhất của Việt Nam đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Hai nhân vật chính trị và văn hóa kỳ vĩ, và cũng thật kỳ lạ. Là đồng chí, đồng tâm, gắn bó sâu sắc, hiểu nhau đến tận cùng, thương yêu, kính trọng và bảo vệ nhau hết mực; nhưng cũng lại hết sức khác biệt, đến gay gắt, trong chủ thuyết cứu nước và cực kỳ thẳng thắn trong khác biệt đó. Một thái độ văn hóa chính trị mẫu mực, chỉ riêng điều này thôi hẳn cũng đã đáng để chúng ta hôm nay trân trọng suy nghĩ.

Phan Bội Châu, mà có thể nói mỗi từ, mỗi chữ trong những trước tác thống thiết của ông dường như không chỉ được viết bằng nước mắt mà thật sự bằng máu, mỗi tác phẩm đều là một “huyết lệ thư”, khăng khăng chủ trương “thiết huyết”, bằng mọi cách dùng bạo lực vũ trang để giành cho kỳ được độc lập. Tranh luận với Phan Châu Trinh về mục tiêu hàng đầu dân chủ, ông nói: “Có dân đâu mà chủ!”.Chưa độc lập, lấy đâu ra dân mà chủ.

Phan Châu Trinh coi độc lập là tất yếu cần thiết, nhưng là một đoạn, một bước, có thể trước có thể sau, của một mục tiêu cơ bản và lâu dài hơn là phát triển, cùng với thế giới, với nhân loại, bởi vì ông là người đầu tiên nhận ra thật rõ rệt, rằng thế giới đã khác, như cách nói ngày nay, thế giới đã là thế giới toàn cầu hóa, hồi bấy giờ là cuộc toàn cầu hóa lần thứ nhất. 

Dù bằng cách nào đó giành lại được độc lập, mà dân vẫn ngu dốt, dân tộc chưa được làm lại thành dân tộc văn minh, thì độc lập cũng vô nghĩa và không thể vững chắc. Có dân mà dân ngu dốt, tăm tối, thì dân để làm gì? Ông đáp lại. Ông nói: “Dân trí đã mở, trình độ ngày một cao, tức là cái nền độc lập ngày sau đấy”. Giải pháp hàng đầu của ông do vậy tất yếu là khai dân trí. Bất bạo động mà khai dân trí. Có lẽ cách nói của Hoàng Xuân Hãn đúng và rõ hơn: Phan Châu Trinh chủ trương một cuộc cách mạng tân văn hóa …

Lịch sử hiện thực đã đi theo con đường của Phan Bội Châu. Chiến tranh anh hùng và khốc liệt đã đem lại độc lập. Nhưng, lạ thay, mà cũng hay thay, có lẽ với thời gian, với hiện thực hậu chiến, những câu hỏi cháy bỏng mà dở dang của Phan Châu Trinh nay lại được đặt ra. Vẫn nóng bỏng như một trăm năm trước.

Như vậy ngôi đền danh nhân của chúng ta không chỉ là để tôn thờ, mà còn để tiếp tục suy tưởng cho chính hôm nay. Như bao giờ cũng vậy, những nhà tư tưởng và văn hóa lớn, cỡ Trương Vĩnh Ký, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu … còn sống mãi vì tính thời sự kỳ diệu và kỳ lạ của họ, từng lúc lại thức dậy, tinh khôi và sống động trong cuộc sống phát triển …
Thưa quý vị,
Đến đây tôi nghĩ tôi có thể được phép nói rằng, bằng nỗ lực chung, năm nay một lần nữa chúng ta đã có một giải thưởng và một hoạt động tôn vinh đẹp đẽ và thành công. Thay mặt Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh, tôi xin chân thành cám ơn sự chỉ đạo chặt chẽ và sáng suốt của Bà Chủ tịch kính mến, xin cám ơn các vị tân khoa bằng sự nghiệp và các công trình của mình đã mang lại uy tín và giá trị cho giải thưởng của chúng ta, xin cám ơn các thành viên Hội đồng Quản lý và Hội đồng Khoa học, và các chuyên gia phản biện đã tận tụy và sáng suốt giúp chúng tôi trong công việc xét chọn, cám ơn các bạn ở IRED đã rất tích cực chăm lo thật chu đáo mọi việc tổ chức, cám ơn các nhà tài trợ đã đồng hành cùng chúng tôi, cám ơn Khách sạn Caravelle đã tạo cho chúng ta đêm nay một không gian văn hóa thật đẹp và đầm ấm.
Xin chúc sức khỏe tất cả chúng ta, xin cám ơn, và xin hẹn gặp lại đúng ngày này năm sau.

[1]Bài phỏng vấn BBC (London). 26-6-2003. Nguồn link: www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/…/030912_keithtaylor.shtml

Tác giả gửi BVN

__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Featured post

Lisa Pham Vấn Đáp official 8/6/2023

Popular Posts

Popular Posts