Thư số 41 gởi:
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
Phạm Bá Hoa
Tôi chào đời
năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh
do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này
đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”.
Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa
chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn
tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà
tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn
nguyên vẹn trong tôi. Tôi không hận thù lãnh đạo Các Anh, nhưng tôi không
bao giờ quên quá khứ đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ Quốc và Dân Tộc! Vì
vậy mà tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương
tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
Xin gọi
chung Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam là Các Anh để tiện xưng hô. Chữ
“Các Anh” viết hoa, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo
cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người
Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc
Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản
hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung
tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Nội dung thư
này, một lần nữa, tôi muốn Các Anh nhìn ra Biển Đông, đúng hơn là nhìn hai căn
cứ quân sự Trung Cộng đã hoàn thành trên quần đảo Hoàng Sa, sắp hoàn thành trên
quần đảo Trường Sa, và thử tìm giả thuyết về sự kiện nào xảy ra đối với an ninh
của Việt Nam khi hai căn cứ quân sự đó hoạt động.
Thứ nhất. Trung Cộng với tham vọng Biển Đông.
(trìch trong
Wikipedia) Biển Đông với diện tích 2.974.100 cây số vuông, lớn hàng thứ 5 trong
số 10 đại dương, được xem là đường hàng hải chiến lược từ Đại Tây Dương và Ấn Độ
Dương qua eo biển Malacca đến một số quốc gia ven Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco về Hiệp Ước Hòa Bình với Nhật Bản, Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu, chánh thức tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc
lãnh thổ Việt Nam. Sau lời tuyên bố đó, hội nghị không có lời kháng nghị hay bảo lưu nào từ 51 nước tham dự.
Trung Cộng gậm
nhấm quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1956, Trung Cộng
lợi dụng thời gian Việt Nam chưa kịp trấn đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong khi quân Pháp rút khỏi Đông Dương,
đã âm thầm đưa quân chiếm giữ nhóm đảo An Vĩnh phía đông quần đảo này, trong số
đó có đảo Phú Lâm và đảo Linh Côn.
Ngày 4/9/1958, Trung Cộng
phổ biến bản Tuyên Bố mở rộng vùng lãnh hải lên 12 hải lý, trong đó có quần đảo
Hoàng Sa (Trung Cộng gọi Tây Sa) và quần đảo Trường Sa (Trung Cộng gọi Nam Sa)
của Việt Nam.
Ngày 14/9/1958, Thủ Tướng
Việt Cộng Phạm Văn Đồng ghi nhận và tán thành bản tuyên bố nói trên của chính
phủ Trung Cộng..
Năm 1961, chánh phủ Việt
Nam Cộng Hòa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, và đặt
trực thuộc tỉnh Quảng Nam.
Trong thời gian 1964-1970, Hải Quân Việt Nam Cộng
Hòa và Hải Quân Trung Cộng thường chạm súng nhau trong hải phận Hoàng Sa, nhưng
không đưa đến thương vong.
Tháng 2/1972, Tổng Thống
Hoa Kỳ Richard Nixon thăm Trung Cộng và họp với Mao Trạch Đông. Sau đó, hai bên
mở văn phòng liên lạc, rồi tiến đến thiết lập bang giao.
Năm 1973, sau Hiệp Định
Paris, Hoa Kỳ rút quân ra khỏi khu vực quần đảo Hoàng Sa, và từ đó quân lực Việt
Nam Cộng Hòa trấn giữ.
Trung Cộng chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 11/1/1974, Bộ Ngoại
Giao Trung Cộng ra tuyên bố, hai quần đảo Hoàng Sa và, Trường Sa là lãnh thổ của
họ, và họ tố cáo Việt Nam Cộng Hòa chiếm đóng hai quần đảo của họ. Lập tức,
chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố khẳng định Hoàng Sa Trường Sa là lãnh thổ
của Việt Nam, đồng thời bác bỏ những cáo buộc của Trung Cộng.
Ngày 16/1/1974, khi
phái đoàn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa trong việc
chuẩn bị xây dựng phi trường dành cho phi cơ vận tải C7 Catibou, thì phát giác
Trung Cộng đã đổ quân lên các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hoà, và Duy Mộng,
dưới sự yểm trợ của các chiến hạm ngoài khơi.
Ngày 18/1/1974, Mao Trạch
Đông ra lệnh cho Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình, trực tiếp chỉ huy trận đánh
quần đảo Hoàng Sa. Trong khi đó tại Hoàng Sa, chiến hạm của Việt Nam Cộng Hòa với
Trung Cộng ghìm nhau.
Ngày 19/1/1974, trận
chiến Hoàng Sa bùng nổ. Và ngày 20/1/1974, quân Trung Cộng chiếm toàn bộ
quần đảo Hoàng Sa.
Trung Cộng chiếm một phần quần đảo Trường Sa.
Năm 1988, Hải Quân Trung
Cộng lần lượt chiếm các đảo sau đây: (1) Ngày 31/1 chiếm bãi Đá Chữ Thập
(Trung Cộng gọi là Vĩnh Thử). (2) Ngày 18/2 chiếm đảo Châu Viên. (3)
Ngày 20/2 chiếm Ga Ven. (4) Ngày 28/2 chiếm đảo Huy Cơ. (5) Ngày
23/3 chiếm Xu Bi.
Năm 1995, theo bản tin của Reuter thì Trung Cộng chiếm Đá Vành Khăn
phía Đông Trường Sa. Họ tuyên bố sẽ dựng lên các lều cho ngư dân tránh
bão. Nhưng sự thật thì Trung Cộng xây dựng căn cứ yểm trợ cho Hải Quân của họ. (hình
Đá Vành Khăn với căn cứ của Trung Cộng).
Trong hình, có 3 hay 4 cấu trúc kiên cố đã được xây dựng
từ trước trên Rạng Vành Khăn (Mischiefs). Một số cấu trúc được nhìn thấy
lớn như một khách sạn đồ sộ. Chuỗi các tiền đồn kiên cố sẽ hỗ trợ cho các
cấu trúc trên rạng Đá Ngầm Vành Khăn để Trung Cộng kiểm soát đường lưu thông
hàng hải, đặc biệt để theo dõi các chiến hạm của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ.
Ngày 7/5/2009, Trung Cộng
đệ trình Liên Hiệp Quốc một bản đồ có hình dáng chữ U và kèm theo lời dẫn. Theo
đó, họ tự nhận chủ quyền trên Biển Đông, bao gồm ba quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa, Đông Sa, và bãi Macclesfield xấp xỉ 80% hay là khoảng
2.379.928 cây số vuông, thuộc diện tích hợp pháp vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam, Philippines, Bruney, và Malaysia. Liên Hiệp Quốc không công nhận vì Trung
Cộng không trưng dẫn được bất cứ văn kiện nào khả dĩ chứng minh chủ quyến của họ.
Nhưng từ đó Biển Đông dậy sóng, không phải từ thiên nhiên, mà là từ Trung Cộng,
một quốc gia luôn luôn là kẻ thù của dân tộc Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa đến
thời cận đại và đương đại.
Ngày
3/9/2009, bản tin trên Bưu Điện Hoa Nam tại Hong Kong
loan tin: “Hà Nội đã hai lần mời viên chức ngoại giao cao cấp của
Trung Quốc đến Bộ Ngoại Giao để bày tỏ quan ngại về tài liệu -tuy không
phải chính thức- nhưng khiến giới ngoại giao và quân sự Việt Nam cảnh
giác. Theo đó, Trung Quốc dọa sẽ đánh chiếm Việt Nam trong vòng 31 ngày với
310.000 quân xuất phát từ Vân Nam, Quảng Tây, và Nam Hải”. Trong khi trên
trang web <China.com> có bài nói về nguyên nhân mà Trung Cộng phải
đánh chiếm Việt Nam, vì: “Việt Nam là mối đe dọa chính đối với an ninh
lãnh thổ của Trung Quốc, là trở ngại lớn nhất đối với sự trổi dậy của Trung Quốc.
Việt Nam cũng là đầu mối và trung tâm chiến lược của toàn bộ khu vực Đông Nam
Á. Muốn kiểm soát lại Đông Nam Á, cần chinh phục Việt Nam. Nói cách khác, từ
mọi khía cạnh, Việt Nam là cái xương khó nuốt”.
Căn cứ quân sự tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 8/10/2014, đài Á
Châu Tự Do trích bản tin của Tân Hoa Xã, theo đó thì Trung Cộng đã hoàn
thành một sân bay trên đảo Phú Lâm trong Nhóm Đảo An Vĩnh thuộc quần đảo Hoàng
Sa, với đường băng dài 2.000 thước. Bài báo trên Tân Hoa Xã viết rằng: “Đường
băng mới xây tại đảo Phú Lâm là đảo lớn nhất của Hoàng Sa, sẽ nâng cao khả năng
quốc phòng của Trung Quốc ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”. (hình đảo Phú
Lâm)
Đảo Phú Lâm, nơi có
căn cứ quân sự của Trung Cộng, cũng là nơi có cơ quan hành chánh thành phố Tam
Sa. Tại căn cứ quân sự này, Trung Cộng có một hệ thống tuần duyên mà họ nói mục
đích là bảo vệ quyền chủ quyền quốc gia của họ.
Theo Giáo Sư Nguyễn Văn Canh, từ căn cứ đảo Phú Lâm xuống đến Bãi Đá Ngầm Gạc
Ma khoảng 800 cây số. Rất có thể vì khoảng cách đó không giúp cho điều mà Trung
Cộng gọi là bảo vệ hữu hiệu chủ quyền quốc gia trên biển mà thật ra là
tham vọng của họ, nên họ âm thầm sử dụng tàu Tian Jiang Hao dài 127 thước, với
khả năng hút 4.500 tấn cát trong mỗi tiếng đồng hồ, và 2 tàu nữa để hút cát bồi
lấp Bãi Đá Ngầm Gạc Ma và 4 rạng đá ngầm lân cận từ tháng 9/2013 đến tháng
6/2014 thành đảo nổi.
Ngày 5/5/2014, với bản tin trên tờ Hoàn Cầu
Thời Báo, Trung Cộng đã bồi lấp Đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường
Sa, trên đó sẽ có một phi trường cho Không Quân và một hải cảng cho Hải
Quân. Sau đó, một cơ quan truyền thông khác tại Trung Cộng loan tin rằng:
“Đảo Gạc Ma là trạm cung cấp đồ tiếp liệu cho các ngư phủ. Các văn
phòng, doanh trại, và các nông trại, cùng một hải cảng đủ lớn để phục vụ cho
các tàu có trọng tải đến 5000 tấn, cũng sẽ xây dựng”.
Ngày 7/6/2014, tờ
South China Morning Post tường thuật rằng: “Trung Cộng đã biến đảo Gạc
Ma thành một đảo nhân tạo vĩ đại. Trên đó, phi trường và hải cảng riêng biệt
cho phi cơ, tàu quân sự, và tàu dân sự sẽ được xây dựng. Các nhà ở cho
thường dân, các cơ sở du lịch cũng được dự trù. Các tàu nạo vét tiếp tục hút
cát từ đáy biển phục vụ cho mục đích đó”.
Ngày 13/5/2014, Bộ Ngoại
Giao Phi Luật Tân tố cáo: “Trung Cộng đang xây cất một đảo nhân tạo mang tên
JSR (Gạc Ma), gồm cả một phi trường quân sự”.
Ngày 15/5/2014, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Cộng Hoa Xuân Oánh
đã tuyên bố: “Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi trên vùng này, kể cả rạng
san hô Gạc Ma. Vì thế, Trung Quốc có quyền xây dựng bất cứ công trình gì trên
đó”.
Ngày 25/10/2014, không ảnh chụp
được từ vệ tinh thương mại của Hoa Kỳ, cho thấy Trung Cộng đã gia tăng diện
tích đảo Đá Ngầm Chữ Thập từ 0,08 cây số vuông lên đến 0,96 cây số vuông, tức lớn
hơn 11 lần diện tích trước khi bồi lấp. Như vậy, diện tích đảo Đá Ngầm Chữ
Thập lớn hàng thứ 5 trên Biển Đông, sau các đảo Phú Lâm, Đông Sa, Linh Côn, và
đảo Tri Tôn. Đảo Đá Ngầm Chữ Thập, cách bộ chỉ huy Trường Sa của Việt Nam
khoảng 110 cây số, và cách đảo có bộ chỉ huy của Phi Luật Tân khoảng 225 cây số.
Ba hình này do vệ tinh của Airbus Defense chụp đảo Đá Ngầm
(Gaven) ngày 30/3/2014, 7/8/2014, và 30/1/2015, cho thấy việc xây đảo
nhân tạo ở bãi đá này đã mở rộng nhanh chóng. Đến ngày 30/1/2015 một
công trình tồn tại trước đó đã được nối vào đảo nhân tạo mới, và ít nhất một
bãi đáp trực thăng đã được xây dựng.
Ngày 27/1/2015, trang
<China.com> có bản tin cho biết, Trung Cộng đã hoàn thành việc mở rộng diện
tích bãi đá Chữ Thập lên tới 2.2 cây số vuông.
Ngày 15/2/2015, bản tin của tập san quốc phòng IHS
Jane’s Defence Weekly, đã công bố nhiều bức ảnh vệ tinh, cho thấy rõ là Trung Cộng
đã bồi lấp và đang xây dựng trên Đá Tư Nghĩa, Đá Gaven, và Đá Gạc Ma.thành căn
cứ quân sự. Các chuyên gia phân tách của Jane’s cho biết: ”Đá Tư Nghĩa (tên
quốc tế là Hughes Reef) trên nền một bãi đá ngầm diện tích chỉ khoảng 380 thước
vuông, thì nay Trung Cộng đã nạo vét hút cát bồi lấp thành đảo nhân tạo rộng
75.000 thước vuông”.
Theo chuyên gia James Hardy, những gì thấy trên Đá Tư
Nghĩa (Hughes Reef), cũng được thấy trên Đá Gaven (Gaven Reef) Đá Gạc Ma
(Johnson South Reef), Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) Đá Châu Viên( Cuarteron
Reef), Đá Én Đất( Eldad Reef) và Đá Vành Khăn (Mischief Reef), và ông kết luận:
“Chúng ta có thể thấy rằng, đây là cả một kế hoạch thận trọng trong mục đích
hình thành một chuỗi pháo đài phòng thủ trên không và trên biển, xuyên qua phần
trung tâm quần đảo Trường Sa”.
Ngày 18/2/2015, theo
The Diplomat online của Nhật Bản thì tuần trước, trong cuộc họp cấp chuyên viên
để chuẩn bị cho hội nghị cấp Bộ Trưởng Quốc Phòng ASEAN mở rộng dự trù vào
tháng 11/2015, Trung Cộng đã bác bỏ đề nghị của ASEAN muốn đưa Biển Đông vào
chương trình nghị sự. Hội nghị ASEAn mở rộng gồm Bộ Trưởng Quốc Phòng 10 nước
ASEAN cộng với Hoa Kỳ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Đại Hàn, Trung Cộng, Australia, và
New Zealand. Hội nghị ASEAN mở rộng đã họp năm 2010 tại Hà Nội, và năm 2013 tại
Bruney. Cuộc họp tới đây sẽ diễn ra tại Malaysia vào tháng 11/2015. The
Diplomat online nhận định rằng: “Thái độ của Trung Cộng không chấp nhận
thương thuyết đa phương, để dễ dàng bắt chẹt các nước quốc gia vừa nhỏ vừa yếu
đang tranh chấp, dưới nhóm chữ thương thuyết song phương”.
Ngày 18/2/2015, truyền
thông nhà nước Trung Cộng đồng loạt đưa tin như một lời đe dọa Việt Nam: “...
Không Quân từ Trung Quốc tấn công Hà Nội chỉ trong một giờ, và từ đảo Vĩnh Thử (Việt
Nam gọi Đá Chữ Thập) cũng chỉ một tiếng đồng hồ là tấn công thành phố Hồ Chí
Minh”. Khoảng cách đảo Chữ Thập cách Sài Gòn 487 cây số (trích trong
Google.vn).
Tóm tắt. Sau khi Trung
Cộng bắt tay được với Hoa Kỳ từ năm 1972, tham vọng của Trung Cộng khống chế Biển
Đông đã công khai với bản tuyên bố của họ vào ngày 11/1/1974 rằng, hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của họ mà không ai có quyền tranh cãi. Họ còn
ngược đến mức la hoãng với thế giới là Việt Nam Cộng Hòa đã chiếm đóng
hai quần đảo của họ. Rồi sau khi họ chiếm quần đảo Hoàng Sa 1974 và các rạng
san hô Đá Ngầm trong quần đảo Trường Sa 1988, họ âm thầm xây dựng căn cứ quân sự
trên đảo Phú Lâm (Hoàng Sa) và xây dựng căn cứ trên các Đá Ngầm (Trường Sa) sau
gần một năm bồi lấp trở thành đảo nổi. Cả hai căn cứ có phi trường, hải cảng,
doanh trại cho quân phòng thủ, kho tồn trữ, và những cơ sở điều hành.
Trong khi trong hội nghị ASEAN mở rộng ngày 18/2/2015 tại
Malaysia, theo báo Diplome online của Nhật Bản thì Trung Cộng gây sức ép ngăn
chận cuộc thảo luận đưa hồ sơ Biển Đông vào chương trình nghi sự cấp Bộ Trưởng
Quốc Phòng ASEAN mở rộng vào tháng 11/2015 sắp tới.
Vậy là, Trung Cộng vẫn giữ
chính sách thảo luận song phương với từng quốc gia liên quan trực tiếp đến Biển
Đông, để dễ dàng áp lực lên các quốc gia yếu thế hòng đạt đến tham vọng khống
chế Biền Đông. Và nếu có họp song phương giữa Việt Cộng với Trung Cộng, kết quả
sẽ là “giữ nguyên hiện tạng”, để rồi máy bay tuần duyên, máy bay chiến đấu, chiến
hạm trên mặt biển, tàu ngầm dưới mặt biển, hỏa tiển, ..v..v sẽ phải bất động,
vì thể nào lãnh đạo Trung Cộng cũng nhắc cho lãnh đạo Việt Cộng phải giữ lấy “đại
cục làm trọng” cùng với “phương châm 4 tốt và 16 chữ vàng”. Với nhóm chữ lấy “đại
cục làm trọng”, được hiểu rằng “gậm nhấm chỉ là tiểu cục, khi nào toàn cõi Việt
Nam vào tay Trung Cộng mới là đại cục”, mà khi nhận ra “đại cục” thì Các Anh nhận
thẻ căn cước bằng chữ Tàu đó nghe!
Tôi vào <Google.vn> thì tất cả báo online của Việt
Cộng, không một chữ nào nói đến Biển Đông, kể cả việc Trung Cộng phản đối đưa hồ
sơ Biển Đông vào chương trình hội nghị cấp Bộ Trưởng Quốc Phòng ASEAN mở rộng
vào tháng 11/2015, trong khi Tướng Nguyễn Chí Vịnh khoe là Việt Nam đã cử sĩ
quan tham dự phái bộ giữ hòa bình tại Sudan, và sắp cử sĩ quan tham gia phái bộ
giữ hòa bình tại Trung Phi!.
Vậy, Các Anh suy nghĩ gì? Ước tính của tôi là: “Khi Hải
Quân với Không Quân Trung Cộng từ hai căn cứ Hoàng Sa và Trường Sa tung hoành
vùng trời và vùng nước Biển Đông, các tổ chức dân sự và người dân sẽ biểu tình
chống Trung Cộng, dĩ nhiên là bị Việt Cộng đàn áp bắt giữ, trong khi lãnh đạo
Việt Cộng cũng lên tiếng phản đối như thông lệ, là “kiên quyết đòi hỏi .., khẳng
định lập trường ... trước sau như một,.. v..v... Rồi thể nào lãnh đạo Việt
Cộng với lãnh đạo Trung Cộng cũng tiếp xúc nhau, và kết quả sau cùng cũng là “giữ
nguyên hiện trạng”.
Và liệu, khi nào thì Trung Cộng tuyên bố “Vùng Nhận Dạng
Phòng Không” trên Biển Đông? Vì trên trang Học Giả Ngoại Giao của Nhật Bản ngày
10/01/2015, có bài viết lặp lại lời của người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung
Cộng đã tuyên bố: “Trung Quốc sẽ công bố vào thời gian thích hợp sau khi
hoàn thành các công việc chuẩn bị liên quan”.
Trong khi đó, viên Đại
Sứ Trung Cộng tại Philippines Mã Khắc Thanh, cũng ngang ngược nói rằng “Trung
Quốc có quyền quyết định thời gian và địa điểm thiết lập một vùng nhận dạng
phòng không mới”. Nhưng theo đài RFA ngày 21/2/2015 thì Giáo Sư Carl
Thayer, chuyên gia Quốc Phòng của Australia nhận định: “... Một trong những
yêu tố làm cho Trung Cộng còn ngần ngại thiết lập vùng nhận dạng phòng không,
là vì họ chưa thật sự đủ thực lực để buộc các nước khác tôn trọng khi họ chánh
thức tuyên bố”.
Định nghĩa. Vùng Nhận Dạng Phòng Không
(Anh ngữ là Air Defense Identification Zone, viết tắt tiếng Anh là ADIZ) là
vùng bầu trời do một quốc gia tự ấn định ra và đòi hỏi mọi máy bay dân sự xâm nhập
vùng này phải nhận dạng, minh định vị trí, và chịu sự kiểm soát của quốc gia
đó. Vùng nhận dạng phòng không, không đồng nghĩa với không phận nhưng được coi
như khu vực song hành với an ninh quốc phòng” (trích trong Wikipedia).
Các Anh có nhận điều lạ không? Điều lạ là trong khi Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Úc Đại Lợi, và Ấn Độ, lên tiếng phản đối với lo ngại đường hàng hải
quốc tế trong Biển Đông, thì lãnh đạo Việt Cộng im lặng hoàn toàn. Nhưng nếu
nhìn từ Trung Cộng, thì Việt Cộng “đúng hướng”.
Thứ hai. Một giả thuyết.
Ngay trước mắt, Việt Cộng phải đối mặt với sự đe dọa
nghiêm trọng bởi một chuỗi căn cứ quân sự của Trung Cộng, từ đảo Hải Nam phối hợp
với Hoàng Sa xuống đến Trường Sa. Điều này cho phép nhận định là Trung Cộng thường
xuyên tạo áp lực buộc lãnh đạo Việt Nam phải đúng hướng theo Biên Bản Hội Nghị
Thành Đô ngày 4/9/1990.
Giả thuyết.
Tôi căn cứ vào Biên Bản Hội Nghị Thành Đô mà tổ chức
Wikileaks phố biến vào giữa năm 2011, tài liệu trích trong Wikipedia, trích
trong hồi ký của cựu Thứ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Trần Quang Cơ, và trích
trong bản dịch hồi ký của cựu Thủ Tướng Trung Cộng Lý Bằng. Đồng thời, căn cứ
vào những sự kiện dưới đây mà tôi tin là sự thực hiện nội dung các tài liệu nói
trên:
(1) Năm 1999, lãnh đạo Việt Cộng giao cho Trung Cộng 789 cây
số vuông dọc biên giới Việt-Trung. Với các đỉnh cao nơi đây, là vị trí chiến lược
phòng thủ quốc gia
(2) Năm 2000, lãnh đạo Việt Cộng giao cho Trung
Cộng 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Bộ.
(3) Năm 2006, thành lập khu
kinh tế Vũng Áng, mà bà Nguyễn Thị Hải Vân, Cục Trưởng Cục Việc Làm/Bộ Lao Động
& Thương Binh Xã Hội xác nhận có 10.000 công nhân Trung Cộng trong tổng số
30.4000 công nhân. Vũng Áng, là một vị trí chiến lược trong phòng thủ quốc gia.
(4) Năm 2007, giao cho nhà thầu Trung Cộng khai thác Bauxite trên Cao
Nguyên Miền Trung, là một vị trì chiến lược trong phòng thủ quốc gia.
(5)
Từ năm 2011, các tỉnh đã lần lượt cho Trung Cộng thuê mướn 300.000 mẫu đất rừng
dọc biên giới phía bắc mà không biết họ sử dụng làm gì, vì họ cấm người Việt
Nam lai vãng. Trong khi đó, theo Giáo sư Vũ Cao Đàm (trong trang bô xít) thì có
khoảng 1.300.000 công nhân -hay lính Trung Cộng- tại tất cả các công trình lớn
nhỏ từ Quảng Ninh rãi rác khắp miền của đất mước đến tận Cà Mau.
(6)
Năm 2013, giao cho nhà thầu Trung Cộng xây dựng “khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế
Chân Mây-Lăng Cô”, ngay mõm phía bắc Vịnh Đà Nẳng, một vị trí chiến lược trong
phòng thủ quốc gia. Và ..v..v..
Từ những căn cứ nêu trên, giúp tôi hình thành giả thuyết:
“Trước mắt, Trung Cộng áp lực để có được một Bộ Chính Trị Việt Nam trong đại hội
vào năm 2016 khả dĩ không chệch hướng theo cách nhìn của họ.
Nếu không
thành công, Trung Cộng rút kinh nghiệm Nga bị khủng hoảng trên hồ sơ Ukraine, họ
sẽ không dùng quân đội đánh chiếm Việt Nam mặc dù không ngừng lên tiếng đe dọa,
nhưng Trung Cộng sẽ tạo áp lực đến mức Việt Cộng không thể có những phản
ứng mạnh trước những hành động gậm nhấm chủ quyền của họ trên Biển Đông. Trường
hợp Việt Cộng dựa vào các quốc gia thứ 3 -nhất là Hoa Kỳ- để chống lại Trung
Cộng một cách gián tiếp, và khi chống đối này dẫn đến một tình hình bất lợi cho
Trung Cộng, họ sẽ áp lực mạnh hơn để thay đổi nhân sự trong Bộ Chính Trị Việt
Nam cho “đúng hướng” của hội nghị Thành Đô.
Nếu vẫn chưa thành công,
Trung Cộng sẽ sử dụng nhiều chục ngàn “công nhân” của họ trên khắp lãnh thổ Việt
Nam với hành động có thể đến mức bạo loạn, cùng lúc với máy bay và tàu chiến của
họ biểu dương lực lượng dọc biên giới và dọc duyên hải Việt Nam, để họ mạnh tay
trực tiếp sắp xếp nhân sự cấp lãnh đạo trung ương của Việt Cộng như họ muốn. Có
thể nói, đó là một cuộc đảo chánh mà các quốc gia thứ 3 khó có lý lẽ để
can thiệp trực tiếp. Sau đó, để theo dõi sát lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước
Việt Cộng “hành động đúng hướng”, một lãnh đạo cao cấp của Trung Cộng sẽ
thường trực có mặt tại Việt Nam như viên Thái Thú của ngàn năm trước. Và khi
mà Trung Cộng nắm lãnh đạo Việt Cộng trong tay, họ sẽ khống chế mọi hoạt động
của đảng với nhà nước, và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông.
Kết luận.
Các Anh nghĩ gỉ thì nghĩ, nhưng:
Các Anh hãy nhớ, cựu Tổng Bí Thư Liên Xô Gorbachev đã từng
nói: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải
đau buồn mà nói rằng, đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.”
Các Anh đừng bao giờ quên lời của Đức Đạt Lại Lạt
Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng: “Cộng sản là loài cỏ dại, mọc
trên hoàng tàn của chiến tranh, là loài trùng độc, sinh sôi nẫy nở
trên rác rưởi của cuộc đời”.
Và cũng đừng bao giờ quên rằng: “Tự do, không
phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không
có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng
ta phải tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng.
Texas, tháng 3 năm 2015
Phạm Bá Hoa
~~~~~~~~~~~~~~~~~~
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks