Nguyen van Tung,
Backed
up si Tran đai Si cung 3 ong Vo Bi Dalat. Tai sao mai đên 40 nam sau các
ong moi len tieng? Biet thi thua thot khong biet thi dua cot ma nghe đung to ra
ta đây la nguoi ute phone tham uyen bác , khi ma HCM gia nhập đang CS
,quoc Truong and Bao Đai cung bao nhieu đang phai thanh lâp VN Cach
Mang Đong Minh Hôi goi la Viet Minh, ngay ngay hom đo la ĐCSVN đa ban
nước cho Lien Xô va Trung Công roi đay các ông oi , thúc vây đi cu ngu hoài
sao ? Các ong Vo Bi va bác si Trân Đai Si cu đên TLS/ VC ma lam thịt chung
no đung len Internet an noi lung tung nghe mai chan lam ....!Noi 40 nam roi
khong chan sao may tên A Xao
Kinh
Charlie
Ly
Thuong
phe binh VNCH
On
Mả 10, 2015, at 8:10 PM, NGUYỄN VÂN TÙNG >
wrote:
Sc
Sc
On Sunday, March 8, 2015
7:28 PM, Chan Ngo <>
wrote:
KÍNH CHUYỂN.
Cám ơn BS Võ
Văn Đàn đã chuyển tiêp. Thân ái, N.T. Thọ
From: "dan vo"
Sent: Saturday, March 7, 2015 6:52:27 PM
Subject: Fwd: Bí mật động trời: VC bán nước cách nào cho Tầu Cộng ?
Sent: Saturday, March 7, 2015 6:52:27 PM
Subject: Fwd: Bí mật động trời: VC bán nước cách nào cho Tầu Cộng ?
Sent from my iPad
Begin forwarded
Subject: Bí mật động trời: VC bán nước cách nào cho Tầu Cộng ?
Giám Đốc Trung Quốc Sự Vụ của Viện Pháp-Á tiết
lộ động trời: Hồ Chí Minh và Ðảng CSVN đã bán nước
Việt cho Trung Quốc như thế nào?
LGT.- Tác giả Yên Tử
Cư Sĩ Trần Đại Sỹ hiện là Bác Sĩ Giám Đốc Trung Quốc Sự Vụ tại Viện Pháp-Á
(IFA), Thành Viên trong Y Sĩ Đoàn Pháp Quốc. Ông là người cầm bút nổi tiếng
trước và sau năm 1975, đã ấn hành được hơn 100 ngàn trang sách về lịch sử và y
học. Sự kiện Đảng CSVN đã hiến đất dâng biển cho Trung Quốc ra sao. Bí mật của
vụ này đã được Bác Sĩ Trần Ðại Sỹ trình bày trong Bản Ðiều Trần trước cơ quan
IFA và được Saigon HD Radio trích đoạn các phần quan trọng sau đây:
Bác sĩ/Tác giả Trần Đại
Sỹ hội ngộ cùng 3 cựu Sĩ Quan Võ Bị Dalat tại Dallas (Texas) ngày 26 tháng 5
năm 2012. Hình từ trái qua phải: Thi văn sĩ Quốc Nam (Khóa 22 VB), Dr. Trần Đại
Sỹ, cựu Trung Tá Nguyễn Quang Vinh (Khoá 14 VB), và cựu Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu
Khu Trưởng Bình-Tuy Nguyễn Ngọc Ánh (Khóa 16 VB).
Bản điều trần nêu lên nhiều
chi tiết đau lòng. Theo BS Trần Ðại Sỹ, "Vụ cắt đất ký ngày 30-12-1999 thì
tôi được biết tin chi tiết do hai ký giả Trung-quốc là bạn với tôi thông báo
vào ngày 9-1-2000 nghĩa là 10 ngày sau, hai anh thuật, theo tinh thần bản hiệp
định thì: Việt-Nam nhường cho Trung-quốc dọc theo biên giới 789 cây số vuông
(chứ không phải 720 như tin lộ ra trong nước) thuộc hai tỉnh Cao-bằng,
Lạng-sơn".
Trong khi đó, Bộ Giao
Thông CSVN lặng lẽ sơn lại các cọc cây số và Bộ Ngoại Giao CSVN cũng lặng lẽ
lên trang web sửa thành câu văn mới: "lãnh thổ Việt-Nam khởi từ cây số
không ở phía Bắc".
Lý do, theo BS Sỹ, vì
"Cái cây số không đó là cây số 5 cũ đấỵ. Cột cây số Zéro bây giờ ở phía
Nam cột Zéro cũ 5 cây số. Từ cây số Zéro đến cây số 5 nay thuộc
Trung-quốc".
Các phần quan trọng
trong bản văn ghi như sau:
Bí ẩn về việc đảng CSVN,
Lãnh đạo nhà nước cắt lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc
Bản điều trần của
Yên-tử cư-sĩ TrầnÐại Sỹ
Dr. Trần Ðại-Sỹ, 5,
place Félix Éboué 75012 PARIS, FRANCE.
LGT: Trong mấy tháng gần
đây, nội địa Việt-Nam cũng như hải ngoại đều rúng động vì tin nhà nước hay nói
đúng hơn là đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho
Trung-quốc.Ðau đớn nhất là địa danh lịch sử Nam-quan đi vào tâm tư là niềm tự
hào của tộc Việt nay đã ở trong lãnh thổ Trung-quốc.
Ngay cả hang Pak-bo là
thánh địa của đảng Cộng-sản, trước kia ở cách biên giới Hoa-Việt trên 50 km,
nay đứng ở đây gần như nhìn vào lãnh thổ Trung-quốc.
Trong suốt 25 năm qua,
Bác-sĩ TrầnÐại-Sỹ vì ký khế ước làm việc với Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu
(CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-hoa (CMFC), trong đó có điều căn bản là
"không được viết, được thuật những gì với báo chí về Trung-quốc, Việt-Nam
hiện tại; không được tham gia các đoàn thể chính trị chống đối Trung-quốc,
Việt-Nam" nên không bao giờ ông tiết lộ bất cứ điều gì mắt thấy tai nghe
trong những lần công tác tại Trung-quốc hay Việt-Nam. Tuy nhiên, ông đã được
một cơ quan (chúng tôi giấu tên) triệu hồi để điều trần về vụ này. Theo luật lệ
hiện hành mà Bác-sĩ Trần phải tuân theo, rất mong các vị đứng đầu CEP-CMFC
thông cảm với chúng tôị (IFA).
Kính thưa Ngài ... Kính
thưa Quý Ngài, Kính thưa ông Giám-đốc... Kính thưa Quý-liệt-vị,
Thực là hân hạnh, khi
mới ngày 17-3 vừa qua, chúng tôi được cử đến đây để trình bầy những vụ việc
đang diễn ra tại vùng Á-châu Thái-bình dương. Hôm nay, chúng tôi lại được gửi
tới trình bầy về diễn biến trong vụ việc chính phủ Cộng-hòa Xã-hội Chủ-nghĩa
Việt-Nam (CHXHCNVN) cắt nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-hoa Nhân-dân
Cộng-hòa quốc (THNDCHQ), gọi tắt là Trung-quốc. Ðây là một việc cực kỳ tế nhị,
cực kỳ khó khăn cho tôi, làm thế nào giữ được tính chất vô tư vì:
- Thứ nhất, tôi gốc là
người Việt, hơn nữa thuộc giòng dõi một vị Vương đứng hàng đầu trong lịch sử
Việt, vì ngài thắng Mông-cổ liên tiếp trong ba lần vào thế kỷ thứ 13 mà nay tôi
phải nói về những người đem lãnh thổ Việt nhượng cho Trung-quốc, khó mà diễn tả
lời lẽ vô tư cho được.
- Thứ nhì, ngoài chức vụ
giáo-sư Y-khoa ra, tôi là một tiểu thuyết gia, đã viết trên mười bốn nghìn
trang, thuật huân công của các anh hùng tộc Việt trong việc dựng nước, giữ nước
mà suốt trong năm nghìn năm lịch sử, chỉ duy năm 1540, giặc Mạc Dăng-Dung cắt
đất dâng cho triều Minh của Trung-quốc bị tộc Việt đời đời nguyền rủa. Vậy mà
nay phải chứng kiến tận mắt lãnh thổ Việt bị cắt cho Trung-quốc.
- Thứ ba, các sinh viên
Việt-Nam muốn du học Pháp thường bị vài tổ chức đòi phí khoản 20 nghìn USD mỗi
đầu người. Một vị Ðại-sứ của Việt-Nam tại châu Âu mời tôi về nước (tất cả chi
phí do tiền của IFA) để giúp sinh viên Việt-Nam du học Pháp. Với sự hướng dẫn
của tôi, từ nay sinh viên muốn du học Pháp, họ đã biết rất rõ những gì phải
làm, những gì phải chứng minh. Họ không phải tốn một đồng nào cả nhưng khi trở
về Pháp, lúc lên phi cơ tại phi trường Tân-sơn-nhất, tôi bị ba sĩ quan cao cấp
của Công-an chờ sẵn, hạch sách, khám xét trong khoảng 98 phút bằng những câu hỏi
có tính cách nhục mạ, ngớ ngẩn, lời lẽ cục súc. Tôi cho đây là một hình thức
khủng bố. Thưa Quý-vị, hôm đó tôi chỉ cười nhạt, khinh rẻ vì tôi biết rất rõ
kiến thức, mục đích của họ trong khi họ không đủ khả năng bịa ra bất cứ tội gì
để kết tội tôi. Hơn nữa, tôi giữ trong tay một ủy nhiệm thư, theo Công-pháp
Quốc-tế, họ không thể công khai vị phạm.
(1)
Ðứng trước vùng đất
thiêng của tổ tiên, nay vĩnh viễn trở thành đất của người tự nhiên tôi bật lên
tiếng khóc như trẻ con. Viên sĩ quan Công-an Trung-quốc tưởng tôi là người Hoa,
anh ta hỏi:
- Tiên sinh có thân nhân
tử trận trong dịp mình dạy bọn Nam-man bài học à?
Tôi lắc đầu, khóc tiếp,
anh an ủi:
- Thôi, người thân của
Tiên-sinh đã hy sinh dưới cờ thực nhưng nay bọn Nam-man đã dâng đất này tạ tội
rồị, Tiên sinh chẳng nên thương tâm nhiềụ.
Tôi kiếm tảng đá ngồi ôm
đầu khóc. Anh Công-an bỏ mặc tôị Khóc chán, tôi trở sang Bằng-tường, kiếm một
cơ sở mai táng (xây mộ, làm mộ chí). Tôi mượn họ khắc trên một miếng đá bóng
nhân tạo (granite) bài thơ bằng chữẠ Hán như sau:
1.Thử địa cựu Nam-quan,
2.Biên địa ngã cố hương.
3.Kim thuộc Trung-quốc
thổ,
4.Khấp, khốc, ký đoạn
trường.
5.Lê Hoàn bại
Quang-Nghĩa,
6.Thường Kiệt truy Bắc
phương,
7.Hưng Ðạo đại sát Ðát,
8.Lê Lợi trảm Vương
Thông.
9.Nam xâm, Càn-Long
nhục,
10.Gươm hồng Bắc-bình
vương.
11.Ngũ thiên niên dĩ
tải,
12.Hoa, Việt lập dịch
trường.
13.Mao, Hồ tình hữu
nghị,
14.Nam, Bắc thần xỉ
thương,
15.Huyết lệ vạn dân cốt,
16.Hồng-kỳ thích ô
hoang.
Ðại-Việt vong quốc nhân
Trần Ðại-Sỹ-Khốc đề lục nhật, cửu nguyệt, niên đại 2001.
Tôi đem tảng đá này, gắn
vào một vách núi ngay cạnh đường, trên độ cao khoảng 2-3m. Công-an, cán bộ
Trung-quốc xúm lại xem nhưng họ chỉ hiểu lơ mơ ý trong thơ mà thôị - Xin tạm
dịch:
1.(Ðất này xưa gọi
Nam-quan,)
2.(Vốn là biên địa cố
hương của mình.)
3.(Hiện nay là đất
Trung-nguyên,)
4. (Khóc chảy máu mắt,
đoạn trường ai hay)
5.(Vua Lê thắng Tống chỗ
này,)
6.(Thường Kiệt rượt Tiết
cả ngày lẫn đêm,)
7.(Thánh Trần sát Ðát
liên miên,)
8.(Lê Lợi giết bọn
Thành-sơn bên đồi,)
9.(Càn-Long chinh tiễu
than ôi,)
10.(Quang-Trung truy sát
muôn đời khó quên.)
11.(Năm nghìn năm cũ qua
rồi,)
12.(Chợ biên giới lập,
đời đời Việt-Hoạ)
13.(Ông Hồ kết bạn ông
Mao,)
14.(Sao răng lại cắn,
máu trào môi sưng.)
15. (Vạn dân xương trắng
đầy đồng,)
16. (Ðể lại trên lá cờ
Hồng vết nhơ)
(Người nước Ðại-Việt
vong quốc tên TrầnÐại-Sỹ, khóc đề thơ ngày 6 tháng 9 năm 2001)
--
Câu 5,. Vua Tống Triệu
Quang-Nghĩa sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng sang đanh VN, bị vua Lê (Hoàn) đánh
bạị
Câu 6, Năm 1076, vua
Tống Thần-Tông sai bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết mang quân sang đánhÐại-Việt, bị
Thái-úy Lý Thường Kiệt đánh đuổị
Câu 8, Tước của Vương
Thông là Thánh-sơn hầụ.
Câu 10, Vua Quang-Trung
còn có tước phong là Bắc-bình vương.
Câu 14, Hồi 1947-1969
Chủ-tịch Trung-quốc là Mao Trạch Ðông, Chủ-tịch Việt-Nam là Hồ Chí Minh kết
thân với nhaụ Việt-Hoa ví như răng với môị. Vì sợ môi hở răng lạnh nên ông Mao
phải giúp ông Hồ- Năm 1979, Ðặng Tiểu Bình đem quân tàn phá các tỉnh biên giới
phía Bắc Việt-Nam, nên người ta đổi câu trên thành: Răng cắn môi máu chảy ròng
ròng.
- Tháng 9 vừa qua, Ðảng
Cộng-sản Việt-Nam liệt tôi vào danh sách 80 người phản động nhất vì năm 1997 ,
tôi đã viết một bài tiết lộ những chi tiết tuyệt mật về cuộc viếng thăm
Trung-quốc của Tổng Bí-thư Ðỗ Mười, Thủ-tướng Võ Văn-Kiệt, nhất là cuộc họp mật
của hai nhân vật này với Chủ-tịch Trung-quốc Giang Trạch Dân. Tôi viết dưới
hình thức hài hước cho tờ báo Văn-nghệ Tiền-phong ở Virginia, USA ,
số Xuân 1998. Nội dung của bài đó là một phần bài thuyết trình của tôi với
Quý-vị cuối năm 1997. Như Quý-vị biết về Cộng-sản, khi họ kết tội ai phản động
có nghĩa là toàn đảng phải dùng hết khả năng tiêu trừ người ấỵ (2).
Ghi chú (2) Tôi không
tin chỉ với bài này mà họ kết tội tôi nặng như vậy. Tôi biết rất rõ ai chủ
trương, ai kết tội tôi nhưng tôi chưa muốn nói ra. Trong bài viết trên, tôi đã
tiết lộ những điều tuyệt mật về cuộc hội đàm khiến họ sợ hãi mà thôi. Ðiều
tuyệt mật đó là vụ: ông Lê Ðức-Anh bị Trung-quốc đánh thuốc độc, bị bán thân
bất toại rồi cũng do Trung-quốc trị cho. Nay tôi tiết lộ thêm những vụ đầu độc
cùng một phương pháp:
- Cậu-Chó vì dính dáng
đến vụ Trương Như Tảng, định dâng Việt-Nam cho Trung-quốc không thành rồi cũng
được bán thân bất toại để bảo mật
- Trong kỳ đại hội Đảng
8, giữa đại hội, ông Lê Mai, Bộ-trưởng Ngoại-giao, ông Ðào Duy-Tùng ứng viên
Tổng Bí-thư đảng Cộng-sản cũng bị hạ độc bằng cùng một phương thức nhưng tôi
không biết ai đã làm công việc đó.
- Gần đây nhất một
Bác-sĩ Việt-Nam từng dính dáng với phong trào Trương Như Tảng. Sau đó, đã tỵ
nạn lần thứ nhì sang Canada, năm trước đây, nghe tin Bác-sĩ Dương
Quỳnh-Hoa từ Việt-Nam qua Pháp, ông lén từ Canada sang Paris gặp
bà mưu kiếm ít xôi thịt từ Trung-quốc. Khi trở về Canada, ông cũng bị đột
quỵ và tiêu dao miền Cực-lạc.
Kính thưa Quý-vị:
Tuy tôi đã tuyên thệ tại
đây hồi tháng ba vừa qua nhưng hôm nay tôi xin tuyên thệ một lần nữa:
"Tôi xin tuyên
thệ với tất cả danh dự của tôi rằng: Tôi không thù, không ghét những người tại
Việt-Nam, họ đã nộp lãnh hải, lãnh thổ cho Trung-quốc. Tôi cũng không vì lòng
yêu nước Việt mà oán ghét họ. Tôi không hận những người Việt chủ trương khủng
bố tôi khi họ mời tôi về Việt-Nam giúp đỡ họ. Những lời tôi trình bày hôm nay
hoàn toàn vô tư".
Kính thưa Quý-vị
Tôi vừa lướt qua vài nét
đơn sơ về biên giới Hoa-Việt, về ngoại giao Hoa-Việt trong thời gian 989 năm.
Bây giờ tôi xin đi thẳng vào đầu đề hôm nay về việc:
- Ðảng Lao-động Việt-Nam
lãnh đạo nhà nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-hòa (VNDCCH, 1945-1975).
- Ðảng Cộng-sản Việt-Nam
lãnh đạo nhà nước Cộng-hòa Xã-hội Chủ-nghĩa Việt-Nam (CHXHCNVN, 1975-2001) nhượng
lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-hoa Nhân-dân Cộng-hòa quốc gọi tắt là Trung-quốc.
3. Vụ Việt-Nam dân chủ
Cộng-hòa nhượng lãnh hải cho Trung-quốc.
3.1. Kết quả của văn
kiện 14-9-1958.
Ngày 4-9-1958, chính phủ
Trung-quốc tuyên cáo về lãnh hải 12 hải lý kể từ đất liền của họ, có đính kèm
bản đồ rất rõ ràng. Bản tuyên cáo này chỉ có hai nước công nhận đó là VNDCCH và
Bắc Cao (Cộng-hòa Nhân-dân Triều-tiên). Việc VNDCCH công nhận như sau: Ngay khi
nhận được bản tuyên cáo do sứ quán Trung-quốc tại Hà-nội trao, Chủ-tịch Hồ Chí
Minh triệu tập Bộ Chính-trị đảng Lao-động Việt-Nam (tức đảng Cộng-sản Việt-Nam
ẩn danh).
Trong buổi họp này, toàn thể các thành viên nhất trí chấp nhận bản tuyên
bố của Trung-quốc. Ngày 14-9-1958, Thủ-tướng Phạm Văn-Ðồng tuân lệnh Chủ-tịch
Hồ Chí-Minh, gửi văn thư cho Tổng-lý Quốc-vụ viện Trung-quốc (Thủ-tướng) là Chu
Ân-Lai, trong đó có đoạn (Văn thư đính kèm 1): những nước liên hệ tới bản tuyên
bố là :
- Trung-hoa Dân-quốc
(Ðài-loan), - Nhật-bản, - Hoa-kỳ (hạm đội 7)), - Phi-luật-tân, - Mã-lai, - Brunei,
- Indonésia, - VNDCCH và Việt-Nam Cộng-hòa (VNCH).
Thế nhưng từ hồi đó đến
nay, các nhà nghiên cứu Âu-Mỹ cho đến các nước Á-châu Thái-bình-dương (ACTBD)
không hề để ý đến văn thư trên.
Vì sao?
Bản tuyên bố chỉ đọc
trên hệ thống truyền thanh của Trung-quốc rồi cũng được các báo Trung-quốc đăng
lại mà không có bản đồ đính kèm. Cả thế giời cứ nhìn trên bản đồ Trung-quốc
cũng như vùng Nam-hải phân định lãnh hải từ 1887 mà cho rằng: theo Quốc-tế công
pháp thì lãnh hải hầu hết các nước đều gồm 12 hải lý, kể từ thềm lục địa. Vụ
Trung-quốc tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của họ là một sự bình thường. Cái tưởng
lầm tai hại đó cho đến nay (11-2001), những người chống đối vụ nhường đất cho
Trung-quốc ở trong nội địa Việt-Nam cũng như hải ngoại chỉ kết tội vu vơ, không
rõ ràng, không chứng cớ vì nguyên do không bản đồ nàỵ.
Do kết quả không có bản
đồ đính kèm của Trung-quốc tuyên bố lãnh hải của họ (gần như trọn vẹn vùng biển
Nam-hải, đính kèm), Hoa-kỳ cũng như thế giới không biết (hay không công nhận) nên
suốt thời gian 1958-2001:
- Hạm đội 7 của Hoa-kỳ
tuần hành trong vùng lãnh hải tuyên bố này, đầy đe dọa Trung-quốc mà Trung-quốc
vẫn ngậm bồ hòn.
- Chiến hạm của Pháp,
Ðức, Ý cũng như một số nước Úc, Âu trong thời gian 1975-1980 vẫn tuần hành, hộ
tống những con tầu vớt người Việt trốn chạy trong vùng mà Trung-quốc đành im
lặng.
Hôm nay tôi cần phải
trình bày trước các vị và làm sáng tỏ nội vụ
Kính thưa Quý-vị,
3.2. những bí ẩn.
Cái bí ẩn đó không có gì
lạ cả, rất rõ ràng, rất chi tiết.
- Về phía các nhà
nghiên-cứu Âu-Mỹ, ACTBD không có bản đồ đính kèm bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của
Trung-quốc, họ cứ nhìn vào bản đồ đã phân định từ 1887 giữa Pháp và triều
Thanh. Họ cũng cứ nhìn bản đồ của các nước vùng Nam-hải của Trung-quốc, của
Trung-hoa Dân-quốc cũ rồi cho rằng lãnh hải 12 hải lý thì chẳng có gì là lạ cả. Nhưng
nếu họ có bản đồ về lãnh thổ đính kèm bản tuyên bố thì họ sẽ toát mồ hôi ra vì
bản đồ này bao gồm toàn bộ các đảo trong vịnh Bắc-Việt, toàn bộ các đảo ở biển
Nam-hải như Tây-sa (Hoàng-sa) và Nam-sa (Trường-sa). Như vậy nếu tính lãnh hải
12 hải lý, tính từ các đảo này thì:
- lãnh hải Trung-quốc ở
biển Nam-hải, phía Tây sẽ sát tới bờ biển suốt miền Trung, Bắc Việt-Nam.
- Phía Ðông sát tới lục địa
Phi-luật-tân, Bruneị
- Phía Nam sát tới
Indonésia, Mã-laị
Trở lại với Chủ-tịch Hồ
Chí-Minh, bộ Chính-trị đảng Lao-động (Cộng-sản) Việt-Nam và chính phủ VNDCCH
hồi 1958, khi các vị ấy có bản tuyên bố lãnh hải của Trung-quốc thịìcũng có
bản đồ chi tiết nhưng các vị ấy gửi thư chấp nhận bản tuyên bố đó thì có nghĩa
rằng:
Họ đồng ý nhường cho
Trung-quốc toàn bộ:
- Các đảo của Việt-Nam
trên biển Nam-hải.
- Toàn bộ lãnh hải
Việt-Nam cách các đảo đó 12 hải lý nghĩa là toàn bộ biển Nam-hảị
Kính thưa Quý-vị,
3.3 - Bí ẩn vụ Trung-quốc
chiếm Hoàng-sa (Tây-sa) .
Từ trước đến giờ, có
nhiều vị hiện diện hôm nay từng đặt câu hỏi với tôi rằng:
- Tại sao năm 1973,
thình lình Trung-quốc đem quân đánh quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) từ VNCH? Trận
chiến diễn ra ngắn ngủi, phía Trung-quốc bị thiệt hại gấp ba VNCH (về nhân
mạng, về chiến hạm, tài liệu này tôi có từ phía Trung-quốc).
Nhưng VNCH vì quân
ít, vũ khí chỉ có đại bác, chiến hạm nhỏ trong khi Trung-quốc có hỏa tiễn địa
địa, chiến hạm lớn đông gấp 3 lần VNCH. VNCH lại đang có nội chiến, phải đương
đầu với quân đội VNDCCH, vì vậy VNCH phải bỏ kế hoạch tái chiếm Hoàng-sa- Bấy
giờ Hoa-kỳ với VNCH có hiệp ước hỗ tương an ninh, Hoa-kỳ đang tham chiến tại
Việt-Nam, hạm đội 7 hùng hậu đang tuần hành gần vùng giao chiến. Tại sao Hoa-kỳ
không can thiệp, không lên tiếng bênh vực VNCH?
Nay tôi xin thưa:
Vì:
Trong-cuộc mật đàm giữa
Hoa-kỳ (Kissinger) và Trung-quốc (Mao TrạchÐông), phía Trung-quốc đã trao cho
ông Kissinger bản tuyên bố lãnh hải 4-9-1958 cùng bản đồ, Ông Kissinger đã
công nhận bản tuyên bố đó. Cho nên ông Kissinger vừa rời Trung-quốc thì
Trung-quốc đem hạm đội xuống chiếm Hoàng-sa.
Vì:
Văn thư của ông Phạm Văn
Ðồng công nhận quần đảo này là của Trung-quốc. Trung-quốc chiếm Hoàng-sa chỉ là
việc chiếm lại lãnh thổ được hiến dâng, đã 16 năm bị VNCH xâm lăng.
- cũng có vị hỏi tôi
rằng: Tại quần đảo Trường-sa (Nam-sa) hiện có quân của Trung-hoa Dân-quốc
(Ðài-loan), Phi-luật-tân, Mã-lai, Việt-Nam. Thế sao hải quân Trung-quốc luôn
khai hỏa vào hải quân Việt-Nam. Quan trọng nhất là trận chiến tháng 3 năm 1988,
Việt-Nam chỉ phản đối lấy lệ.
Nay tôi xin thưa:
Do văn thư của ông Phạm
Văn Ðồng công nhận quần đảo này là của Trung-quốc. Lập luận phía Trung-quốc là:
Thủ-tướng Phạm VănÐồng đã công nhận vùng này là lãnh hải Trung-quốc, tại sao
quân đội Việt-Nam còn hiện diện tại đây? Như thế là Việt-Nam xâm phạm lãnh thổ
Trung-quốc, Quân đội Trung-quốc phải đánh đuổi quân xâm lăng, bảo vệ đất nước
là lẽ thường.
Quân đội Ðài-loan đóng tại đây mà Trung-quốc không tấn công vì
quân Ðài-loan thì cũng là quân đội Trung-quốc đóng trên lãnh thổ Trung-quốc.
Còn Phi, Mã-lai với Trung-quốc đang tranh chấp trên quần đảo này chưa ngã ngũ
thì quân đội của họ hiện diện là lẽ thường. Trung-quốc không thể tấn công họ vì
như vậy là Trung-quốc ỷ lớn hiếp nhỏ.
Ðối với vụ việc tranh
chấp Trung-quốc, Việt-Nam trên đảo Trường-sa (Nam-sa) đã giải quyết bằng văn
thư của Việt-Nam ngày 14-9-1958. Chính vì lý do này mà Trung-quốc chỉ chấp nhận
đàm phán về vùng đảo với từng nước mà không chịu đàm phán chung với tất cả các
bên liên hệ có nghĩa là họ gạt Việt-Nam ra ngoài vì Việt-Nam đã công nhận các
đảo này là của Trung-quốc.
3.5 - Về hoàn cảnh
đảng Cộng-sản Việt-Nam năm 1958 và chính phủ VNDCCH.
Tất cả những vị trong bộ
Chính-trị đảng Cộng-sản, trong Chính-phủ đều biết rằng:
- Kể từ năm 1540, sau
khi dâng đất cho Trung-quốc, giặc MạcÐăngÐung bị lịch sử Việt-Nam kết tội, bị
toàn dân nguyền rủa, đến bấy giờ trải 418 năm, chính họ cũng nguyền rủa bọn
Mạc.
- Giữa VNDCCH và
Việt-Nam Cộng-hòa (VNCH), cả hai bên đều đang lo củng cố xây dựng lại vùng đất
của mình sau chiến tranh (1945-1954). Cả hai bên cùng chưa chính thức gây hấn
với nhau, VNDCCH không có ngoại thù.
- Trung-quốc không có
chiến tranh với VNCDCH, không có áp lực ngoại xâm.
- Năm 1958 là lúc thịnh
thời nhất của Chủ-tịch Hồ Chí Minh, của Ðại-tướng Võ Nguyên Giáp. Thời kỳ này,
miền Bắc Việt Nam vừa trải qua cuộc Cải cách ruộng đất, 246.578 người hầu hết
là phú nông, địa chủ, trung nông, các cựu đảng viên không phải của đảng Lao
động (Cộng-sản), dân chúng... bị giết. Nghĩa là toàn miền Bắc dân chúng kinh
hoàng, cúi đầu răm rắp tuân lệnh đảng, không còn kẻ nội thù,
- Nhất là lúc ấy VNDCCH
đang kéo cao cờ nghĩa đánh Pháp, chống Mỹ cứu nước. Họ kết tội VNCH là
Việt-gian, là Ngụy, họ phải hết sức giữ gìn để khỏi mất chính nghĩa.
- Thế sao đảng Cộng-sản
lại làm cái việc thân bại danh liệt, trở thành tội đồ muôn năm của tộc Việt?
- Bàn về việc ký thỏa
ước với nước ngoài, việc nhận đất, nhượng đất phải thông qua Quốc-hội. Bấy giờ,
VNDCCH cũng có Quốc-hội nhưng Quốc-hội không được hỏi đến, không được bàn đến
và nhất là không được thông tri. Quốc dân cũng thế. Tất cả thắc mắc này, tôi
xin để Qúy-vị suy đoán và trả lời.
3.6 - Một câu hỏi được
đặt ra:
Vậy thì vì lý do gì mà
đảng Cộng-sản Việt-Nam lãnh đạo Chính-phủ VNDCCH lại nhượng lãnh hải cho
Trung-quốc quá dễ dàng? Cho đến nay, tôi cũng không tìm ra lý do thỏa đáng.
Tôi không tìm ra vì:
- Tất cả những vị trong
bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam dự buổi hội quyết định nhượng lãnh hải đều
đã từ trần. Các vị trong nội các Phạm Văn Ðồng hồi ấy, không biết nay có ai còn
sống hay không? Tôi chỉ biết chắc rằng Ðại-tướng Võ Nguyên Giáp vừa là
Bộ-trương bộ Quốc-phòng vừa là ủy viên Bộ Chính-trị là còn tại thế. Ðại-tướng
là người có học thức cao nhất bộ Chính-trị, từng là giáo sư Sử-học. Bấy giờ lại
là lúc uy tín, quyền hành của Ðại-tướng lên tột đỉnh. Vụ ông Phạm Văn Ðồng ký
văn kiện này, Ðại-tướng phải biết. Nay Ðại-tướng đang đi vào những ngày cuối
cùng của đời người, nếu sĩ khí, dũng khí của Ðại-tướng còn thì xin Ðại-tướng
cho quốc dân biết được không?...
- Nếu nói rằng khi ký
văn kiện trên là tự ý Thủ-tướng Phạm Văn Ðồng thì không thể nào tin được vì
chính ông Phạm Văn Ðồng từng than rằng: Ông là một Thủ-tướng lâu năm nhưng
không có quyền hành gì, ngay cả việc muốn thay một Bộ-trưởng cũng không được.
Vậy thì đời nào ông dám ký văn kiện dâng đất cho Trung-quốc!
- Ví thử ông Phạm Văn
Ðồng tự ý ký văn kiện trên thì năm 1977, văn kiện ấy lộ ra ngoài, người Việt
hải ngoại từng đem đăng báo, ông Phạm Văn Ðồng hãy còn sống, sao Bộ Chính-trị,
Quốc-hội và Chính-phủ không truy tố ông ra tòa về tội phản quốc? Tội này trong
hình luật Việt-Nam phải xử tử hình. Thế mà ông ấy vẫn ung dung sống thêm bốn
chục năm nữa, đầy quyền hành?
- Liệu những tài liệu,
biên bản về buổi họp này có nằm tại văn phòng Bộ Chính-trị, văn phòng bộ
Ngoại-giao CHXHCNVN không? Các vị trong Bộ Chính-trị hiện thời có thể công bố
cho quốc dân biết không? Nếu quý vị im lặng thì muôn nghìn năm sau, lịch sử còn
ghi: Ðảng Cộng-sản bán nước mà không cầu vinh, cũng chẳng cầu tài chứ không
phân biệt rằng Bộ Chính-trị 1958 bán nước, còn Bộ Chính-trị 2001 không hề làm
việc nàỵ
Chúng tôi xin ngừng lời
để Quý-vị thắc mắc trước khi điều trần sang phần thứ nhì.
Kính thưa Quý-vị,
Bây giờ tôi xin điều
trần sang phần thứ nhì, đó là:
4. Vụ nhượng lãnh thổ
mới đâỵ
* Hiệp định về biên giới
trên đất liền Việt-Nam, Trung-quốc ngày 30-12-1999.
* Hiệp định phân định
lãnh hải Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000.
4.1 - Ai chịu trách
nhiệm về hai hiệp định.
Hai hiệp định này đều ký
trong thời gian 1999-2000. Vào thời kỳ này tại Việt-Nam thì:
- Ông Lê Khả-Phiêu làm
Tổng Bí-thư đảng Cộng-sản ViệtNam,
- Ông Trần Ðức-Lương làm
Chủ-tịch nhà nước,
- Ông Nông Ðức-Mạnh làm
Chủ-tịch Quốc-hội,
- Ông Phan Văn-Khải làm
Thủ-tướng.
- Ông Nguyễn Mạnh Cầm
làm Bộ trưởng Ngoại-giaọ
Ai chịu trách nhiệm khi
ký hai hiệp định trên? Cá nhân thì tôi không biết nhưng có một điều tập thể thì
ai cũng khẳng định là Bộ Chính-trị của đảng Cộng-sản Việt-Nam. Không cần biết
người ký là Chủ-tịch Trần Ðức-Lương, Thủ-tướng Phan Văn-Khải hay Bộ-trưởng
Ngoại-giao Nguyễn Mạnh-Cầm. Tôi xin khẳng định: Ai ký cũng chỉ là người tuân
lệnh Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam.
Nhưng người quyết định
là aỉ ?!?
Ông Phan Văn-Khải,
Nguyễn Mạnh-Cầm - Hai ông này không có quyền, dù có quyền các ông ấy cũng không
dám quyết định. Ông Lê Khả-Phiêu quá yếu, không thể quyết định một mình. Ông
Trần Ðức-Lương, Nông Ðức-Mạnh càng không có quyền gì. Vì vậy,tôi mới quyết
đoán rằng vụ này do Bộ Chính-tri đảng Cộng-sản chủ trương. Hiện tất cả các ông
trong Bộ Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu vẫn còn sống, rất khỏe mạnh. Khi quyết
định nhượng đất, biển cho Trung-quốc các ông ấy đều biết rất rõ rằng:
- Tinh thần dân chúng
bây giờ không phải như dân chúng hồi 1540. Trình độ dân chủ, phương tiện thông
tin của đảng viên, của dân chúng vượt xa hồi 1958. Uy tín của Tổng Bí-thư Lê
Khả-Phiêu không thể so sánh với Chủ-tịch Hồ Chí-Minh năm 1958. Mỗi vị trong Bộ
Chính-trị bây giờ là một mảng chứ không thể là một khối như Bộ Chính-trị hồi
1958. Các vị trong Bộ Chính-trị thời Lê Khả-Phiêu đều biết trước rằng: Ký hiệp
ước nhượng lãnh thổ trong lúc này không thể bịt miệng, giấu giếm đảng viên cũng
như dân chúng. Thế nhưng các ông ấy vẫn làm! Vì vậy phải có nguyên do gì trọng đại
lắm. Liệu các ông có thể công bố cho quốc dân biết không?
- Thời gian ấy
(1999-2000) đảng Cộng-sản lấn át Chủ-tịch Nhà-nước cũng như Thủ-tướng nhất đến
nỗi Chánh-văn phòng Thủ-tướng chỉ vì nói một câu không mấy lịch sự với người
đàn bà có thế lực trong đảng mà bị bắt giam không lý do, Thủ-tướng không thể
can thiệp cho ông ta tại ngoạị.
- Quyền gần như nằm
trong tay ba ông Cố-vấn là cựu Tổng Bí-thư Ðỗ Mười, cựu Chủ-tịch nhà nước Lê
Ðức-Anh và cựu Thủ-tướng Võ Văn-Kiệt. Ba ông này như ba Thái-thượng hoàng thời
Trần. Tuy mang danh Cố-vấn nhưng ba ông vẫn còn uy quyền tuyệt đốị
- cũng trong thời gian
ấy, cả thế giới (trừ Trung-quốc) đều có chính sách ngoại giao rất đẹp với
Việt-Nam: Hoa-kỳ (Tổng-thống Bill Clinton), Liên-Âu, các nước ASEAN đang theo
đuổi chính sách ngoại giao rất mềm dẻo với Việt-Nam, nhất là Tổng-thống Clinton
ký sắc lệnh bỏ cấm vận Việt-Nam, mở cửa cho sinh viên Việt-Nam sang du học
Hoa-kỳ, mở cửa cho hàng Việt-Nam được nhập vào Hoa-ky. Nói tóm lại, thời gian
từ nửa năm 1999 cho đến cuối năm 2000, Việt-Nam không bị một áp lực quốc tế
nguy hiểm nào đến độ phải nhượng đất, nhượng biển cho Trung-quốc để được viện
trợ vũ khí, để được che chở.
- cũng thời gian trên,
Trung-quốc, Việt-Nam không có tranh chấp lãnh thổ, không có đụng chạm biên
giới, không có căng thẳng chính trị, không có chiến tranh. Vậy vì lý do nào mà
các ông ấy cắt đất, cắt biển cho Trung-quốc? 4.2 - Chi tiết vụ cắt đất.
Vụ cắt đất ký ngày
30-12-1999 thì tôi được biết tin chi tiết do hai ký giả Trung-quốc là bạn với
tôi thông vào ngày 9-1-2000 nghĩa là 10 ngày sau, hai anh thuật theo tinh thần
bản hiệp định thì:
- Việt-Nam nhường cho
Trung-quốc dọc theo biên giới, 789 cây số vuông (chứ không phải 720 như tin lộ
ra trong nước) thuộc hai tỉnh Cao-bằng, Lạng-sơn.
- Có mấy hiệp định thư
(Photocol) đính kèm về việc thi hành. Quan trọng nhất là :
- Nhượng vùng Cao-bằng,
sát tới hang Pak-bó, nơi Chủ-tịch Hồ Chí Minh ẩn thân lãnh đạo cuộc kháng
chiến. Hang này trở thánh địa của đảng Cộng-sản Việt-Nam, trước kia nằm rất xa
biên giới (khoảng 50 km), nay nằm sát biên giới.
- Nhượng vùng đất bằng
phẳng thuộc tỉnh Lạng-sơn nơi có cửa ải Nam-quan.
Thưa Qúy-vị,
4.3 - Ảnh hưởng vụ cắt
đất.
4.3.1 - Mất biểu tượng
năm nghìn năm của tộc Việt.
Khu Ải Nam-quan này là
vùng đất thiêng, là Thánh địa trong mấy nghìn năm của người Việt. Bất cứ người
Việt nào từ 6 tuổi trở lên đều biết rằng Ải Nam-quan là vùng đất tượng trưng
biên giới phía Bắc, tượng trưng cho lãnh thổ, cho tinh thần tự chủ, cho niềm tự
hào của họ. Ðây là vùng đất đi sâu vào lịch-sử, văn-học và tâm tư toàn thể
người Việt. Trở về quá khứ, trong lần mạn đàm giữa Chủ-tịch Mao Trạch Ðông và
Chủ-tịch Hồ Chí Minh. Chủ-tịch Mao Trạch Ðông đã nói:
"Cái tên Ải
Nam-quan nhắc nhở đến cuộc chiến do bọn phong kiến Hoa, Việt làm xấu tình hữu
nghị nhân dân. Tôi xin đổi thành Mục Nam-quan. Mục là mắt, coi như nhân dân
Trung-quốc luôn hướng mắt nhìn về nhân dân Việt ở phương Nam. Ngược lại, coi
như mắt của nhân dân Việt luôn nhìn về Bắc với tình hữu nghị".
Chủ-tịch Hồ Chí-Minh vui
vẻ chấp thuận. Nhưng trên thực tế, chỉ có phía Trung-quốc in trên bản đồ địa
danh Mục Nam-quan mà thôi. Còn phía Việt-Nam trên bản đồ hành chính, trên báo
chí, văn học, vẫn dùng từ Ải Nam-quan hay cửa Hữu-nghị.
4.3.2 - Mất cửa ngõ
giao thông lịch sử giữa tộc Hoa, tộc Việt.
Tôi đã nhiều lần từ
Việt-Nam sang Trung-quốc bằng cửa ải này và ngược lạị lãnh thổ Hoa-Việt được
phân chia bởi một con sông nhỏ. Ðây là cửa họng giao thông của Trung-quốc,
Việt-Nam bằng đường bộ. Suốt hơn mấy nghìn năm qua, dân Hoa-Việt giao thương
đều qua đây. Chính vì vậy mà con đường quốc lộ xuyên Việt mang tên Quốc-lộ 1,
được đánh số cây số Zéro từ đầu cây cầu Nam-quan. Tất cả thư tịch Việt-Nam đều
chép rằng:
"Con đường Bắc-Nam
khởi từ ải Nam-quan".
Hoặc : "lãnh thổ
Việt-Nam Bắc giáp Trung-hoa, khởi từ ải Nam-quan đến mũi Cà-mâu theo hình chữ
S".
Bây giờ nếu Quý-vị vào
Website của Bộ Ngoại-giao Việt-Nam, Quý-vị sẽ không thấy hàng chữ trên mà chỉ
thấy câu: "lãnh thổ Việt-Nam khởi từ cây số không ở phía Bắc".
Thưa Quý-vị,
Cái cây số không đó là
cây số 5 cũ đấy. Cột cây số Zéro bây giờ ở phía Nam cột Zéro cũ 5 cây số. Từ
cây số Zéro đến cây số 5 nay thuộc Trung-quốc.
Sát cây cầu Nam-quan,
phía bên Trung-quốc cũng như Việt-Nam, đều có nhiều cơ sở:
- Cơ sở Hải-quan.
- Bãi đậu cho hằng trăm
xe tải để chờ kiểm soát, chờ làm thủ tục nộp thuế.
- Cơ sở di trú của
Công-an để kiểm soát Passeport.
- Ðồn của quân đội để
tuần phòng, bảo vệ lãnh thổ.
- Hằng chục cơ quan khác
như Bưu điện, Ngân-hàng, công ty điện, nước.
- Về phía dân chúng,
hằng trăm cửa hàng ăn, nhà ngủ, khách sạn...
Các cơ sở phía Nam thuộc
Việt-Nam, trong chiến tranh Hoa-Việt 1979, quân đội Trung-quốc đã san bằng hết,
kể cả cây cột biên giới. Tuy vậy, sau chiến tranh, đã xây dựng lại hoàn toàn.
Từ khi có phong trào mở cửa, đổi mới chính trị, dân chúng cả hai bên đã xây
dựng lại khang trang hơn cũ, rộng lớn hơn cũ và hiện đại hơn cũ. Nhưng từ khi
hiệp định 30-12-1999 ký thì toàn bộ khu này thuộc Trung-quốc, những cơ sở đó
bây giờ được thay bằng một tòa nhà duy nhất.
4.3.3, Mất dân, mất di
tích lịch sử
Ði sâu vào khu vực phía
Nam của Nam-quan ít cây số nữa là quận lỵ Ðồng đăng rồi tới tỉnh lỵ Lạng-sơn.
Ðây cũng là đất thiêng, khu có di tích văn hóa lịch sử của tộc Việt: Ðộng
Tam-thanh, tượng núi Tô-thị, thành của bọn giặc Mạc trên núi. Vùng Lạng-sơn xưa
là Thủ-đô của con cháu giặc MạcÐăngÐung mà năm 1540 đã dâng đất cho Trung-quốc
để được bao che cát cứ quân phiệt một thời gian.
Trong chiến tranh Hoa-Việt
1979, hầu như toàn bộ các cơ sở kỹ nghệ, cầu cống, dinh thự, di tích tôn giáo,
lịch sử, cơ sở hành chính, thương mại, kể cả nhà cửa của dân chúng bị san bằng.
Chắc Quý-vị cho rằng tôi dùng từ Coventry có đôi chút quá đáng. Thưa Quý-vị từ
Coventry cũng chưa đủ để chỉ việc quân đội Trung-quốc đã làm ở Lạng-sơn. Kinh
khiếp nhất là động Nhất-thanh, Nhị-thanh, Tam-thanh, họ cũng dùng đại bác bắn
vào làm hư hại rất nhiềụ
Ði sâu về phía Nam ít
cây số nữa là Ải Chi-lăng, nơi mà quân Trung-quốc vượt qua không biết bao nhiêu
lần để tiến về thủ đô Thăng-long của Việt-Nam xưa. Tại đây đã diễn ra những
trận chiến ác liệt, khiến ít nhất 73 vạn quân của các triều đại Tống, Mông-cổ,
Minh, Thanh bị giết. Và cũng tại đây, có không biết bao nhiều tướng của các
triều đại trên bị tử trận.
Khi quân Việt giết những tướng, dù vào thời kỳ nào
chăng nữa thì đầu vẫn bêu tại một mỏm núi, gọi là núi Ðầu-quỷ. Tại ải
Chi-lăng, núi Ðầu-quỷ đều khắc bia đá ghi lại di tích lịch sự Hồi chiến tranh
Hoa-Việt 1978, khi các tướng Hồng-quân cho quân tiến đến đây, nghe nhắc chuyện
cũ thì họ toát mồ hôi lạnh, phải ngừng lại. May mắn thay, khu này vẫn còn
thuộc lãnh thổ Việt.
Trở lại vùng đất mà đảng
Cộng-sản Việt-Nam đã nhượng cho Trung-quốc, dĩ nhiên họ nhượng cả dân chúng
nữa. Trong năm nghìn năm lịch sử chiến tranh Hoa-Việt, dân chúng, chiến sĩ tại
vùng này là lực lượng đầu tiên chống quân Trung-quốc. Họ phải hy sinh tính
mạng, tài sản đầu tiên, khi quân Trung-quốc đánh sang. Có không biết bao nhiêu
di tích, huyền sử về núi non, về sông ngòi về cuộc chiến, về gương anh hùng.
Chính quyền các triều đại đều tuyên dương công lao của họ, họ từng hãnh diện
đời nọ sang đời kia. Bây giờ vùng này trao cho Trung-quốc, kẻ thù năm nghìn năm
của họ. Họ bị mất mát quá nhiều về tinh thần. Họ phải cúi mặt chịu sự cai trị
của kẻ thù. Bao nhiêu di tích lịch sử, huyền sử phải phá bỏ, không được nhắc
tới.
Thương tổn tinh thần quá lớn Gần đây nhất, trong chiến tranh 1978, phía
Việt cũng như Trung-quốc, chôn trên lãnh thổ mình, dọc theo biên giới mấy chục
vạn quả mìn, sau chiến tranh mới đào lên. Phía Việt lập rất nhiều đồn, hầm,
công-sự chiến đấu dọc biên giới thành 4 vòng đai. Mấy chục nghìn chiến sĩ Việt
tử trận tại đây. Hiện những cơ sở đó vẫn còn.
Trong khu vực này dân chúng, gia
đình liệt sĩ đã ghi dấu tưởng niệm thân nhân họ, nay trao cho Trung-quốc, dĩ
nhiên các di tích này bị phá hủy. Dân chúng đang là lực lượng chong mặt với kẻ
thù, bảo vệ lãnh thổ, nay họ bỗng trở thành những người Trung-quốc bất đắc dĩ.
Các vòng đai phòng thủ bị mất. Dân tộc Việt-Nam mất mát về an ninh quá nhiều.
4.4 - Vụ cắt lãnh hảị
Hiệp định phân định lãnh
hải Việt-Nam, Trung-quốc ngày 25-12-2000.
Từ giữa thế kỷ thứ 19 về
trước, chưa từng có việc ấn định rõ lãnh hải Việt-Hoa. Tuy nhiên vào thế kỷ thứ
15, Việt-Nam đã định lãnh hải qua vụ nhà vua sai vẽ Hồng đức bản đồ.Theo bản
đồ này thì các quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) và Trường-sa (Nam-sa) thuộc Ðại-Việt.
Và hai quần đảo đó đều thuộc Việt-Nam cho đến khi Bộ Chính-trị thời 1958 trao
cho Trung-quốc (trên lý thuyết). Vào những thời kỳ ấy (1500-1887), Thủy-quân
cũng như thương thuyền, tầu đánh cá của cả Hoa lẫn Việt chỉ là những thuyền
nhỏ, không ra xa bờ biển làm bao nên chưa có những đụng chạm.
Sau khi triều Nguyễn
của Việt-Nam ký hòa ước năm 1884, công nhận quyền bảo hộ của Pháp thì người
Pháp mới định rõ lãnh hải. Nước Pháp với tư cách bảo hộ Việt-Nam, đã ký với
Thanh-triều hòa ước 1887, định rõ lãnh hải trong vùng vịnh Bắc-Việt. Ðối với
hòa ước này, Việt-Nam đã chịu khá nhiều thiệt hại vì mất một số đảo mà dân
chúng là người Việt, nói tiếng Việt, mặc y phục Việt, sống trong văn hóa Việt.
Cho đến nay (2001), dân trên các đảo này vẫn còn nói tiếng Việt, ẩm thực theo
Việt và dùng y phục Việt. Chúng tôi đã từng thăm vùng này hồi 1983. Tuy nhiên
với hòa ước 1887, lãnh hải vịnh Bắc-Việt được phân chia như sau: Trung-quốc 38%
Việt-Nam 62% . Ðối với người Pháp, thời đó họ chưa hiểu rõ tình trạng giữa Trung-hoa
và Việt-Nam, họ thấy Thanh-triều chấp nhận 38%, thì cho rằng mình thắng thế.
Còn Thanh-triều khi đạt được 38%, họ coi như một món quà trên trời rơi xuống vì
trong quá trình lịch sử, Trung-quốc vẫn coi vịnh Bắc-Việt là của Việt-Nam.
Chứng cớ:
- Vùng đất Hợp-phố là
đất cực Nam của Trung-quốc, thế nhưng lại có hải cảng Bắc-hải. Bắc đây chỉ có
thể là Bắc đối với Việt-Nam. Nếu là đất của Trung-quốc họ phải gọi là thị xã
Nam-hải chứ? Rõ ràng vùng này là đất cũ của Việt-Nam.
- Vùng vịnh nằm ở phía
Nam Trung-quốc, phía Tây đảo Hải-Nam, phía Ðông Bắc Việt-Nam mà Pháp-Hoa ký hòa
ước 1887 đó, Việt-Nam gọi là vịnh Bắc-Việt.
Trung-quốc cũng gọi là vịnh
Bắc-bộ. Cho đến nay (2001), họ cũng vẫn dùng tên đó. Vậy thì rõ ràng vịnh này
của Việt-Nam. Nếu của Trung-quốc thì họ phải gọi là vịnh Nam-bộ chứ? Bây giờ
đến hiệp định Việt-Hoa 25-12-2000 thì vùng vịnh Bắc-bộ được chia ra như sau:
Việt-Nam 53% Trung quốc 47%. So với trước 1887 thì Việt-Nam chỉ mất có 38%, nay
mất thêm 9% nữa!
4.5 - Ảnh hương vụ cắt
lãnh hảị
4.5.1 - Mất lãnh hải, quốc
sản.
Theo hiệp định này thì
rõ ràng đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhường cho Trung-quốc tới 9% lãnh hải vùng
vịnh Bắc-Việt. Cái đau đớn là vùng nhượng là vùng:
- Có nhiều hải sản về cá
thu, cá song, cá hồng, mực là những loại hải sản quý - Dưới đáy biển có mỏ hơi
đốt, và dầu lửa - Một số đảo trong vùng nhượng thuộc Trung-quốc.
4.5.2 - An ninh quốc gia
bị đe dọạ
Nếu vụ nhượng đất nguy
hại về phương diện tinh thần, kinh tế thì vụ nhượng lãnh hải lại nguy hại về an
ninh vì Trung-quốc có thể dùng các đảo này làm phi trường quân sự, căn cứ
Hải-quân để uy hiếp Thủ-đô Hà-nội và các tỉnh trung châu Bắc-Việt và miền
Trung, miền Nam Việt-Nam. Tin của ECL ghi lại, trong những cuộc hội đàm
Hoa-Việt về lãnh hải, Trung-quốc đòi cho được mấy đảo nhỏ trong vùng.
Cũng
những tin của ECL về các cuộc hội của Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản Việt-Nam thì
việc chủ trương nhượng các đảo do quyết định của toàn thể, không do ba ông
Cố-vấn Ðỗ Mười, Lê Ðức-Anh hay Võ Văn-Kiệt. Ðể tỏ ý hoàn toàn quy phục
Trung-quốc, Bộ Chính trị cũng trao cho Trung-quốc toàn bộ kế hoạch phòng thủ
phía Bắc Việt-Nam. Theo ý kiến chúng tôi thì trong Bộ Chính-trị bấy giờ, nhóm quân
đội rất mạnh, chủ chốt có ba vị tướng là Lê Khả-Phiêu, Phạm Văn-Trà, Phạm
Thanh-Nhàn.
Trong tài liệu này, có phần ước tính tình hình Trung-quốc,
Việt-Nam, đại lược như sau:
"- Trung-quốc không
có khả năng dùng Không-quân tấn công vào Thủ-đô Hà-nội và các tỉnh đồng bằng
Bắc-bộ vì khoảng cách từ các phi trường Quảng đông, Quảng-tây, Vân-nam, Hải-Nam
quá xa, phi cơ chỉ có thể tới oanh tạc nhưng trở về thì không đủ nhiên liệu.
- Nếu Trung-quốc tiến
công bằng đường bộ thì ít nhất phải có một triệu quân. Với một triệu quân mỗi
ngày cần 10.000 lượt ô-tô tiếp tế mà đường bộ thì các ngả Lai-châu, Lào-cai,
Hà-giang không dùng được. Chỉ có ba ngả chính tạm dùng: Một là Lạng-sơn, hai là
Hạ-long (Quảng-yên cũ), ba là Cao-bằng. Ba ngả đó đường sá gồ ghề, núi non hiểm
trở. Với 10.000 lượt xe thì chỉ ba ngày là đường nát hết.
- Ðịa thế hiểm trở, khúc
khuỷu của ba con đường này, chỉ cần ba người đóng một chốt, cũng đủ cản trở một
ngày tiếp tế - Trong bối cảnh chiến tranh Hoa-Việt xẩy ra,thì Thủ-đô cũng như
Bộ Chính-trị, Bộ Tổng Tư-lệnh có thể chuyển vào Thành-phố Hồ Chí-Minh.
- Trường hợp đó bắt buộc
Trung-quốc phải dùng đường biển tiếp tế, chuyển quân. Hai quân cảng lớn sử dụng
sẽ là Bắc-hải, Quảng-châu, Hải-Nam. Cả ba cùng xa, rất khó khăn".
Bây giờ Trung-quốc
được mấy đảo trong vịnh Bắc-Việt, rất gần với thềm lục địa của trung châu
Bắc-bộ, miền Trung và miền Nam. Nếu như Trung-quốc thiết lập căn cứ
Không-quân, Hải-quân, trạm tiếp vận tại đây thì toàn bộ lãnh thổ Việt-Nam bị uy
hiếp nặng nề. Ông Lê Khả-Phiêu, Phạm Văn-Trà, Phạm Thanh-Nhàn đều là tướng
lãnh, từng cầm quân trên 40 năm thì các ông phải biết rõ điều đó. Biết nhưng
các ông vẫn làm thì có nghĩa là các ông muốn: "Việt-Nam vĩnh viễn nằm
trong vòng kiềm tỏa của Trung-quốc". Còn như các ông ấy làm việc đó để
được gì, cho ai, vì ai thì tôi chịụ...
Bác sĩ/Tác giả TRẦN ĐẠI
SỸ (Paris, Pháp Quốc).
Bí mật động trời: VC bán
nước cách nào cho Tầu Cộng?!
|
SAIGON HD RADIO
|
||||
|
Preview
by Yahoo
|
||||
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks