Đại Học chăn Trâu




Monday 2 March 2015

Nguyên nhân chiến tranh 1960-1975


Nguyên nhân chiến tranh 1960-1975 

– Trn Gia Phng


1.   NGUYÊN NHÂN BIỂU KIẾN

Theo lời nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), nguyên nhân chính mà VNDCCH đưa quân tấn công Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) từ năm 1960 là vì VNCH không tôn trọng và không thi hành hiệp địnhGenève ngày 20-7-1954 về việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.  Bên cạnh đó, cũng theo quan điểm của nhà nước VNDCCH, người Hoa Kỳ càng ngày có mặt càng nhiều ở VNCH nên dân Việt Nam phải “chống Mỹ cứu nước”.

Quả thật, sau hiệp định Genève đúng một năm, thủ tướng VNDCCH là Phạm Văn Đồng, gởi thư ngày 19-7-1955 lần đầu tiên cho thủ tướng Quốc Gia Việt Nam (QGVN) là Ngô Đình Diệm, yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955 như đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước.

Ngày 10-8-1955, Ngô Đình Diệm đã bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, dựa vào lý do rằng chính phủ QGVN không ký vào hiệp định Genève và nhất là vì  không có bằng chứng nào cho thấy VNDCCH đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi Quốc tế Cộng sản.

Chính thể QGVN đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) vào ngày 26-10-1955.  Tuy chính phủ VNCH nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958 để tuyên truyền với quốc tế.  Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị trên vào ngày 26-4-1958.

Để hiểu rõ vấn đề nầy, tốt nhất nên trở lại với hiệp định Genève ngày 20-7-1954.  Danh xưng chính thức của hiệp định Genève Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, nghĩa là hiệp định Genève chỉ là một hiệp định có tính cách thuần tuý quân sự, không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.

Sau khi Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào và Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp và ngày 21-7-1954 thông qua bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”.
Bản tuyên bố gồm 13 điều, trong đó quan trọng nhất là điều 7. 

 Điều nầy ghi rằng: “Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín.  Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự.  Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.” (1)

Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng “đồng ý”. (2) Không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố nầy, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký.  Điều đó chứng tỏ rằng những nước tham dự hội nghị không cam kết và cũng không yêu cầu các bên liên hệ cam kết là sẽ thi hành tổng tuyển cử, nên không yêu cầu bên nào ký vào bản tuyên bố để cam kết hay để giữ lời cam kết.
Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành.  Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam.  Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị vi phạm trắng trợn, huống gì là những bản tuyên bố không chữ ký.

Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn QGVN không ký vào Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954.  Hai phái đoàn Hoa Kỳ và QGVN đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của mình.  Tuy nhiên, chính phủ QGVN vẫn tôn trọng Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và thi hành việc chia hai nước Việt Nam theo thỏa thuận quốc tế.

Ngoài ra, lúc đó, Hoa Kỳ càng ngày càng tăng viện cho VNCH.  Nhà nước VNDCCH quan ngại rằng nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH (với nền kinh tế tự do) sẽ vượt xa VNDCCH (với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản).  Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng.

Sự hiện diện của người Hoa Kỳ ở VNCH chẳng những khiến cho VNDCCH rất quan ngại, mà cả Trung Quốc cũng không yên tâm.  Trước đây, Hoa Kỳ hậu thuẫn cho chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Hoa (QDĐTH), chống lại đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH).  Năm 1949, đảng CSTH thành công.  Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (gọi tắt là Trung Quốc) ngày 1-10-1949. Chính phủ QDĐTH chạy ra Đài Loan.  Tuy nhiên Trung Quốc vẫn quan ngại Hoa Kỳ yểm trợ cho QDĐTH trở lui lục địa Trung Quốc.

Trung Quốc mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ.  Nay Hoa Kỳ lại có mặt ở miền Nam Việt Nam, gần sát với Trung Quốc nên Trung Quốc rất quan ngại.  Vì vậy, VNDCCH đưa ra thêm chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”, vừa để khích động lòng yêu nước của dân chúng Bắc Việt chống lại VNCH, vừa để thi hành chủ trương chống Mỹ của Trung Quốc và Liên Xô, ngõ hầu kêu gọi viện trợ của khối CSQT.

Như thế, rõ ràng các lý do “thống nhất đất nước” và “chống Mỹ cứu nước” chỉ có tính cách biểu kiến bên ngoài, dùng làm chiêu bài động binh, trong khi lý do thật sự được nhà nước VNDCCH che đậy chính là tham vọng lớn lao của đảng LĐ muốn đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, mà kế hoạch đã được đảng LĐ chuẩn bị từ trước khi ký hiệp định Genève ngày 20-7-1954.

Ghi chú:
1. Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Trình Bày: Sài Gòn 1973, tr. 53.  Vì các văn bản ký kết tại Genève được viết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp.
2. Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.



HoChiMinh
--------o0o--------
Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc
Posted on 03.02.2014 by saohomsaomai

Lời thú tội gây ra cuộc chiến nồi da xáo thịt cho dân tộc, đưa giống nòi, tổ quốc vào con đường nô lệ. Thì bây giờ ai là ngụy, ai là việt gian bán nước?
vietlist.us

Hoàng Thanh Trúc (Chinhluan) - Những ngày tháng cuối năm, theo phong tục tập quán Việt Nam, trong mọi người chúng ta, vì đạo lý tri ân (nhớ ơn) hay dành một phần tâm linh hướng về người thân đã khuất và cho những người vị quốc vong thân.

Mới đây, chắc củng trong chiều hướng ấy, hướng về người vị quốc vong thân nên ngày 18 tháng 1 năm 1974 ông CT/Nước Trương Tấn Sang đã đến xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh cắt băng khánh thành một cái đền thờ xây dựng trị giá tới 5 tỷ đồng cho một nhân vật quá cố có tên Lê Duẩn cựu TBT/đảng CSVN (*) mà nói theo người xưa “trâu chết để da, người ta chết để tiếng” ông ta đã để lại cho dân tộc Việt Nam một tiếng nói bất hủ của ông là: “Ta vào Nam nổ súng là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô”

Từ câu nói như quân lệnh chỉ đường ấy mà hàng triệu thanh niên hai miền Nam Bắc Việt Nam đã nằm xuống, một nửa chết vì chống lại và một nữa chết vì muốn nhuộm đỏ miền Nam theo lệnh của đảng CSVN và quốc tế CS, Liên xô và Trung Quốc.
vietlist.us

Đền thờ trị giá 5 tỷ cho kẻ tuyên bố: “Ta vào Nam nổ súng là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô”.

Hình như nhờ xương máu Việt Nam như trải đường đó mà Liên Xô từ CS/XHCN mới tiến lên được dân chủ đa nguyên, đa đảng, như phương Tây hiện nay. Còn Trung Quốc củng nhờ đó mà nới rộng lãnh thổ về phương Nam, đưa Ải Nam Quan vào viện bảo tàng và nhất là nhờ xương máu Việt Nam quét Mỹ đi nên Trung Quốc có điều kiện rảnh tay một mình một cõi “giải phóng” luôn Hoàng Sa và Biển Đông của Việt Nam!

Và chính ông ta (Lê Duẩn) củng có một sáng kiến rất thực dụng, ngoài phân xanh, phân chuồng, phân bắc, thì ông vận dụng sáng tạo thêm một thứ phân nửa là phân “người chết” để sau 30 tháng 4/1975 kết thúc chiến tranh đích thân ông ký giấy chỉ đạo lùa gần nữa triệu sĩ quan công chức chính phủ miền Nam vào rừng sâu núi thẳm “cải tạo” 1/3 số tù nhân đó thành “phân người” vùi xuống đất bón trực tiếp cho xanh cây lá.

Người dân Việt Nam muốn hỏi ngài CT/Nước Trương Tấn Sang rằng: Đó có phải là công lao to lớn “vì tổ quốc Việt Nam” hay không? Mà cái đền thờ của ông Lê Duẩn toàn là gỗ quí hảo hạng, tượng của ông ta đúc bằng đồng nặng tới hàng tấn?

Ngược lại – cũng trong ngày này (18 và 19 tháng 1) tại thủ đô Hà Nội, nhân dân thương tiếc tưởng nhớ 74 đồng bào anh em chiến sĩ miền Nam, đã anh dũng hy sinh vì chống lại quân TQ xâm lược trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974. Nhưng suốt 40 năm “nhà nước, đảng ta” không có lấy một bát hương tưởng niệm thì lại bị CA/AN chìm nổi đàn áp, phá đám, hành hung và khủng bố mà họ không giải thích là tại sao?.

vietlist.us
CA/AN phá đám, ngăn cấm đồng bào tưởng niệm Liệt Sĩ Hoàng Sa.

Chắc chắn trong 180 quốc gia thuộc LHQ không có quốc gia nào (trừ duy nhất CSVN) cấm đoán công dân mình tôn vinh liệt sĩ hy sinh vì chống xâm lược.

Thưa ông CT/Nước Trương Tấn Sang! Chẳng lẽ bắn giết đày đọa đồng bào anh em mình theo lệnh CS Nga và CS Tàu, tạo điều kiện cho Tàu xâm lược là có công với Tổ Quốc. Còn nằm xuống xả thân hy sinh vì biển đảo cương thổ của cha ông lại là những tội đồ?

Chỉ vô tri vô giác như loài tôm, loài sò, thì cứt mới lộn ngược lên đầu như vậy! Thưa ngài CT/Nước.
Hoàng Thanh Trúc
-------oo0oo-------
lacomau
Việt Cộng đối ngoại thì nhu nhược, bán nước,
đối nội thì tàn ác và hà khắc với nhân dân.

 

Nguyễn Sinh Hùng và quyền... súc vật!

GS Trần Phương nói: CNXH được đưa ra chỉ để bịp thiên hạ


CTV Danlambao - Trong phiên họp chiều 25/2 của Ủy ban Thường vụ Đảng hội có đưa ra quy định tại dự thảo Luật Trưng cầu dân ý. Dự thảo đã đề ra phương án:những vấn đề cần trưng cầu ý dân gồm: sửa đổi, bổ sung Hiến pháp; những chính sách về chủ quyền, an ninh quốc gia, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; việc gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế... Tuy nhiên, Chủ tịch đảng hội Nguyễn Sinh Hùng đã phản biện rằng: “Quyền con người và quyền công dân không thể đưa ra trưng cầu ý dân được”!!!

Theo ông chủ tịch đảng hội này thì "quyền con người, quyền công dân thì cóquyền đương nhiên và quyền do luật định. Quyền đương nhiên thì mọi người phải thi hành ngay từ khi Hiến pháp có hiệu lực, còn cái gì hạn chế quyền con người và quyền công dân thì phải do luật định chứ có phải do trưng cầu ý dân đâu". (1)

Thử mổ xẻ câu nói này của ông ta:

Khi nói "quyền con người, quyền công dân là đương nhiên" thì người ta xem đó là một quyền tự nhiên có được từ khi một người mới sinh ra. Dưới ánh sáng văn minh và các quan điểm về nhân quyền thì đó là quyền phổ quát, không bị giới hạn và bất khả xâm phạm.

Tuy nhiên, trước hết ông Hùng gắn quyền của 90 triệu người vào Hiến pháp do đảng của ông tự viết, tự phê chuẩn, tự thi hành và tự vi phạm. Do đó, quyền con người và quyền công dân không còn là quyền đương nhiên mà trước hết là quyền do Hiến pháp cộng sản quy định.

Nhưng chưa đủ! Sau đó, cái đương nhiên còn sót lại sau khi được Hiến pháp của đảng độc tài quy định cũng xem như là bỏ vào sọt rác luôn với câu thòng: còn cái gì hạn chế quyền con người và quyền công dân thì phải do luật định chứ có phải do trưng cầu ý dân đâu. Do đó, quyền con người và quyền công dân không còn là quyền đương nhiên mà là quyền do đảng cộng sản ban bố theo luật do họ đặt ra.

Tóm lại, tập thể 90 triệu người dân không có "quyền" gì cả. Ngay cả chuyện có quyền trong việc cùng nhau xác định quyền con người và quyền công dân của mình bao gồm những gì, phạm vi rộng hẹp ra sao, có hay không có những giới hạn cũng không luôn. Ngược lại cái quyền (không còn) đương nhiên ấy nằm trong tay của những tên làm luật - là những đảng viên đang nhất quyết nắm quyền cai trị muôn năm với điều 4 Hiến pháp.

Chẳng có tập đoàn muốn độc quyền cai trị muôn năm nào lại muốn giao, muốn trưng cầu dân ý về quyền công dân cả. Do đó, dưới chế độ độc tài cộng sản, khi quyền con người hoàn toàn nằm trong luật định của đảng thì phải nói rằng quyền con người chỉ ngang hay thấp hơn quyền chó ngựa.

Với cái quyền chó ngựa ấy thì đương nhiên không có chuyện cá nhân người dân nào có quyền đề nghị trưng cầu dân ý. Theo phương án của đảng hội thì chỉ có Ủy ban Thường vụ, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu đảng hội mới có quyền đề nghị trưng cầu dân ý. Kế đến là cánh tay nối dài của đảng: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Phùng Quốc Hiển, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách còn muốn cho chắc ăn, hiểu cho rõ đã tuyên bố: "Dứt khoát phải là và chỉ có tập thể đề nghị chứ không thể là cá nhân đề nghị trưng cầu ý dân".

Và nên nhớ rằng cái gọi là tập thể đây là những tập thể của đảng hay cách tay nối dài của đảng. Không có chuyện một tập thể mấy ngàn công dân độc lập lại có tư cách đề nghị trưng cầu dân ý cho quyền con người!

Chỉ cần quan sát những thảo luận, tuyên bố của các quan đỏ, người dân biết ngay số phận của mình: Ở Việt Nam chỉ có một quyền đương nhiên, đó là quyền súc vật.





No comments:

Post a Comment

Thanks

Featured post

Lisa Pham Vấn Đáp official 8/6/2023

Popular Posts

Popular Posts