Tứ Bề Ổn Định
.
Đinh Tấn Lực
“Công tác thanh tra là bạn của dưới, tai mắt của trên” – Huỳnh
Phong Tranh.
Nội các đương triều cần
một tên gọi thật kêu và thật nhộn, như tính cách đặc thù của nó.
Trong số đào
kép ưu tú đó, quan thượng thư bộ hình Hà Hùng Cường là một tay đứng đầu trào
lưu vui tính. Trong thời gian qua, bạn Cường, với nhiều câu danh ngôn trào lộng
(lắm lúc trào cơm và trào cả nhiều thứ khác), đã suýt đoạt giải quán quân …gậy hề.
Gần nhất, bạn Cường đã
giật chõ chính xác vào giữa mặt đồng chí (và đồng cấp) tổng thanh tra chính phủ
đương nhiệm: “Thanh tra mà không ổn định thì… hơi khó”. Tình
hình này quả không chỉ trào lộng, mà có khi còn …trào máu. Nói cho rõ ràng và
đầy đủ, ắt phải là: Thanh tra mà không tuyên bố kết luận rằng mọi thứ ổn định thì
hẳn là sẽ nhộn nhạo khó coi/khó nuốt/khó yên…
Mà cũng chẳng cần chờ
đến kết luận chính thức của kẻ thừa kế tay tổng thanh tra nổi tiếng đương thời
(với hàng loạt biệt thự của người quen thân hiến tặng). Các bộ khác cũng đều đã
lần lượt kết luận, thông qua dàn báo đài hiếu hạnh và một lòng thống nhất của đảng:
Dịch bệnh ổn định;
Buôn lậu ổn định;
Lạm phát ổn định;
Vĩ mô ổn định;
Vi mô ổn định;
Quan hệ ổn định…
Buôn lậu ổn định;
Lạm phát ổn định;
Vĩ mô ổn định;
Vi mô ổn định;
Quan hệ ổn định…
Nhờ thế, việc còn lại
của quan tổng thanh tra trở thành nhẹ nhàng giản dị với một kết luận xứng đáng
được ghi vào đảng sử cận đại:
Chỉ mong đừng ai nghĩ
đến một phạm trù mất ổn định đến mức quan đầu đảng phải long trọng nhấn mạnh
hai lần với toàn đảng rằng: “Phải giữ cho được chế độ, bảo đảm cho được Đảng
lãnh đạo…”.
Chủ đề này cũng không
nhằm triển khai một điều cần giữ mà bất kỳ ai quan tâm cũng quán triệt đến mức
toàn phương vị đó.
Thế, hãy giới hạn trong
chuyện ổn định thôi nhé!
Báo Lao Động tường thuật
như sau:
Trong buổi tọa đàm
“Chung tay phòng, chống tham nhũng vì sự phát triển” diễn ra ngày 9.12, Tổng
Thanh tra Chính phủ – ông Huỳnh Phong Tranh – nói rằng, trong 3 năm qua, chỉ
số cảm nhận tham nhũng không tụt, không tăng có nghĩa là có tính ổn định. “Chúng ta chưa đạt được kết quả như
mong muốn là từng bước đẩy lùi tham nhũng. Cần khuyến khích người dân chống
tham nhũng”.
Trước hết, chỉ số cảm
nhận tham nhũng ở đâu ra?
Tổ chức Minh bạch Quốc
tế (Transparency International), một cơ quan liên hiệp toàn cầu chống tham
nhũng, xếp hạng tình trạng tham nhũng hàng năm của 175 quốc gia và vùng lãnh
thổ, theo một thang điểm được gọi là chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI –
corruption perceptions index).
Theo đó, Việt Nam đạt 31/100 điểm, đứng thứ 119 trên bảng xếp
hạng toàn cầu, với ba khuyến cáo: 1) Tham nhũng trong khu vực công
vẫn là vấn đề nghiêm trọng của quốc gia; 2) Công cuộc đấu tranh và đẩy lùi tham
nhũng ở Việt Nam chưa đạt được những bước tiến cần thiết ; 3) Trong khi VN đứng
yên thì các quốc gia trong vùng đã cố gắng cải thiện chỉ số CPI của họ.
Dân và quan đọc bản công
bố chỉ số cảm nhận tham nhũng này bằng hai cách …không giống nhau.
Quan lại các cấp các
ngành thấy hân hoan về chiếc áo ổn định. Tuyên giáo sẽ ra sức khai thác thành
quả điều độ không trồi sụt bất thường đó. Vả, điều này phù hợp với một thành
tựu rực rỡ khác là kết quả kê khai tài sản các quan chức đạt xác
suất nghi ngờ sự trung thực ở mức độ ép-si-lôn một phần triệu, tức chẳng đáng
liệt kê.
Chưa kể, sự ổn định còn
hiển hiện cụ thể ở những vụ “vào cuộc” và phá án tuyệt vời của cơ quan chức
trách điều tra thuộc hàng đầu thế giới, xuyên qua từng loạt thông tin của hàng
trăm bài báo đồng phục về những cú hích phe cánh gây chấn động toàn quốc mang
tên Chí Dũng/Quý Ngọ/Bầu Kiên/Bá Thanh… mà vẫn không hề làm vỡ, thậm chí, làm
rạn, chiếc bình chứa chuột.
“Ổn định”, ở ý nghĩa
không tăng này, còn là nỗ lực không ngừng nghỉ của toàn thể nội các, kể từ thừa
tướng xuống tới hàng hộ lý thượng thư, về tài năng hô biến ém nhẹm mọi quả đấm
thép thành bùn. Hay, tài năng ảo thuật huơ cây đũa thần cho nhiều nguồn viện
trợ cùng mọi dự án phát triển thành biệt thự. Nghĩa là, từ ngai tới ghế, trách
nhiệm của mọi cấp ở mọi nơi đều ổn định như các thứ để lâu mới hóa bùn.
Về mặt sinh hoạt của các
đảng bộ, “ổn định” là tình trạng ấm êm/tương nhượng/bằng mặt giữa những sứ quân
từng vùng cát cứ. Nghĩa là giảm thiểu tệ nạn ồn ào/xô bồ/phức tạp của thác ném
Lạng Sơn đấu với đường vòng Cầu Treo; hay, phe quân đội đấu với cánh công an;
hay, lực lượng biên phòng đấu với lực lượng hải quan…
Ở tầng thượng của đảng,
“ổn định” chính là mớ huân chương tự nhắm mắt bưng tai và giúp nhau bưng tai
nhắm mắt làm ngơ, một khi các đường dây chung chi, cho dẫu chằng chịt tròng
chéo đến đâu, cũng đã vào hệ thống và lần lượt chạy về tới các đầu mối trung
ương. Đó còn là tình trạng quân bình giữa nỗ lực dung dưỡng với tỷ lệ chia chác
đồng thuận (qua từng giai đoạn). Ngay vào lúc lãnh đạo thi đua khuyến cáo nhau
nhắm mắt bưng tai để phát triển, thì bọn thừa hành cũng biết rõ sức mạnh đấm
mõm của những bó bạc.
Cái lõi của câu danh
ngôn “Công tác thanh tra là bạn của dưới, tai mắt của trên” chính là đây
chăng?
Thế mới biết, dàn báo
đảng đã không ngại cạnh tranh với làng dân báo, chí ít là ở cách giật tít hay
in đậm dòng dẫn nhập: “Chung tay phòng, chống tham nhũng vì sự phát triển”,
mà không cần ghi rõ vì sự phát triển tài sản của lãnh đạo đảng.
Hoặc gióng giả kêu gọi
nạn nhân hãy xếp hàng vô tù cho êm tai nhau: “Cần khuyến khích người dân
chống tham nhũng”. Chống tham nhũng chính thực là chống đảng. Bộ luật hình
sự vẫn còn nguyên đó những điều 79, 88 và 258. Còn trong các đồn công an thì
vẫn đầy ra đó những sợi dây giày đủ dài để thắt cổ.
Dẫu sao, hãy cứ tin vào
“thiện chí” của đảng ở lời hứa chặt cây chém đá là sẽ “cho phép công dân,
báo chí và các tổ chức xã hội dân sự cùng tham gia” vào tiến trình chống
tham nhũng.
Ít nhất, vào thời điểm
lịch sử này, nạn nhân vẫn có hy vọng được hung thủ ưu ái cho phép…
14/12/2014 – Tròn 38 năm ngày khai
mạc đại hội toàn quốc lần thứ tư của đảng Lao Động VN, xóa sổ Mặt trận Giải
phóng Miền Nam, và chính thức đổi tên đảng thành đảng CSVN. Còn được mệnh danh
là “đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc,
là đại hội đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Blogger
Đinh Tấn Lực
Hồ Chí Minh
có phải là một nhà tư tưởng?
Kiều Phong
Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì, có thật hay không?
|
Hồ Chí Minh được xem như cha già của dân tộc
Việt Nam, đi đâu, làm gì cũng nghe nhắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế nhưng, tư
tưởng Hồ Chí Minh là gì, ? Cho đến nay vẫn chưa có một lời giải thích rõ ràng
khúc chiết kể cả từ phía những người cộng sản Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh mâu thuẫn với chủ nghĩa
Marx- Lenin
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, ý thức hệ
chính thống là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có kèm theo mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh như là phần diễn giải.
Tuy nhiên, theo tiến sĩ Lý Tùng Hiếu, giảng viên khoa Văn hóa học,Trường Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, thì những chủ nghĩa, tư tưởng và mục
tiêu ấy lại có mâu thuẫn lẫn nhau: chủ nghĩa Mác - Lênin muốn áp dụng đấu tranh
giai cấp và chuyên chính vô sản để xoá bỏ các giai cấp bóc lột; còn tư tưởng Hồ
Chí Minh và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì chấp
nhận sự tồn tại của các giai cấp, tầng lớp khác nhau và khuyến khích việc làm
giàu chân chính. Liên quan đến các chủ thể làm giàu, bản Hiến pháp năm 1992,
ghi rõ:
“Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức” (Điều
2). Theo đó, công nhân, nông dân, trí thức là những giai cấp tầng lớp cơ bản
trong xã hội Việt Nam, hợp thành “nền tảng” của quyền lực nhà nước; còn những
tầng lớp giàu có trong xã hội như doanh nhân Việt Nam và cán bộ chức quyền không
được xem là thành phần “nền tảng”. Cũng liên quan đến các chủ thể làm giàu của
thời kỳ này là tham vọng duy trì “vai trò chủ đạo” của khu vực doanh nghiệp có
vốn nhà nước, trong khi kinh tế thị trường đòi hỏi sự cạnh tranh công bằng giữa
các thành phần kinh tế quốc doanh, dân doanh, tư bản nước ngoài, v.v.
Tham vọng
duy ý chí đó dẫn đến những đường lối, chính sách, pháp luật thiếu bình đẳng và
hay thay đổi, gây bất lợi đối với doanh nhân và với những người Việt Nam giàu
có nói chung. Vì vậy, đối với đạo đức làm giàu, sự mâu thuẫn ấy đã tạo ra những
nghịch lý trong thực tế: doanh nhân Việt Nam nỗ lực làm giàu và nhiều người
hãnh diện về sự giàu có của mình, nhưng luôn cảm thấy mình phụ thuộc vào nhà
nước và lép vế trước các đại gia tư bản nhà nước và tư bản nước ngoài. Còn cán
bộ chức quyền thì dễ dàng làm giàu dựa vào việc hối mại quyền thế và thực tế
thì họ đã làm thành cả một quốc nạn tham nhũng kéo dài, nhưng vì trên danh
nghĩa họ là những người ăn lương nên không thể công khai sự giàu có và cách làm
giàu của bản thân mình.
Như vậy có thể thấy, đạo đức làm giàu trong thời
kỳ đổi mới - hội nhập cũng là một nghịch lý lớn. Do những chủ nghĩa, tư tưởng
và mục tiêu lớn của thời kỳ này có chỗ mâu thuẫn lẫn nhau, đạo đức làm giàu
trong thời kỳ này là một khái niệm mơ hồ và khó lòng vận dụng.
Còn đối với cán bộ chức quyền, nội dung của đạo đức làm giàu không được nêu lên mặc dù không ai cấm cán bộ ấy làm giàu hợp pháp. Nhưng những quy định khác có liên quan đến đạo đức làm giàu của cán bộ chức quyền thì sẵn có trong tám chữ: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, và được cụ thể hoá trong các Luật Cán bộ Công chức và Luật Viên chức. Nếu tuân thủ đúng những yêu cầu ấy thì cán bộ chức quyền không thể làm giàu được, trừ phi lương thưởng của họ được nâng cao hơn mức hiện nay.
Còn đối với cán bộ chức quyền, nội dung của đạo đức làm giàu không được nêu lên mặc dù không ai cấm cán bộ ấy làm giàu hợp pháp. Nhưng những quy định khác có liên quan đến đạo đức làm giàu của cán bộ chức quyền thì sẵn có trong tám chữ: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, và được cụ thể hoá trong các Luật Cán bộ Công chức và Luật Viên chức. Nếu tuân thủ đúng những yêu cầu ấy thì cán bộ chức quyền không thể làm giàu được, trừ phi lương thưởng của họ được nâng cao hơn mức hiện nay.
Chính vì vậy, thái độ của xã hội đối với việc
làm giàu và đạo đức làm giàu trong thời kỳ đổi mới - hội nhập cũng bao gồm hai
loại: tích cực và tiêu cực. Giàu có như doanh nhân Việt Nam, cán bộ chức quyền,
trong con mắt dân gian đều là cái giàu có đáng ngờ.
Dấu hiệu đạo văn
Ông Hồ hay trích dẫn ca dao, tục ngữ, thường
nhắc lại những câu nói của người xưa, vì ông không dẫn nguồn nên các thế hệ học
giả vốn quen lừa dối cứ tưởng ông là người đầu tiên đưa ra những quan điểm đó.
Chẳng hạn, Quản Trọng bên Trung Quốc bảo: Vì lợi
ích một năm trồng lúa - Vì lợi ích mười năm trồng cây - Vì lợi ích trăm năm
trồng Người. Nhưng khắp các biển hiệu giáo dục ở Việt Nam lại đề tên Hồ Chí
Minh dưới hai câu sau trong số ba câu này của Quản Trọng.
Độc lập - tự do - hạnh phúc cũng không phải là tư tưởng của Hồ Chí Minh mà trích từ trong học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Độc lập - tự do - hạnh phúc cũng không phải là tư tưởng của Hồ Chí Minh mà trích từ trong học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những
tiêu chuẩn đạo đức hết sức cơ bản của Nho giáo. Đây cũng không phải là tư tưởng
của Hồ Chí Minh mà là của Nho gia.
Hồ Chí Minh có một thời thanh xuân tiếp xúc
nhiều với đạo Thiên Chúa. Ông trích dẫn nhiều câu nói của Giê-su, người sáng
lập Ki-tô giáo và nhà tư tưởng lớn nhất thế giới tính đến ngày nay, nhưng những
người cộng sản lại nói rằng ông là người đầu tiên phát biểu những quan điểm đó.
Chẳng hạn, Kinh Thánh Tân Ước, Tin Mừng theo thánh Marco, một trong mười hai đệ
tử của Giê-su, chương 9, câu 33 đến câu 36 có ghi lại sự việc như sau: “Sau đó,
Ðức Giêsu và các môn đệ đến thành Caphácnaum. Khi về tới nhà, Ðức Giêsu hỏi các
ông: "Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?"
Các ông làm thinh,
vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Rồi Ðức Giêsu
ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì
phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." Hồ Chí Minh đã
chỉnh sửa quan điểm của Giê-su, thay đổi một số từ ngữ để trở thành một câu
mang màu sắc chính trị của ông ta như ngày nay thường thấy trong các câu tuyên
truyền của Đảng: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân”. Điều đáng lưu ý là câu nói
này được đem ra để bảo vệ chế độ và phân biệt chế độ hiện hành Việt Nam với các
nước khác trong phe cộng sản.
Vì sao có tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam?
Trên thế giới, các triết gia và người trí thức
thường chỉ đề cập đến Marxist, Leninist, Stalinist, Maoist, Titoist nhưng chưa
nghe đến Hoist. Kể cả những học giả Tây phương thân cộng như Jean Lacouture
cũng xác nhận rằng Hồ Chí Minh là một con người hành động chứ không phải là một
lý thuyết gia.
Đảng Cộng Sản Việt Nam định nghĩa tư tưởng Hồ
Chí Minh như sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả
của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu văn hoá nhân loại...”
Thế nhưng, những quan điểm đó rời rạc và chung
chung chứ không phải là hệ thống, không đưa đến một chương trình hành động. Tư
tưởng phải nằm trong một hệ thống triết học hoặc một hệ thống tư duy, ông Hồ
không đưa ra được một hệ thống mới. Hơn nữa, chính ông Hồ cũng đã nói: Tôi
không có tư tưởng nào ngoài tư tưởng Marx- Lenin.
Nhà cầm quyền cũng biết điều này. Nhưng tại sao
họ phải gán một tư tưởng cho Hồ Chí Minh? Đó là vì những năm 1990, Liên Xô sụp
đổ cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Câu khẩu hiệu Chủ nghĩa Marx-
Lenin bách chiến bách thắng đã mất hoàn toàn giá trị. Họ ghép tư tưởng Hồ Chí
Minh với chủ nghĩa Marx-lenin với hàm ý rằng bên châu Âu người ta thất bại, còn
chúng tôi có tư tưởng ông Hồ nữa nên sẽ không thất bại và chúng tôi có quyền
lãnh đạo vĩnh viễn là hợp lý.
Hiện nay bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh tại các
trường đại học có số thí sinh dự thi ít, điểm chuẩn rất thấp so với các ngành
còn lại. Chính phủ miễn, giảm học phí cho ngành này nhưng cũng chẳng ai mặn mà.
Nhưng môn này đi ngược xu thế toàn cầu hóa và do đó không thể đi ra được quốc
tế. Lý do căn bản nhất trôi lững lờ như một tảng băng trôi, đó là, chủ nghĩa
Marx-Lenin giống một thứ môn tâm lý học chứ không phải môn khoa học, còn Hồ Chí
Minh rõ ràng là một nhà mưu lược chứ không phải là một nhà tư tưởng, thật sự
không tồn tại cái mà Đảng gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Xét trên nhiều phương
diện, những quan điểm của Hồ Chí Minh lại trái ngược với Marx-Lenin, cho nên,
càng áp dụng chúng, đất nước càng lụn bại.
No comments:
Post a Comment
Thanks