ĐỘC TÀI LÀ PHẢN LẠI NHÂN QUYỀN, LÀ
MAN
RỢ, VÔ VĂN HÓA, VÔ VĂN MINH
Đảng Cọng Sản Việt Nam Gieo Rắc Chủ Nghĩa Đầu
Hàng Trung Quốc
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
Lời mở đầu của Bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đồng thanh chấp
nhận vào ngày 10/12/1948, có ghi rõ :
« Xét rằng sự
công nhận nhân phẩm của mọi người, thành viên của đại gia đình nhân loại ;
và sự công nhận quyền bình đẳng, bất khả nhượng, là nền tảng của tự do, công lý
và hòa bình trên thế giới.
Xét rằng sự xao nhãng,
khinh miệt và chà đạp những quyền tự do căn bản của con người là những hành
động man rợ, đi ngược lại lương tâm và lương tri của nhân loại ; và một
thế giới mà trong đó mọi người đều được tự do ngôn luận, tín ngưỡng, không bị
đe dọa bởi nghèo khổ ; thế giới đó phải được coi như ước vọng cao cả nhất
của con người.
Xét rằng quả là cần
thiết để những quyền căn bản của con người phải được bảo vệ bởi một nhà nước
pháp quyền, để con người không bị áp bức ; trong trường hợp ngược lại, con
người có quyền đứng lên chống lại độc tài, áp bức. «
Chính trong tinh thần
đó mà có người cho rằng những chế độ độc tài là phản nhân quyền, là man rợ, vô
văn hóa, vô văn minh. Có phải thế không ?
I) Nhân quyền là bẩm sinh, toàn cầu, không
phân biệt màu da, chủng tộc
Thực
vậy, tự do là những quyền căn bản, bẩm sinh của con người, không phân biệt màu
da, chủng tộc, giai tầng, đi từ quyền tự do sinh sống, tự do mưu cầu hạnh phúc,
tự do cư trú, đi lại, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do họi họp, tự do
chính trị, tự do kinh tế v.v.. Viết đến đây tôi lại nhớ đến 2 bài thơ, lúc tôi
học tiểu học, ở sài gòn, trước năm 1975. Cả 2 bài nói về tự do và tình liên đới
của những người đấu tranh cho tự do, . Tôi không nhớ tác giả là ai, không nhớ
hoàn toàn bài. Mong ai là tác giả thông cảm, bỏ qua.
Hỡi
hỡi chim này !
Lồng
vàng, vì mày ta đã sửa sang cho mày.
Còn
gì xinh đẹp cho tày
Còn
đâu xung xướng bằng đây nữa mà !
Này
đệm bông, này giường hoa
Này
là gạo trắng, này là cơm khô
Ở
đây ngươi sẽ ấm no một đời .
Thôi
thôi, ta đã biết rồi
Lồng
vàng cũng thể là nơi ngục tù.
Vả
chăng no ấm mặc dù
Tay
dàng, chân buộc, quyền do tại người.
Chi
bằng rừng nọ thảnh thơi
Khi
ăn, khi ngủ, khi chơi, khi đùa
Một
mình sung xướng Tự Do
Không
ai bắt buộc
Không
ai phiền hà
Chúng ta thấy, ngay con chim nó còn muốn
có tự do. Huống chi là con người. Vì vậy luận điệu hiện nay của giới lãnh đạo
cộng sản Việt Nam, được nhả ra rồi nhai lại bởi một số trí thức hèn mạt, bán rẻ
lương tâm, lương tri, cho rằng tự do, nhân quyền, dân chủ là sản phẩm của Tây
phương, người Việt Nam, Đông phương không cần ; hay luận điệu bảo rằng dân
Việt Nam chưa đủ trình độ dân trí để có tự do, nhân quyền. Cũng với giới lãnh
đạo cộng sản và giới trí thức hèn mạt, trước năm 1975 ; thì « Dân
tộc Việt Nam là đỉnh cao trí tuệ của loài người tiến bộ. » Quả là miệng
lưỡi không xương của người cộng sản.
Bài
thơ thứ hai nói về tình liên đới của những người đấu tranh cho tự do, dân chủ.
Tôi cũng không nhớ tác giả là ai và cũng không nhớ hết ; nhưng tôi xin
phép mạo muội viết ra đây để thân tặng tất cả những người đấu tranh cho tự do,
dân chủ, ở quốc nội cũng như ở hải ngoại.
Tự
do thế giới, anh ơi !
Chúng
ta đôi ngả, chân trời đại dương,
Bể
xâu ngăn cản đôi đường.
Nhưng
mà gần lắm, tình thương mặn nồng
Trên
đường chống cộng, cảm thông,
Chúng
ta cương quyết một lòng đứng lên !
Chúng
ta mãi mãi không quên
Công
trình bác ái dựa trên ngàn đời
Chúng
ta gần lắm, anh ơi !
Cùng
nhau chung một cuộc đời tự do !
Cùng
nhau chung một con đò,
Chúng
ta chèo chóng, giọng hò ngân vang.
Tự
do thế giới kết đoàn !
Vượt
bao nguy hiểm, gian nan không sờn !
II) Những
hành động chà đạp nhân quyền là những hành động man rợ, vô văn hóa, vô văn minh
Văn
là vẻ đẹp, hóa là biến hóa ; minh là chiếu sáng. Làm cho trở nên đẹp là
văn hóa. Văn hóa mà chiếu sáng, mọi người biết đến là văn minh. Chúng ta có thể
định nghĩa đơn giản văn hóa và văn minh là tất cả những hành động của một tập
đoàn con người, có tính cách thế thứ, trao truyền, nhằm làm tốt đẹp đời sồng
con người trên 2 phương diện vật chất và tinh thần. Về vật chất tối thiểu
thì con người khi đói, có com ăn, khi rét thì, có áo mặc, khi bệnh, có thuốc
uống. Về tình thần, thì càng ngày càng được nâng cao, có nghĩa là nhân quyền,
tức những quyền tự do căn bản phải được tôn trọng. Văn hóa, văn minh đi ngược
lại cái gì man rợ, vô văn hóa, vô văn minh.
Từ
cái nhìn đó, chúng ta thấy tất cả những chế độ độc tài như độc tài cộng sản
Việt Nam, Bắc Hàn là man rợ, vì dưới những chế độ này, con người khi đói không
có cơm ăn, khi bệnh không có thuốc uống, thêm vào đó nhân quyền bị chà đạp. Bắc
Hàn hiện nay dân đang chết đói, có cả ngàn tù nhân chính trị, tất cả mọi quyền
tự do căn bản của con người bị chà đạp. Nhà máy không có điện để chạy ;
trong khi đó điện dùng để chiếu sáng những bức tượng của cha con Kim nhật
Thành, Kim chung Nhất, được dụng lên ở khắp nơi, bắt dân phải tôn thờ. Việt Nam
hiện nay là một trong những nước nghèo đói nhất thế giới, sản lượng tính theo
đầu người hàng năm là 550$ để bắt kịp Thái Lan phải 30 năm, bắt Singapour và
Nam Hàn phải gần 200 năm. 550$ đó là tính theo trung bình, chính tờ báo cộng
sản Người Lao Động có làm một cuộc nghiên cứu vào đầu năm 2005, thì người dân ở
những vùng hẻo lánh như Cao B ằng, Lạng Sơn, Ban Mê Thuộc và
những vùng hẻo lánh ở miền Nam, thì có những người dân không có tới 36$ một năm
để sinh sống ; trong khi đó thì quan chức nhà nước, con ông cháu cha tiêu
tiền vứt qua cửa sổ, đánh những canh bạc cả triệu $ như vụ PMU18, tiêu cả ngàn
$ trong những nhà hàng, quán nhảy mỗi đêm. Tiền đó do đâu mà ra. Tham nhũng,
hối lộ, ăn hút máu mủ của dân. Việt Nam hiện nay là một trong những nước hối lộ
và bất công nhất thế giới. Không những Việt Nam đứng đầu sổ lộn ngược về tham
nhũng, bất công mà còn đứng đầu sổ lộn nhược về vi phạm nhân quyền. Anh Phạm
hồng Sơn chỉ dịch bài dân chủ là gì mà cũng bị vu khống là gián điệp, bị bắt bỏ
tù. Anh Lê chí Quang chỉ viết bài Hãy Cảnh giác Bắc Triều tố cáo hành động dâng
đất nhượng biển mà cũng bị cầm tù. Cô Lisa Ph ạm, anh Trương
quốc Huy, Trương quốc Tuấn chỉ lên Internet, Pal talk nói lên lòng yêu nước của
mình mà cũng bị bắt bỏ tù không xét xử trong vòng 9 tháng. Theo tin mới nhất
của đài RFI ngày hôm nay 23/08, thì anh Trương quốc Huy lại bị bạo quyền cộng
sản bắt lại. Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới đã tố cáo hành động này là hành
động bắt cóc, vi phạm nhân quyền.Còn biết bao người, bao nhà lãnh tụ tôn giáo
bị quản thúc, giam cầm vô duyên cớ ở Việt Nam.
Chế độ độc tài không
những phản nhân quyền, man dại, vô văn hóa, vô văn minh, mà còn là những chế độ
diệt chủng như độc tài phát xít và độc tài cộng sản. Chính vì vậy mà thế giới
đã lập tòa ánh Nuremberg để xử Hitler và đồng bọn trước đây ; hiện nay thì
Liên Hiệp Quốc đang lập tòa án để xử độc tài cộng sản diêt chủng Pol Pot ở Căm
Bốt ; Tòa ánh quốc tế Âu châu xử độc tài Milosévic của Nam tư cũ. Hội đồng
Âu châu gồm 46 nước, ngoại trừ Bìlorussie, đã lên án chế độ cộng sản là chế độ
diệt chủng với cả trăm triệu nạn nhân, qua nghị quyết 1481. Dân tộc Nga và các
dân tộc Đông Âu đã can đảm đứng lên đấu tranh cho nhân quyền, đòi quyền sống.
Dân tộc Việt Nam hãy can đảm noi gương đấu tranh lật đổ chế độ cộng sản diệt
chủng. Làm như vậy thì mới không còn cảnh cả chục ngàn trẻ em vị thành niên bán
thân nuôi miệng ở Căm bốt ; không còn cảnh cả chục ngàn chị em phụ nữ
không có công ăn việc làm dưới chế độ độc tài, phải đi lấy chồng ngoại quốc,
rồi bị hành hạ ; không còn cảnh tụt hậu, tham nhũng, bất công ; mới
có thể theo kịp những nước trong vùng.
Paris
ngày 23/08/2006
Chu
chi Nam
MÁC, LÊ NIN = TỘI ÐỒ CỦA NHÂN
LỌAI HỒ CHÍ MINH=TỘI ÐỒ CỦA DÂN TỘC VIỆT
I) Mác, tội đồ của nhân
loại qua lý thuyết vì những lý do sau :
a) Lý
thuyết của Mác chủ trương bạo động lịch sử, đấu tranh giai cấp dẫn đến cảnh
chiến tranh triền miên : nội chiến qua những vụ đấu tố, con đấu cha, vợ tố
chồng, bạn bè tìm cách sát hại lẫn nhau ; ngoai chiến qua việc nưóc này
đánh nước nọ.
b) Lý
thuyết của Mác chủ trương phá hủy văn hóa và văn minh cũ, chủ trương tiêu diệt
tôn giáo đưa đến cảnh luân lý băng hoại, đạo đức suy đồi.
c) Mác
chủ trương bãi bỏ quyền tư hữu, nhưng thực tế quyền tư hữu không thể bãi bỏ, mà
chỉ có thể chuyển nhượng, gây ra cảnh, đùng một lúc, tất cả những dân tộc bị
đặt dưới chế độ cộng sản, trở nên nghèo đói, qua những vụ đánh tư bản mại sản ;
và một thiểu số người là đảng đoàn cán bộ trở thành những ông chủ tư bản đỏ ;
xã hội trở thành vô cùng bất công.
d) Mác
chủ trương độc tài vô sản khơi mào cho quan niệm độc khuynh, độc đảng của Lê
nin và của tất cả những nhà nước đàn áp bóc lột cộng sản sau này.
I I ) Lê nin, Staline,
Trotski cướp quyền qua một cuộc đảo chanh vào tháng 10 năm 1917,
áp dụng lý thuyết của Mác, chủ trương xuất cảng chế độ cộng sản, biến thế giới
thành cộng sản, tạo ra một trang sử đau thương nhất của nhân loại vào thế kỷ 20
với gần 100 triệu nạn nhân theo như những sử gia S ; Courtois, Margollin
v.v.. trong quyển Những Trang Sử Ðen của Chủ nghĩa Cộng sản ( Le Livre noire du
Communisme).
a) Chiến
lược gián tiếp đánh tư bản của Lê nin
b) Chiến
lươc toàn chiếm các nước trên thế giới của Brejnev qua 2 sách lươc : 1)
Thượng sách toàn chiến thắng để ngọn cờ cộng sản cắm mọi nơi trên thế giới ;
2) Trung sách chia thế giới ra làm 2.
I I I ) Hồ chí Minh, tội đồ của dân tộc
Việt vì :
1) Ðã nhập cảng và áp đặt lý thuyết Mác Lê
lên đầu cổ dân tộc Việt Nam
2) Ðã áp dụng lý thuyết Mác Lê qua những vụ
đánh tư bản, mại sản, “ trí phú hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn "
3) Hồ chí Minh là tội đồ của dân tộc vì đã
đặt Việt Nam vào gong cùm Ðệ Tam Quốc Tế Cộng sản, biến nước Việt thành một bãi
tranh hùng tư bản-cộng sản
a) Chiến lược tấn công các nước tư bản một
cách gián tiếp qua các nước thuộc địa của Lênine;
b) Chiến lược nhuộm đỏ thế giới của Brejnev
qua 2 sách lược: 1) Thượng sách đẩy mạnh công cuộc chinh phục thế giới để ngọn
cờ cộng sản tung bay trên toàn thế giới;2) Trung sách chia đôi thế giới. Hồ chí
Minh và Lê Duẫn đã tự biến mình và dân tộc Việt thành một người lính đánh thuê
cho đế quốc Liên sô, vì vậy nên đã cưỡng chiếm miền Nam, xua quân sang Căm Bốt
và gây hấn với Trung Cộng.
4) Hồ chí Minh và đảng cộng sản là tội đồ
của dân tộc vì đã dâng đất, nhượng biển cho Trung cộng.
IV) Kết luận : Hồ chí Minh
và đảng cộng sản Việt Nam quả thật là tội đồ của dân tộc; vì vậy cuộc đấu tranh
chống cộng sản hiện nay là một công cuộc đấu tranh cứu dân, cứu nước.
Paris
ngày 21/10/2004
CCN
NHỮNG
LÝ LUẬN ĐƠN GIẢN, NGỤY BIỆN VÀ SAI LẦM CỦA CỘNG SẢN
Lý luận đơn giản là thay vì
nhìn sự vật dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng chỉ nhìn nó dưới một cạnh,
sau đó tìm cách tổng quát hóa, đưa thành định luật. Lý luận ngụy biện là thay
vì có đủ nguyên nhân rồi mới đi đến kết luận, nhưng chỉ đưa ra một vài nguyên
nhân, chưa đủ, rồi đã kết luận. Theo tinh thần khoa học, thì phải có nguyên
nhân ắt có, rồi nguyên nhân đủ,
mới đi đến kết luận. Như để trở
thành nước, thì phải có Hydrogène và Oxygène, đó là nguyên nhân ắt có ;
tuy nhiên phải có 2 nguyên tử Hydrogène và 1 nguyên tử Oxygène mới thành nước,
đó là nguyên nhân đủ. Đó là đối với khoa học chính xác như hóa học, vật lý,
thiên văn, toán học. Còn đối với khoa học nhân văn, không chính xác, thì rất là
khó định nguyên nhân, ngay dù là ắt có và đủ. Chẳng hạn như trong lịch sử, ngay
dù trong quá khứ, đưa ra một vài sự kiện, rồi đã kết luận là lịch sử thế này,
lịch sử thế nọ, lập nó lên thành quy luật; bảo đó là khoa học lịch sử ;
nhất là từ đó lại suy diễn cho tương lai, bảo rằng lịch sử đi theo chiều hướng
này, đi theo chiều hướng nọ; đó là ngụy biện, sai lầm. Từ chỗ đơn giản hóa,
ngụy biện, thì dễ dàng đi đến sai lầm.
Nói
đến những lý luận đơn giản hóa, ngụy biện và sai lầm của cộng sản thì có rất
nhiều. Có thể nói nó bắt đầu từ Marx, Engels, qua Lénine, Staline rồi tới cộng
sản Việt Nam. Chúng ta hãy xét từng trường hợp một.
I ) Lý luận
đơn giản, ngụy biện và sai lầm của Marx và Engels
Ai cũng
biết K. Marx viết Tuyên Ngôn Thư Đảng Cộng Sản vào tuổi 30, vì Marx sinh năm
1818 và viết vào cuối năm 1847, đầu năm 1848.
Thật vậy,
Liên minh những Người đúng ( Ligue des Justes) họp ở Luân đôn, Anh quốc vào đầu
tháng sáu 1847, và qua những trao đổi thư từ giữa Marx và những người tham dự,
qua đề nghị của Marx, Liên minh đã đổi thành Liên Minh những người Cộng sản (
Ligue des Communistes). Điều đáng tiếc là vì tiền bạc khó khăn Marx không thể
tham dự. Người đại diện Marx là Engels, đã được Hội Nghị đề cử ghi chép tất cả
những ý kiến của những người phát biểu , rồi trao cho Marx để viết. Nhưng
Marx cứ chần trừ không viết ; mặc dầu đã có nhiều lần khuyến cáo của Ủy
Ban Trung ương Liên minh.
Ngày 26/1/1848, Ủy Ban Trung Ương thông báo từ Luân
Đôn cho Đại diện Liên minh ở Bruxelles, thủ đô nước Bỉ, nơi Marx đang sống lưu
vong, quyết định của tổ chức vào ngày 24/01, yêu cầu Marx trả lại tất cả những
điều mà Engels đã ghi chép ở Đại hội để cho người khác viết, để kịp ấn bản vào
đầu tháng hai. Lúc đó Marx mới quyết định viết và đã hoàn thành vào tuần cuối
của tháng 01. Viết đúng một tuần. ( Theo J. Attali – Karl Marx ou l’esprit du
monde – trang 139 – Ed. Fayard- Paris 2005 ). Điều này chứng tỏ Marx rất thông
minh, viết một quyển sách nổi tiếng thế giới vào tuổi 30, trong vòng 1 tuần.
Tuy nhiên nó cũng nói lên rằng, những cái gì Marx viết trong Tuyên Ngôn Thư
chưa phải là điều Marx suy nghĩ chín chắn, nghiên cứu tới nơi tới chốn, nó bắt
nguồn từ những cảm hứng, tinh thần lãng mạng, hơn là những cái gì có tính cách
suy nghĩ, kiểm nghiệm từ lâu trên phương diện lịch sử, kinh tế và xã hội. Marx
là một người rất lãng mạng, từ thiếu thời và ngay cả khi về già.
Marx bắt
đầu Tuyên Ngôn Thư bằng câu : « Lịch sử nhân loại cho tới ngày hôm
nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp. « ( K. Marx – Le manifeste du
Parti communiste – trang 19 – Union générale d’Editions – Paris 1962). Đây là
một cái nhìn đơn giản tối đa, nếu không muốn nói là sai lầm về lịch sử. Chúng
ta có thể nói vào tuổi 30, Marx chưa đủ thời gian để đọc hết lịch sử các quốc
gia của nhân loại, thế mà Marx vẫn thản nhiên viết như vậy. Nhìn lịch sử nhân
loại qua lịch sử của đấu tranh giai cấp là đơn giản hóa tối đa lịch sử, nếu
không muốn nói là làm sai lịch sử. (1) Lịch sử là gì, nếu không là tất cả những
hành động của con người, của một cộng đồng được ghi chép lại, thường người ta
chỉ ghi chép những biến cố quan trọng. Trong lịch sử nhân loại có rất nhiều sự
kiện ông lãnh chúa này mang quân đánh ông lãnh chúa kia, vì một nguyên do rất
tầm thường, nhiều khi tranh giành một người phụ nữ đẹp; hay anh em tranh nhau
ngôi báu, như trường hợp anh em Nguyễn Huệ, đâu có phải bắt nguồn từ giai cấp
khác nhau. Những sự kiện này rất nhiều trong lịch sử nhân loại. Phải chăng
những sự kiện này, dưới cái nhìn của Marx, không phải là lịch sử ?
Thêm vào
đó, Marx còn cho rằng lịch sử là lịch sử của bạo động. Ở điểm này Marx đã lấy
cái gì bất bình thường làm cái bình thường và đưa lên hàng định luật, không có
một tý gì là khoa học. Không cần nói đâu xa, chúng ta cứ quan sát lịch sử của
một con người hay ngay của cả một quốc gia, thì chúng ta sẽ rõ. Bình thường,
con người ai cũng muốn sống yên thân, trong hòa bình, họ chỉ bạo động, khi bắt
buộc. Một qyuốc gia cũng vậy. Chúng ta cứ lấy lịch sử 2 quốc gia Pháp, Đức đã
là nguyên do và tác nhân chính của 2 trận thế chiến. Nhưng đây cũng chỉ là bất
bình thường, còn bình thường thì 2 quốc gia này vẫn sống hòa bình với nhau.
Marx còn
viết : « Người cộng sản có thể thâu tóm lý thuyết của mình trong một
câu duy nhất : Bãi bỏ quyền tư hữu. « ( Tuyên Ngôn thư – trang 36).
Ở đây Marx đã đơn giản tối đa lý thuyết về chủ nghĩa xã hội và đồng thời lý
thuyết của mình, làm cho người về sau áp dụng lý thuyết của Marx chỉ cần để
trong đầu câu nói duy nhất là bãi bỏ quyền tư hữu. Đấy là chưa nói đến việc tư
tưởng của Marx về quyền tư hữu không có tính khoa học và sai lầm.
Thật vậy,
Marx và Engels, nhất là Engels, trong quyển Nguồn gốc của gia đình, của quyền
tư hữu và của nhà nước ( L’Origine de la famille, de la proprité privée et de
l’etat ), đã dựa vào công trình nghiên cứu của một số nhà xã hội học như Morgan
về một vài xã hội thời thượng cổ, rồi đi đến kết luận là xã hội nguyên thủy của
loài người không có quyền tư hữu, là thiếu khoa học ; vì đó mới chỉ là
những điều kiện ắt có, chưa phải là những điều kiện đủ để đi đến kết luận như
vậy. Marx và Engels còn lầm lẫn ở chỗ là quyền tư hữu không thể bãi bỏ, mà chỉ
có thể chuyển nhượng. Kinh nghiệm gần 100 năm, từ ngày nhà nước cộng sản được
thành lập bởi Lénine vào năm 1917 cho tới nay, đã chứng minh rất rõ là quyền tư
hữu không thể bãi bỏ , mà chỉ có thể chuyển nhượng.
Đảng cộng sản, gồm một nhóm
người, sau khi cướp được chính quyền, đánh tư bản, mại sản, bảo rằng bãi bỏ
quyền tư hữu ; nhưng thực tế là chuyển nhượng quyền tư hữu từ tay toàn dân
vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ. Việc dân oan khiếu kiện vì bị cướp đất,
đuổi nhà không chỉ có ở Việt Nam mà còn có ở Trung Cộng, ở Căm bốt. Nó bắt
nguồn từ lý thuyết sai lầm của Marx về quyền tư hữu. Hơn thế nữa quyền tư hữu
là một nguyên động lực giúp con người làm việc. Nay ở những nước cộng sản, toàn
dân bị tước quyền tư hữu, không còn muốn làm việc, cảnh « Cha chung không
ai khóc, ruộng chung không ai cày, nhà chung không người chăm sóc «, ở
những nước cộng sản là vậy .
Theo
Engels, thì Marx đã làm ra 2 phát minh lớn : 1) « Giống như Darwin
phát minh ra qui luật phát triển của thế giới hữu cơ, Marx phát minh ra qui
luật phát triển của lịch sử con người. « 2) « Giá trị thặng dư là
phát hiện thứ hai vĩ đại của Marx . » Chúng ta sẽ suy nghĩ về 2 vấn đề
này.
1) Về
Darwin
Darwin (
1809-1882) sinh trước Marx (1818-1883) 9 năm, chết trước Marx 1 năm. Người ta
có thể nói là 2 người cùng thời. Hơn thế nữa 2 người cùng ở Anh, cách nhau
khoảng mấy chục dặm. Năm 1859, Darwin cho xuất bản quyển Nguồn gốc chủng loại
và những phương tiện lựa chọn tự nhiên ( L’origine des espèces et des moyens de
la sélection naturelle) ; cũng là năm Marx cho xuất bản quyển Tư bản luận
bằng tiếng Đức.
Người đọc Darwin trước tiên là Engels. Ông này đã hăng say nói
với Marx rằng Darwin là người cùng phía với chúng ta ; vì Darwin tin rằng
có một lịch sử thế tục của nhân loại và có một sự đấu tranh sống còn cho cuộc
sống. ( Theo J. Attali – Karl Marx ou l’esprit du monde – trang 248 – nhà xuất
bản Fayard – 2005-Paris). Engels đề nghị là phải gặp Darwin. Việc mà Marx đã
làm, bằng cách là viết một cái thư và biếu ông ta một quyển sách Tư bản luận
bằng tiếng Đức. Nhưng không có trả lời. Một vài năm sau, khi quyển Tư bản luận
được dịch ra bằng tiếng Anh, Marx lại viết một bức thư và gửi tặng Darwin quyển
sách bằng tiếng Anh. Lần này có hồi âm ; nhưng dè dặt và lạnh nhạt ;
vì Darwin cho rằng lý luận của ông chỉ áp dụng cho khoa học thiên nhiên, chứ
không phải cho khoa học nhân văn, chỉ áp dụng cho loài vật, chứ không cho loài
người ; và sự lựa chọn tự nhiên giữa loài vật, nó xẩy ra tự nhiên, tình
cờ, chứ không theo một tiến trình nào cả, nhất là không theo tiến trình biện
chứng pháp như Marx và Engels nghĩ. Ông còn thêm rằng « tư tưởng của Marx
có tính chất tuyên truyền, không khoa học, vô thần, chống thiên chúa và có hại
cho việc giải phóng trí tuệ của con người. « ( Sách vừa dẫn – trang 403).
Những sự kiện này, Marx và Engels biết rõ hơn ai hết, thế mà vẫn thản nhiên
viết :
« Thiên
nhiên là viên đá thử vàng của biện chứng pháp và phải nói rằng những khoa học
hiện đại của thiên nhiên đã cấp cho vấn đề này những nhiên liệu vô cùng quí giá
và nó tăng lên mỗi ngày ; khoa học hiện đại đã chứng minh rằng thiên
nhiên, cuối cùng đã biến chuyển một cách biện chứng pháp ( dialectiquement),
chứ không phải một cách siêu hình ( non métaphysiquement), rằng thiên nhiên
không biến chuyển theo một chu kỳ giống nhau mãi mãi, lập lại hoài hoài ;
mà thiên nhiên có một lịch sử thật sự. Về điểm này, chúng ta cần nhắc tới
Darwin, người đã dáng một quả búa nặng nề cho quan niệm siêu hình về thiên
nhiên, bằng cách chứng minh rằng toàn thể thế giới hữu cơ, như nó hiện hữu ngày
hôm nay, những cây cỏ, xúc vật, và tất nhiên trong đó có con người, đều là sản
phẩm của một tiến trình phát triển đã kéo dài hàng bao triệu năm nay. « (
Engels - dẫn bởi Staline, trong Histoire du Parti communiste/ Bolchévik de
l’U.R.S.S. – trang 118-Editions Norman Béthume - Paris-1971).
Thiên nhiên
biến chuyển theo biện chứng pháp là biến chuyển như thế nào ? Trước khi
trả lời câu này, chúng ta cùng xem xét chữ biện chứng pháp.
Chữ
Dialectique ( Biện chứng) đi từ chữ Hy Lạp ( Grec) Dialegein có nghĩa là Đối
thoại với người khác. Nguyên thủy, biện chứng có nghĩa là nghệ thuật đối thoại,
đã được Socrate dùng để chứng minh chân lý với người đối thoại của mình. Platon
đã cho rằng tư tưởng con người ngay dù nó một mình cũng tự đối thoại qua biện
chứng. Hégel, triết gia Đức, sinh năm 1770, chết 1831, theo trường phái Duy ý (
idéalisme),thầy của Marx, đã dùng phương pháp biện chứng để cắt nghĩa sự tiến
triển của tư tưởng con người. Theo ông tư tưởng con người tiến triển theo tiến
trình Đề - Phản Đề - Tổng Đề. Chẳng hạn khi tôi có một ý tưởng (Đề), tôi trao
đổi với người khác, gặp một ý tưởng phản bác lại ( Phản Đề).
Hai ý tưởng chống
đối nhau, rồi sau đó làm thành một tổng hợp ( Tổng Đề). Rồi Tổng Đề bây giời
thành Đề, gặp ý tưởng khác, Phản Đề, đối chọi nhau, làm thành Tổng Đề. Cứ như
vậy mà tiến hoài, đi từ chỗ ý tưởng chủ quan sang ý tưởng khách quan.
Với Hégel
và trường phái Duy Ý ( Idéalisem), chúng ta còn hiểu tiến trình phát triển của
ý tưởng. Nhưng với Marx và trường phái Duy vật, thì chúng ta không hiểu vật
chất biến chuyển theo biện chứng pháp là thế nào.
Marx đã chỉ
trích Hégel, cho rằng thầy mình đã lẫn lộn trong triết học, lấy chân (ý tưởng)
làm đầu, và lấy đầu ( vật chất) làm chân. Marx chủ trương duy vật và cho rằng
vật chất, thiên nhiên biến chuyển theo biện chứng pháp. Nhưng đây là một điều
khó hiểu. Vật chất ( la matière), thiên nhiên, theo nghĩa thông thường và ngay
như Engels vừa định nghĩa là « toàn thể thế giới hữu cơ, như nó hiện hữu
ngày hôm nay, những cây cỏ, xúc vật, và tất nhiên trong đó có con người «
biến chuyển theo biện chứng pháp là biến chuyển thế nào ? Cái gì là Đề,
cây cỏ chăng ? Cái gì là Phản Đề, xúc vật chăng ? Cái gì là Tổng Đề,
con người chăng ? Chúng ta không có câu trả lời. Đó là định nghĩa vật chất
theo mắt người thường. Nếu chúng ta định nghĩa vật chất vào thời Marx, chưa có
thuyết nguyên tử, thì theo nhà triết gia duy vật Hy Lạp, Démocrite (
370-460 TKN): « Vật chất là cái gì nhỏ nhất, không thể phân chia. « Nếu
đã là nhỏ nhất, không thể phân chia thì đâu còn Đề - Phản Đề và Tổng Đề.
Sau này với
khoa học hiện đại, nhà bác học Đan mạch đã định nghĩa Vật chất là Nguyên Tử,
gồm có Electrons, Protrons và Neutrons, vào năm 1913. Nhưng từ đó bảo rằng
Nguyên tử tức vật chất biến chuyển theo biện chứng pháp là biến chuyển thế nào.
Cai gì là đề, Neutron ? Cái gì là Phản Đề, Protrons ? Cái gì là Tổng
Đề, Electrons ? Câu hỏi này những nhà duy vật sau Marx, với phát minh của
Niels Bohr, không có câu trả nời.
2) Phát
hiện vĩ đại thứ hai của Marx là giá trị thặng dư (2)
Giá trị
thặng dư, theo định nghĩa đơn giản của Marx trong những buổi thuyết trình cho
thợ thuyền lao động ở Anh, đua thí dụ, đó là trong một hãng sản xuất bánh mì,
người thợ sản xuất một ngày 10 ổ bánh mì ; nhưng người chủ chỉ trả giá trị
bằng 6 ổ và giữ lại giá trị 4 ổ. Đó là giá trị thặng dư. Nói một cách tông
quát, đó là phần khác biệt giữa cái người thợ sản xuất ra và cái người chủ trả
cho người thợ, theo Marx, là chỉ trả giá trị đủ để sống.
Một cách
tổng quát thì người ta hiểu giá trị thặng dư là như vậy. Nhưng làm thế nào để
tính giá trị thặng dư bằng con số, tham vọng mà K. Marx muốn thực hiện, như
Marx viết cho Engels và bạn bè là muốn tạo cho thợ thuyền một phương tiện đấu
tranh khoa học.
Hơn thế nữa, vì theo Marx, hạ tầng cơ sở kinh tế quyết định
thượng tầng chính trị, văn hóa, tôn giáo, thẩm mỹ, nên Marx muốn biến kinh tế
thành một khoa học chính xác. Đây là một việc làm không thể thực hiện đươc, vì
kinh tế là khoa học nhân văn, không chính xác. Đây là mục đích mà Marx tự
đặt cho mình từ năm 1843, khi ông bắt đầu viết quyển Tư Bản luận ; và đây
cũng là lý do cắt nghĩa tại sao Marx bỏ ra cả cuộc đời viết quyển Tư Bản luận
mà không hoàn tất, chỉ hoàn tất quyển I, còn quyển I I, I I I do Engels gom góp
lại tài liệu, sắp xếp, rồi cho xuất bản sau đó.
Hơn thế
nữa, khi địng nghĩa gia trị thặng dư, Marx vô tình hay cố ý đã quên vai trò của
chủ. Ngày hôm nay người ta ngay cả thợ thuyền đều phải công nhận chủ đóng một
vai trò quan trọng không những cho việc tạo ra công ăn việc làm cho thợ, mà cho
cả việc phát triển kinh tế quốc gia. Gần đây có một cuộc thăm dò ý kiến thợ qua
một đài phát thanh của Pháp. Theo đó 99,9 % thợ không muốn trở lên làm chủ, vì
họ ý thức rằng làm chủ không phải dễ và họ không có khả năng, phần lớn ý muốn
của thợ thuyền là có một nghề nghiệp hợp với ý thích của mình, có đồng lương
bảo đảm cuộc sống cho gia đình và đảm bảo việc làm cho tới tuổi về hưu.
I I ) Lý
luận đơn giản, ngụy biện và sai lầm của Lénine
Nhưng dù
sao, với Marx và Engels, nhất là với Marx, trên còn tương đối có trời, dưới còn
tương đối có đất, hai người còn đôi chút ngay thẳng trí thức ( probìté
intellectuelle) ; còn tới Lénine và nhất là đồ đệ của ông như Staline, Mao
trạch Đông và Hồ chí Minh, thì trên không có trời, dưới không có đất, không có
một chút gì là ngay thẳng trí thức, người ta có thể làm bất cứ một cái gì để
đạt tới mục đích. Đây là trường phái bá đạo, và đúng nghĩa hơn là ma đạo hay
quỉ đạo.
Đúng như lời một trí thức cộng sản Việt Nam, ông Lê xuân Tá, đã là Phó
Trưởng Ban Khoa học và Kỹ thuật Trung ương đảng : « Sự ngu dốt và
thấp hèn tự nó không đáng trách và làm nên tội ác. Nhưng sự ngu dốt và thấp hèn
mà được trao quyền lực và cấy vào vi trùng ghen tỵ, thì nó trở thành quỉ nhập
tràng. Và con quỉ này, nó đã ý thức rất sớm và rất rõ rằng cái đe dọa quyền và
lợi của nó, chính là sự hiểu biết, trí thức, văn hóa và văn minh ; nên nó
đã đánh những thứ này một cách dã man, tàn bạo, không thương tiếc. Cách mạng
Hồng vệ binh ở bên Tàu là vậy ; Nhân văn giai phẩm ở Việt Nam là thế.
Nhưng chính vì nó là thấp hèn và ngu dốt, nên những thứ này đã trở thành sỏi
thận, sỏi mật, sơ gan, cổ chướng trong lục phủ, ngũ tạng của chế độ cộng sản,
làm cho chế độ này không ai đánh mà tự chết. «
Những lý
luận đơn giản, ngụy biện và sai lầm còn tăng thêm với Lénine, vì Lénine là đồ
đệ của Marx. Hơn thế nữa Marx lý luận đơn giản và ngụy biện sai lầm vì vô tình
hay vì sự hiểu biết về khoa học vào thời ông còn giới hạn, hoặc vì tính lãng
mạng, không tưởng của ông. Nhưng đối với Lénine thì hoàn toàn ngược lại. Ông cố
tình ngụy biện để lừa dối người khác, lừa dối dân. Như nguyên tắc « Tập
trung dân chủ « ( centralisme démocratique) mà ông đưa ra ; ông thừa
biết đó là nguyên tắc độc tài tối đa, vì chính ông định nghĩa trong quyển Phải
làm gì ( Que Faire) rằng đảng phải theo một kỷ luật sắt, kỷ luật quân đội,
người dưới phải tuyệt đối vâng lệnh người trên, tổ chức dưới phải tuân hành
lệnh của tổ chức trên ; nhưng ông vẫn cho thêm vào tĩnh từ dân chủ.
Như
ông viết : « Trong một chữ, sự chuyên môn bao hàm tất yếu sự tập
trung ; nó đòi hỏi tuyệt đối như vậy ; « ( Lénine – Que Faire –
trang 178 – Editions sociales – Paris – 1969). Về sau ông thêm tĩnh từ dân chủ
vào thành ra Tập trung dân chủ.Tập trung dân chủ ở đây chữ tập trung là chính,
vì là danh từ, còn chữ dân chủ là phụ, vì là tĩnh từ. Đã tập trung thì không
còn dân chủ nữa ; nhưng ông cứ dùng để lừa dối dân. Marx có dùng chữ « Độc
tài vô sản « ( dictature prolétarienne) ; nhưng ở đây Marx ngây thơ
cho rằng khi vô sản nổi lên làm cách mạng, bãi bỏ quyền tư hữu, nguyên nhân của
việc đưa đến xã hội phân chia thành giai cấp ; và vì xã hội chia thành
giai cấp, nên mới có Nhà nước ; nay xóa bỏ nguyên nhân của nguyên nhân;
thì Nhà nước sẽ tự biến mất.
Từ ngày Marx viết Tuyên Ngôn Thư đảng cộng sản tới
nay là 160 năm ; mặc dầu Marx đã bỏ 15 trang trong tổng số 48 trang của
bản Tuyên Ngôn Thư ( Theo ấn bản tiếng Pháp của nhà xuất bản Union générale
d’Editions – năm 1962) để chỉ trích những nhà xã hội chủ nghĩa trước Marx như
Saint Simon, Charles Fourrier, Robert Owen v.v.. . Nhưng ngày hôm nay chúng ta
mới thấy Marx mới là không tưởng, ảo tưởng, lãng mạn, không dính gì đến thực
tế, và không có một chút gì khoa học. Marx lầm vì nhiều khi không tưởng, lãn
mạng ; nhưng Lénine lầm nhiều khi cố ý ; vì Lénine theo trường phái
bá đạo, làm bất cứ cái gì miễn là đạt được mục đích của mình, từ phương diện
thực hành đến lý thuyết.
Trên phương diện lý thuyết, Lénine có thể đưa ra những
định nghĩa trái hẳn với những định nghĩa từ trước tới giờ, tùy tiện, miễn sao
có lợi cho mình thì thôi. Như Lénine định nghĩa « Xã hội chủ nghĩa là có
điện « hay « Người cộng sản là người trung thành với cấp trên nhất. »
Đây là nguyên tắc tập trung và như vậy thì còn đâu là dân chủ, mà là độc tài
tối đa ; nhưng ông vẫn ghép tĩnh từ dân chủ vào. Ở điểm này cộng sản Việt
Nam còn gian dối, quỷ quyệt hơn là giữa 2 cụm từ « dân chủ « và
« tập trung « , vì tiếng Việt, nhiều khi tĩnh từ có thể đặt trước hay
đặt sau, nên cộng sản Việt Nam đã dịch 2 chữ « Centralisme
démocratique » của Lénine thành ra « Dân chủ tập trung « , chứ
thực ra phải dịch thành « Tập trung dân chu « .
I I I ) Lý
luận đơn giản, ngụy biện và sai lầm của cộng sản Việt Nam.
Trên phương
diện tư tưởng, thì cộng sản Việt Nam rất là nghèo nàn, không có một đóng góp gì
cho tư tưởng Mác-Lê. Để bào chữa cho việc
thiếu xót này, một số trí thức cộng sản đưa ra luận điệu : « Chúng
tôi đã đóng góp cho lý thuyết Mác-Lê bằng máu, bằng xương thịt bằng cách chống
Mỹ là quá đủ rồi. « Đây là một ngụy biện để tự bào chữa, vì đã lẫn lộn
thực hành và lý thuyết, không dám can đảm nhận mình kém về phương diện lý
thuyết.
Việc
đưa Hồ chí Minh lên hàng những nhà tư tưởng chỉ là việc làm trò cười cho thiên
hạ, vì chính khi ông còn sống, ông đã tuyên bố nhiều lần rằng ông không có tư
tưởng gì cả, ông đã có Staline và Mao nghĩ hộ. (3)
Là đồ đệ
của Lénine, theo trường phái bá đạo, có thể làm bất cứ cái gì để đạt được mục
đích của mình, cộng thêm rút tỉa được kinh nghiệm quá khứ, cộng sản Việt Nam đã
trở thành quỷ quyệt, gian manh, không những trong lãnh vực hành động mà còn
trong lãnh vực ngôn từ.
Dùng bất cứ ngôn từ gì để lừa dối người khác, lừa dối
dân, không còn một tý gì là trung thực, nhiều khi còn hãnh diện trong những
hành động và ngôn từ dối trá lừa gạt của mình. Chẳng hạn như những ngôn từ «
Dân làm chủ, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý « , « Thời kỳ quá độ
lên xã hội chủ nghĩa « , « Chuyên chính vô sản « ; ngày hôm nay
thì đưa ra những luận điệu : « Tự do, dân chủ, nhân quyền là sản phẩm
của Tây phương, Đông phương trong đó có Việt Nam không cần « ; cùng
nhiều luận điệu khác. Chúng ta sẽ đi vào chi tiết những luận điệu một.
« Dân
làm chủ, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý « , thử hỏi dân làm chủ mà không
được lãnh đạo và không được quyền quản lý, thì làm chủ ở chỗ nào. Đây chỉ là
một khẩu hiệu để lừa dối dân, dùng ngôn từ để lừa bịp dân.
« Thời
kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa « , quá đây là hơn, vượt hơn lên, độ đây là
mức độ bình thường, « quá độ « là hơn mức độ bình thường. Cụm từ
này chẳng qua là để chỉ thời kỳ chuyển tiếp từ lúc đảng cộng sản cướp được
chính quyền đến lúc xã hội trở thành « xã hội chủ nghĩa « . Theo
Marx thì thời kỳ này gần như rất ngắn, và không có, vì, một khi cướp được chính
quyền, đảng cộng sản bãi bỏ quyền tư hữu, nguyên nhân sinh ra giai cấp ;
và giai cấp là nguyên nhân sinh ra nhà nước, nay nguyên nhân của nguyên nhân bị
bãi bỏ, thì nhà nước tự biến mất.
Câu hỏi « Tại sao nhà nước không tự
biến mất « , khi đảng cộng sản nắm quyền, mà nhà nước lại được tăng cường,
được đặt ra ngay vào thời Lénine , rồi sau đó vào thời Staline vào thập niên 30 ;
người cộng sản đã viện đủ lý do để bào chữa ; nhưng thực tế cộng sản là
trái với lý thuyết của Marx. Rút tỉa kinh nghiệm này, cộng sản Việt Nam, gian
manh, quỷ quyệt, thay vì dùng « Thời kỳ chuyển tiếp » ( Période de
transition ), đã dùng « Thời kỳ quá độ « , vì chữ chuyển tiếp thì
làm người ta đặt câu hỏi : Tại sao chuyển tiếp mà lâu vậy.
Thêm vào đó
cộng sản Việt Nam cho rằng mình không cần phải trải qua thời kỳ tư bản, mà đi
thẳng từ thời kỳ phong kiến lên xã hội chủ nghĩa, nên là thời kỳ quá độ. Dù sao
thì cũng chỉ là một trò chơi chữ, để dấu những mưu toan đen tối của mình và để
lừa dân.
« Chuyên chính vô sản « không có nghĩa gì hơn là độc tài vô sản (
dictature prolétarienne) ; nhưng dùng chũ độc tài, thì người dân thấy rõ
ra bản chất độc tài, nên dùng chữ chuyên chính để dấu bản chất độc tài.
« Tự
do, dân chủ, nhân quyền là sản phẩm của Tây phương, Đông phương, trong đó có
Việt Nam, không cần những giá trị này « hay « Dân Việt Nam chưa đủ
trình độ để có tự do, dân chủ, nhân quyền «,đây là những luận điệu hoàn toàn
phản khoa học, phản bản chất toàn cầu của con người. Con người dầu là da vàng,
da đen hay da đỏ, ai cũng muốn sống trong tự do, dân chủ, nhân quyền của họ
được tôn trọng, bảo đảm. Ngay cả con chim kia chúng ta nhốt nó vào lồng, dù là
lồng vàng, dù chúng ta cho nó ăn uống đầy đủ ; thế mà nó vẫn muốn sổ lồng,
đi kiếm tự do.
Huống chi là con người. Thêm vào đó còn có lập luận cho rằng dân
tộc Việt Nam chưa đủ trình độ để có tự do, dân chủ ; nếu thực hiện dân chủ
thì đất nước sẽ loạn ; đây là một ngụy biện của tất cả những chế độ độc
tài ở trên thế giới. Hơn thế nữa, cũng những người cộng sản này, những người
trí thức cộng sản này, trước năm 1975, thì rao rác lên rằng dân tộc Việt Nam là
« Đỉnh cao trí tuệ của loài người tiến bộ « . Ngày hôm nay để bảo vệ
chế độ độc tài, thì họ cho rằng dân tộc Việt Nam chưa đủ trình độ để có tự do,
dân chủ.
Tôi không tin như vậy. Hiện nay có vào khoảng gần 200 quốc gia, đại đa
số đã có chế độ dân chủ, chính quyền do chính người dân bầu ra, qua những cuộc
bầu cử dân chủ thực sự, người dân có toàn quyền xử dụng lá phiếu của mình ;
chứ không như cảnh Việt Nam « Đảng cử ; dân bâu « , bầu cử gian
lận, dối trá, do đảng bắt buộc dân bầu cho người đảng đã chỉ định.
Về những lý
luận ngụy biện của cộng sản Việt Nam, thì còn rất nhiều. Nó do tính gian manh,
quỷ quyệt của giới lãnh đạo, bắt đầu bằng Hồ chí Minh cho tới ngày nay ;
cộng thêm với một bè lũ trí thức cộng sản, đã bẻ cong ngòi bút, khom lưng, quỵ
gối, cố nặn óc ra những xảo từ, ngụy ngôn để phục vụ chế độ.
Kiểu Tố Hữu :
« Thương biết mấy khi con học nói !
Tiếng đầu lòng con gọi Staline . “
Thế kỷ 20 vừa qua, nhân loại đã bị sống nhiều thảm trạng :
2 cuộc đại chiến, 2 chế độ độc tài, độc tài phát xít Hitler và độc tài cộng
sản. Nhưng thảm trạng giết nhiều người nhất đó là thảm trạng cộng sản: hơn 100
triệu người. (4)
Các dân tộc
Nga sô và Đông Âu đã can đảm đứng lên lật đổ trang sử đau thương cộng sản, để
viết trang sử mới. Dân tộc Việt nam hãy can đảm đứng lên đấu tranh để lật đổ
trang sử đau thương cộng sản, từ lý thuyết qua những lý luận đơn giản, ngụy
biện, không tưởng và sai lầm, tới thực hành dã man, côn đồ, gian manh, quỷ
quyệt của cộng sản; để viết trang sử tự do, dân chủ, nhân quyền, ấm no và hạnh
phúc.
Paris ngày 04/11/2007
Chu chi Nam
Đảng việt cộng làm
sao bảo vệ nổi Chủ nghĩa Mác Lê, đã chỉ là cái xác chết thối rữa?
Đỗ Đăng Liêu
Các
bài liên hệ
Cùng tác giả:
Báo Quân Đội Nhân Dân mới đây đăng bài viết của
Đại Tá, Thạc Sĩ Nguyễn Đức Thắng, với tựa đề: Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cần
tiếp tục được bảo vệ và phát triển. Tác giả nhắc lại sự sụp đổ của chủ
nghiã cộng sản tại ngay cái nôi của nó là nước Nga, nhưng lập tức đổ hết lý do
cho "chủ nghĩa đế quốc" và "các thế lực thù địch". Ông
viết:
"Chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch đã nhân cơ hội đó ra sức tuyên truyền đề cao xã hội tư bản, hô
hào rời bỏ CNXH và đi theo con đường TBCN. Chúng ra sức xuyên tạc, phủ nhận chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và CNXH, thậm chí còn định ra cả thời gian sụp đổ chế độ
XHCN ở những nước còn lại, trong đó có Việt Nam. Trong hàng ngũ những người
cộng sản và nhân dân, thực tế có một số người đã nhiễm phải những luận điệu
tuyên truyền hết sức tinh vi, hiểm độc của các thế lực thù địch, từ đó nảy sinh
t¬ư tưởng bi quan, dao động, bàng quan, thậm chí đánh mất niềm tin vào chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và CNXH. Trước tình hình đó, những người cộng sản chân chính
cần phải bình tĩnh, tăng cường đoàn kết thống nhất ý chí và hành động để bảo vệ
các giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và toàn bộ thành quả của cuộc
cách mạng XHCN".
Và tác giả bồi thêm vào lời khẳng định bất cần
lý lẽ đó bằng hàng loạt các khẳng định khác cũng ngang tàng không kém, chẳng
hạn như: "… không thể mượn cớ sự sụp đổ mô hình CNXH cụ thể ở một
quốc gia nào đó để bài bác và phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và CNXH".
Cả thế giới cộng sản theo cùng một mô hình nhà nước Liên Xô và đã sập gần như
toàn bộ, chỉ còn 4 nước đang ráo riết chạy theo kinh tế tư bản (hay kinh tế thị
trường mà Mác lên án từ ngày đầu là loại "kinh tế tư bản bóc lột") để
sống còn thì tác giả không hề hay biết?
Còn nhiều khẳng định bất cần trí óc của cả người
đọc lẫn chính người viết, như: "…trong hơn 80 năm qua, đặc biệt những
thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước trong gần 30 năm qua dưới sự
lãnh đạo của Đảng ta, càng củng cố vững chắc niềm tin, niềm tự hào của mỗi đảng
viên, cán bộ và nhân dân vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vào con đường đi lên CNXH
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn."
Tựu trung, cả bài viết chỉ biết chép lại những câu mang tính kinh điển mà mọi người đã quá ngấy, đã biết quá rõ từ lâu là vô tích sự, và biết là chúng bị tùy nghi bẻ xuôi lẫn bẻ ngược theo nhu cầu của Đảng trong từng giai đoạn. Do đó, chính bài viết đó đã không bảo vệ được chủ nghĩa Mác Lê cho ra hồn chứ chưa nói gì đến động viên người khác làm chuyện đó, và lại càng không có chút hy vọng gì về "phát triển" nó cả.
Tựu trung, cả bài viết chỉ biết chép lại những câu mang tính kinh điển mà mọi người đã quá ngấy, đã biết quá rõ từ lâu là vô tích sự, và biết là chúng bị tùy nghi bẻ xuôi lẫn bẻ ngược theo nhu cầu của Đảng trong từng giai đoạn. Do đó, chính bài viết đó đã không bảo vệ được chủ nghĩa Mác Lê cho ra hồn chứ chưa nói gì đến động viên người khác làm chuyện đó, và lại càng không có chút hy vọng gì về "phát triển" nó cả.
Nhưng có lẽ chẳng ai chê bai gì khả năng của tác
giả Nguyễn Đức Thắng vì ông bị giao một việc quá khó. Làm sao mà bảo vệ nổi chủ
nghĩa Mác Lê trong thực tế ngày nay?!
Làm sao bảo vệ nổi khi thực tế đã chứng minh
điều hoàn toàn ngược lại. Trên tổng số gần 100 quốc gia tự nhận là theo Chủ
Nghiã Xã Hội, khởi đi từ cái nôi là nước Nga, ngày hôm nay chỉ còn có 5 nước
vẫn cố bám víu (hoặc còn giả dạng bám víu) vô vọng vào CNXH là Trung Cộng, Việt
Cộng, Lào Cộng, Cu Ba và Bắc Hàn. Tình trạng 5 quốc gia này, từ chính trị, đến
văn hoá xã hội, nếu không ngày một tồi tệ, lạc hậu thì cũng cực kỳ bất ổn và
khủng hoảng. Nói chung là trong tình trạng chết dần hoặc có thể bùng vỡ bất cứ
lúc nào.
Trong khi đó, tất cả các nước thoát độc tài cộng sản để chuyển sang
thể chế dân chủ đều bừng sống lại về mọi mặt, như những người bị bóp cổ lâu
ngày nay được thở lại dưỡng khí trong lành.
Làm sao bảo vệ nổi khi nước cộng sản nào càng
rời xa mô hình kinh tế XHCN và chạy theo kinh tế tư bản thì càng rời xa vực
thẳm. Chính Trung Cộng đã vất mô hình kinh tế XHCN để chạy theo "kinh tế
thị trường với đặc tính Trung Quốc" từ năm 1976, và CSVN bắt chước từ năm
1986. Cái mà tác giả gọi là "thành tựu của 30 năm đổi mới" chính là
kết quả của việc ném kinh tế XHCN lại để bỏ chạy đó.
Làm sao bảo vệ nổi khi hiện nay, các lãnh đạo ở tầng cao nhất đều không biết tiến lên CNXH là đi đâu và làm gì. Chính Tổng Bí Thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đã công khai bộc bạch:“Đến hết thế kỷ này (tức 86 năm nữa) không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa". Những chính sách gọi là xây dựng XHCN triệt để tại các nước đàn anh tiên tiến chứ không chỉ riêng tại Việt Nam, đều dẫn đến chết đói, lệ thuộc ngoại bang, tụt hậu, băng hoại xã hội, và sụp đổ hoàn toàn như các nước Đông Âu và Liên Xô.
Làm sao bảo vệ nổi khi hiện nay, các lãnh đạo ở tầng cao nhất đều không biết tiến lên CNXH là đi đâu và làm gì. Chính Tổng Bí Thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đã công khai bộc bạch:“Đến hết thế kỷ này (tức 86 năm nữa) không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa". Những chính sách gọi là xây dựng XHCN triệt để tại các nước đàn anh tiên tiến chứ không chỉ riêng tại Việt Nam, đều dẫn đến chết đói, lệ thuộc ngoại bang, tụt hậu, băng hoại xã hội, và sụp đổ hoàn toàn như các nước Đông Âu và Liên Xô.
Làm sao bảo vệ nổi khi ĐCSVN, từ lời nói đến
việc làm, nhất nhất không còn chút gì là các đặc tính của xã hội XHCN. Các hứa
hẹn nền tảng như "Tài sản và phương tiện sản xuất là thuộc về toàn
dân" hoàn toàn biến mất trong nền kinh tế tư bản hoang dã hiện
nay. Tất cả phục vụ cho nhu cầu vơ vét của tầng lớp "tư bản đỏ" vừa
xuất hiện ở mọi cấp. Các quan chức với số tài sản lên đến hàng chục tỉ mỹ kim
không còn là chuyện lạ nữa, dù họ trên danh nghĩa đã "hiến dâng cả đời cho
cách mạng" và không làm gì riêng ngoài đồng lương cán bộ. Cũng vậy, loại
hứa hẹn nền tảng như"Giai cấp công nhân, đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội" đã nhường chỗ cho một nhà nước tiếp tay các chủ hãng ngoại
quốc trấn áp các cuộc tranh đấu đòi quyền lợi chính đáng của công nhân; và một
nhà nước xua công an cưỡng chế đất đai của nông dân để giao lại cho giai cấp tư
bản đỏ.
Làm sao bảo vệ nổi khi chế độ XHCN hiện nay còn
phong kiến gấp trăm lần chế độ mà nó đả phá và thay thế. Thật vậy, đất nước
Việt Nam ngày nay có "vua tập thể" hay "tập thể vua", với
cả trăm hoàng tộc. Mỗi hoàng tộc có khu vực địa lý, khu vực kinh tế, khu vực
quyền hành riêng và theo thể thức "cha truyền con nối". Thế hệ thái
tử đảng bắt đầu ngồi vào các ghế nắm quyền và nắm tiền từ độ tuổi 20.
Làm sao bảo vệ nổi khi mà chính tập thể đảng
viên đều đã quá chán ngán cái chủ nghiã mà đa số đã không hiểu là gì khi gia
nhập; đã hy sinh cả tính mạng, cả cuộc đời của mấy thế hệ vì chủ nghiã đó chỉ
để thấy đất nước liên tục nghèo đói, tụt hậu so với láng giềng; và nhất là đã
nhận ra chủ nghĩa này luôn sản sinh ra những kẻ cầm quyền cực ác, cực gian trá,
và cực đạo đức giả suốt từ Lênin, đến Stalin, đến Mao, đến ông cháu họ Kim bên
Triều Tiên, đến Pol Pot xứ Miên, đến tất cả các thế hệ lãnh đạo Cộng Sản Việt
Nam. Hệ thống CNXH đã biến tất cả những người dù rất tốt khi gia nhập trở thành
những người càng lên cao càng giả dối, tàn ác, và càng mất tính người.
Làm sao bảo vệ nổi khi những quan chức lớn ngã
bệnh đều chạy qua các nước tư bản chữa bệnh chứ không dám chữa tại các nước
XHCN. Lý do không chỉ vì các nước đó có nền y khoa hơn xa các nước XHCN mà còn
vì họ thực sự có y đức. Cũng vậy, làm sao bảo vệ nổi khi chính những người đang
viết bài kêu gọi bảo vệ Mác Lê và cả cấp trên của họ đều đang cố gắng gửi con
cái đi nước ngoài để được hấp thụ nền giáo dục đặc sắc của các nước
"tư bản đang giẫy chết" , và còn dặn dò con ráng tìm cách ở
lại để làm đầu cầu chuyển tiền của bố mẹ ra nước ngoài.
***
Ngày mà dân tộc ta công khai và hoàn toàn tẩy bỏ
được chủ nghĩa Mác Lê ra khỏi mọi mặt xã hội, chắc chắn sẽ có nhiều người mừng
lắm. Trong số đó, thế nào cũng có cả ông Nguyễn Đức Thắng.
No comments:
Post a Comment
Thanks