Hơn
20 điều nên biết về Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh
Phỏng vấn Hồ Chí Minh năm
1966 (bản gốc, full 17'50'')
https://www.youtube.com/watch?v=A6A6anUzNgI
Phan Châu
Thành (Danlambao) - Mọi chứng cớ về Nguyễn Ái Quốc đều không thể dẫn tôi đến Hồ Chí Minh, và mọi chi tiết về HCM càng không thể đưa tôi về xứ Nghệ. Cuối cùng, có đến
16 bằng chứng chia nhau đi về hai hướng “bắc-nam” như thế (những điều khác
biệt), dẫn dắt tôi đến nghi án mạng NAQ, và 4 nhóm bằng chứng rất “nhất quán” với nhau khiến tôi
vẫn phải kết luận NAQ rất giống, thậm chí “có họ hàng” với HCM, hay ngược lại. Kèm theo tất cả sẽ có 20 bình luận, của
tôi, cho 20 điều nên biết về NAQ và HCM...
*
Hồ Chí Minh: “Nguyễn Ái Quốc và tôi...”
Tháng giêng năm 1949, tạp
chí “Sinh hoạt nội bộ” kỳ thứ 13 của Việt Nam có đăng tải một
bài viết nhan đề “Đảng ta” do Hồ Chí Minh viết dưới bút danh Trần Thắng Lợi. Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia đã đưa “Đảng ta” vào Hồ Chí Minhtoàn tập, tập 5, trang 547 như sau:
“Năm 1929 (chính xác là ngày 19 tháng giêng năm 1929),
trong khi đồng chí Nguyễn ái Quốc đi vắng, Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng
chí hội khai toàn quốc Đại hội ở Hương Cảng. Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức
đảng cộng sản, bị gạt đi, liền bỏ hội nghị ra về...
Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc trở lại Tàu (chính
xác là ngày 20 tháng giêng năm 1930), cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở
Hương Cảng.
Trong
7, 8 đại biểu, ngoài
đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi, nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng
chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh
cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám. Để giữ bí mật, các
đại biểu khai hội bên sân đá banh của người Tàu. Vừa giả xem đá banh, vừa bàn
bạc về Đảng.
Sau
cuộc bàn bạc sôi nổi, và sau lời giải thích rõ ràng của đồng chí Nguyễn ái
Quốc, mọi người đều tán thành thống nhất cả ba nhóm thành một đảng. Thế là Đảng
ta chân chính thành lập...” (Trần Thắng Lợi, tức Hồ chí Minh).
Chỉ một điều đó thôi cũng
đủ thấy rõ Nguyễn
Ái Quốc (NAQ) và Hồ Chí Minh (HCM) là hai người khác nhau. Nếu không, HCM là kẻ tâm thần nặng mới có thể nhầm “mình với mình”
như vậy. Thế nhưng sau này, khi đã là chủ tịch đảng và chủ tịch nước, sau Đại hội
đảng lần III năm 1960, thì HCM lại
dùng bút danh T.Lan “vừa đi trên báo đảng Nhân Dân vừa kể lại”, năm 1961,
chuyện mình chính làNAQ hay Nguyễn Tất Thành (NTT)... theo nội dung “Những mẩu chuyện
về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” của Trần Dân Tiên mà đến nay còn
chưa rõ xuất xứ cuốn tiểu sách (không có bản thảo) và chưa rõ tác giả, nhưng in
ở tận Thượng Hải năm 1949-1950...
Thế mới có chuyện, lắm
chuyện rối mù, mờ ám, dù rất rõ ràng thế rồi vềNAQ/NTT và HCM.
Những điều tôi viết trong
bài này chỉ là gom lại hay liệt kê lại những điều mà trong và ngoài nước ai ai
hiện nay cũng biết về Nguyễn Ái Quốc (NAQ/NTT, từ 1990 đến khoảng 1930-1932) và Hồ Chí Minh (HCM,
từ khoảng 1930-1932 đến 1969), gồm 20 điều nên “ghi nhớ”, chia thành hai phần:
16 điều khác biệt rõ ràng và 4 điều giống nhau hoàn toàn.
Tại sao lại nên ghi nhớ mà
không phải chỉ nên biết? Nên ghi nhớ để có chính kiến của riêng mình về điều
đó, bởi vì đảng CSVN suốt 70 năm nay bằng mọi cách cấm dân Việt trong nước nhìn
nhận và suy nghĩ độc lập về chúng (NAQ và HCM) để tự có kết luận của mỗi người về “chúng là ai?”, vì
đảng muốn chứng minh “chúng tuy hai mà một”. Với bài này, tôi cũng không kết
luận “chúng không phải một mà hai” thay cho bất kỳ ai, tôi mong mọi người tự
làm điều đó. Nếu tôi có ý nào đó như kết luận thì chúng là của cá nhân tôi
thôi, còn bài viết chỉ như danh mục 20 điều giống và khác nhau nên biết về NAQ và HCM cho
những người quan tâm đến đề tài “nhạy cảm” với đảng và rất quan trọng với
lịch sử dân tộc Việt, mà thôi.
Tại sao tôi nói là quan
trọng? Bởi vì rớt cái “mặt mo” HCM khỏi NAQ thì HCMchính
là giặc Tàu, đảng không còn lừa bịp được chính các đảng viên của mình được
nữa, và hàng chục triệu kẻ “ăn” theo đảng. Chứ còn đại đa số dân Việt tự làm tự
ăn và bị đảng cướp miếng ăn đất sống đã chả coi Hồ ra thứ gì nữa rồi, vì những
gì y và đảng đã làm, dù y là ai. Đó là điều đầu tiên bạn và tôi nên biết về NAQ/HCM.
Nghiên cứu tiểu sử HCM hay điều tra
nghi án mạng NAQ?
Cuộc nghiên cứu tiểu sử HCM với đa số sử gia chuyên và không chuyên, trong nước
hay nước ngoài, đều đều húc phải quá nhiều những chi tiết quá mâu thuẫn nhau
dẫn đến việc phải đề ra và điều tra hay che đậy nghi án mạng NAQ, hay nghi án “ve sầu lột xác” HCM - kẻ chỉ vào chục năm cuối đời (từ khoảng 1959
đến 1969) mới dám tự nhận mình là NAQ thời
trước 1930. Và điều đó tùy thuộc vào quan điểm hay mục đích của mỗi người
muốn tìm hiểu tiểu sử Hồ để làm gì: tìm hiểu sự thật lịch sử về Hồ bất kể nó là gì (các sử gia chân chính), hay để chứng
minh những định đề đã được đảng công bố lâu nay về Hồ và đảng (những kẻ bồi bút của đảng)?
Cuộc phiêu lưu với lịch sử
VN hiện đại của tôi là vì mục tiêu tìm hiểu sự thật lịch sử, dù tôi không phải
một sử gia chuyên nghiệp, cũng vậy, cũng đã biến thành một cuộc điều tra nghi
án mạng NAQ/HCM,
từ nhiều năm nay. Mọi chứng cớ về NAQ đều
không thể dẫn tôi đến HCM,
và mọi chi tiết về HCM càng
không thể đưa tôi về xứ Nghệ. Cuối cùng, có đến hơn một tá (16) nhóm/loại bằng
chứng chia nhau đi về hai hướng “bắc-nam” như thế (những điều khác biệt), dẫn
dắt tôi đến nghi án mạng NAQ,
và 4 nhóm bằng chứng rất “nhất quán” với nhau khiến tôi vẫn phải kết luận NAQ rất giống, thậm chí “có họ hàng” với HCM, hay ngược lại. Kèm theo tất cả sẽ có 20 bình luận, của
tôi, cho 20 điều nên biết về NAQ và HCM...
16 điều khác biệt rõ
ràng giữa NAQ và HCM
Tôi chỉ xin điểm qua tóm
tắt 16 nhóm/loại bằng chứng hay chi tiết tiểu sử cá nhân khác biệt nhau rõ ràng
giữa NAQ và HCM, vì ai ai cũng biết rõ hay có thể tự kiểm tra chi tiết dễ
dàng từ rất nhiều bài viết khảo cứu về NAQ/HCM trên mạng hoặc/và đã in thành sách,
báo... của cả hai lề.
Thứ nhất, về
năm sinh, NAQ/NTT tự khai và đảng công bố là sinh năm 1890 khi đi xin việc hay xin học với chính quyền Pháp năm
1912 và khi sang Moscow năm 1924, còn HCM khai
khi xin dự Đại hội VII của QTCS ở Moscow vào tháng 8 năm 1935 là HCM sinh năm
1900,
cách nhau đúng 10 năm.
Bình
luận 1: Có
vẻ giai đoạn đầu khi xuất hiện ở Moscow “lần thứ hai” từ tháng 6 năm 1934 (lần
đầu với HCM), 18 tháng sau khi ra tù ở Hồng Kông (tháng
12/1932), HCM vẫn không biết gì nhiều về mình-NAQ trước đó ở Moscow đã làm gì.
Ví dụ, để dự Đại hội VII
của QTCS3 tháng 5/1935 HCM đã
khai: Tên Teng Man Huon, bí danh Lin, sinh 1900, quê quán Đông Dương, bị tù 2 năm và ra tù năm 1933, đã tham gia
Quốc tế CS, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Công đoàn..., và nhiều chi tiết sai hay
mù mờ khác. Đã có Bí danh Lin để dùng rồi sao không khai tên thật/chính thức là Nguyễn Ái Quốc hay Nguyễn Tất Thành đi? Quê quánĐông Dương thì... chỉ có người ngoại quốc mới ghi về người Việt
(hay Lào, Campuchia) như thế! Còn Tống Văn Sơ/HCM ra tù ở HK năm 1932 cơ mà, sao có thể ghi là 1933?
Sao lại nói dối tổ chức mình tham gia QTCS, QTTN và QTCĐ, trong khi NAQ lúc đó chỉ duy nhất là thành viên của Quốc tế Nông
dân (ủy viên đoàn chủ tịch) mà Tổng Thư ký là Domban (Balan)? Và NAQ được QTND/Domban cử đi Tàu phụ trách phong trào
nông dân - làm việc với Quốc Dân đảng KMT của Tôn Trung Sơn (vì CSLX coi KMT và
Trung hoa Dân quốc của Tôn là phong trào nông dân)... Tóm lại, HCM vừa xuất hiện đã với hàng loạt sai lệch trong tiểu sử
rồi, không chỉ về năm sinh 1900 làm NAQ/NTT trẻ ra 10 tuổi.
Thực tế thì HCM còn không biết gì về NAQ và công khai phủ nhận (với nhiều người, ví dụ với
giới báo chí ở Paris năm 1946) việc mình là NAQ dài dài từ 1934 đến tận khoảng 1958-1960, cho đến khi Hồ được Trần Dân Tiên giúp cung cấp tài
liệu “về mình”...
Thứ hai, về
hình tướng học (mặt mũi, tai mắt...)
Đây là mặt mũi NAQ/NTT năm 1921:
Và đây là HCM năm 1933:
Bình
luận 2: Rất
nhiều người nói về sự khác nhau về nhân tướng học (mặt mũi, tai mắt...) rồi,
nên tôi bình luận nữa, vì đây là đề tài để “cãi chày cãi cối” của CSVN như bịa
ra vụ bà Thanh (chị NTT) nhớ em đi câu cá bị sứt tai phải (cho nó
giống HCM) trong khi tai NTT không bị sứt...
Thứ ba, về
nhân chủng học (theo
hộp sọ). Xem hình NAQ và HCM ở phần 2 trên, để ý phần hộp sọ, xương trán
của NAQ và HCM khác hẳn nhau.
Bình
luận 3: Tương
tự bình luận 2, mỗi người hãy tự quan sát hay tự tham khảo các chuyên gia cho mình
về điều này.
Thứ tư, về
chiều cao cơ thể, NAQ là người thấp, cao chừng 152-154cm, còn HCM lại rất cao, chừng 170-172cm. Và HCM còn có chiều cao thay đổi nữa (tùy thời kỳ công tác)!
Đây là HCM với Võ Nguyên Giáp năm 1944 ở trong rừng Pắc Bó (nay
đã thuộc đất Tàu):
Còn đây là HCM với Phạm Văn Đồng năm 1946 ở Pháp:
Bình
luận 4: Giáp
là kẻ rất lùn, vì thế có lẽ y thần tượng Napoleon từ bé. Riêng chỉ về chiều cao
thôi thì tôi đồng ý Giáp xứng đáng là học trò của Napoleon, và chỉ duy nhất vì
thế thôi. Thế mà năm 1944 HCM chỉ
cao hơn Giáp chút xíu, cỡ 146cm +/- 5cm. Nhưng từ năm 1946 thì Hồ lại “nhổ giò”, cao ngang ngửa Đồng là kẻ có
chiều cao ổn định trên 172-175cm, thuộc loại “cây sào” ở VN thời đó. Ở tuổi
50s, trong rừng, ngày nào cũng rượu với gái nạ dòng thay phiên (như Trần Đĩnh
kể), và sau vài năm Hồ cao lên chừng trên 20cm! Hèn chi ngày
nay các đệ tử của Hồ đều cố quyết liệt “học tập tư tưởng đạo
đức của Hồ” bằng thật nhiều rượu và gái, còn khoản
“trong rừng” thì chúng sáng tạo thay bằng thịt rừng... để mong cao lên bù cho
những lúc chúng luôn phải sống quì lạy... Pắc Pó?!
Thứ năm, về
thời gian lần đầu NAQ từ Pháp đến Moscow, theo hồ sơ đảng CSLX lưu trữ và công bố sau này, NAQ đến Moscow lần đầu vào đầu tháng 7 năm 1923 sau khi
nhập cảnh qua cảng Petơrograd ngày 30/6/1923 dưới tên Chen Vang bằng thị
thực do Đặc mệnh toàn quyền LX tại Đức ký ngày 25/6/1923, có nghĩa là vào đầu mùa hè.
Còn T.Lan tức HCM thì kể lại: “Bác đến Nga vào mùa đông, mọi vật đều bị tuyết phủ trắng xóa như một thế giới bằng
bạc. Có ngày rét đến 42 độ dưới 0...” - tức là vào giữa mùa đông? Lệch nhau đúng 180 độ,
hay 6 tháng?
Lời
bình 5: Sở
dĩ HCM/T.Lan nói NAQ “đến Moscow vào mùa đông” thay
vì vàomùa hè (tháng 7/1923) lại còn kể cái lạnh đến
âm 42 độ, có lẽ vì mùa thu năm đó lạnh, ngày 10 tháng 10/1923 NAQ đã gặp Tưởng
Giới Thạch và Trương Phát Lôi (cùng dự Quốc tế Nông Dân I năm 1923), rồi mùa
đông đến càng lạnh khi Lenin chết vào tháng 1/1924, NAQ mới lại gặp gỡ các đồng chí Trung cộng trong dịp
tang lễ đó nữa... mà gặp ai NAQ cũng
“tôi vừa từ Paris đến” nên chắc các đồng chí Trung cộng đã kể lại thế làm
cho T.Lan/HCM “nhớ nhầm” chăng? Chứ làm sao NAQ quên được các đồng chí CS Đức đã giúp NAQ vào Nga lần đầu tháng 7/1923 khi ở khắp Châu Âu và cả
nước Nga là mùa cuối xuân đầu hè khắp nơi đầu tươi xanh rực rỡ chim hoa?
Làm sao nhầm mầu xanh hoa lá ấm áp nhất năm với mầu trắng băng giá âm 42 độ của
6-7 tháng sau được? Bởi vì, cái vụ tháng 7/1923 chỉ lộ ra mấy chục năm sau khi
LX tan rã năm 1990 còn T.Lan/HCM lại
vội “kể chuyện” năm 1961 (theo lời kể của Trần Dân Tiên năm 1949 từ Thượng
Hải), sớm mất gần 30 năm?...
Thứ sáu, về sức khỏe
hay bệnh đặc trưng, NAQ bị lao phổi do điều kiện sống khó khăn tại xứ lạnh
nhiều năm, năm 1932 trong tù Hong Kong bị lao nặng và có tin đã chết vì
lao, còn HCM lại nghiện thuốc lá nặng và uống
nhiều rượu, gái vẫn khỏe... Năm 1964 HCM còn đòi về Tàu lấy vợ...
Bình
luận 6: NAQ chết vì lao năm 1932 trong tù hay không là điều còn
đang tranh cãi, nhưng không ai tranh cãi việc NAQ bị lao nặng suýt chết năm 1932. Ngược lại, từ 1940
xuất hiện ở Cao Bằng HCM đã là
kẻ nghiện rượu và thuốc lá nặng. Chỉ sau chưa đầy 8 năm bôn ba gian khó mà bệnh
án đặc trưng hay sức khỏe củaNTT/NAQ thay đổi thần kỳ vậy sao? Các chuyên
gia, bác sĩ về bệnh học trả lời rằng: đó là điều không thể, hay phi lý.
Thứ bảy, về giọng nói, NAQ nói giọng Nghệ nhẹ đặc trưng. Còn HCM là kẻ có giọng nặng gẫy của ba Tàu cố nói
tiếng Nghệ, phải nhấn từng câu nghe nó rời rạc. Tôi biết vài người nước ngoài
nói tiếng Việt giọng Nghệ vì có thầy dạy tiếng Việt là người xứ Nghệ cũng có
giọng nói như của Hồ, không khó khăn gì.
Phỏng vấn Hồ Chí Minh năm
1966 (bản gốc, full 17'50'')
https://www.youtube.com/watch?v=A6A6anUzNgI
Bình luận 7: Nhiều người cho rằng người nước ngoài
không nói được giọng Nghệ, nên ai nói được giọng Nghệ thì không phải người
ngoại, là sai. HCM là một trường hợp như vậy. Nhưng dù
“khá”, HCM vẫn không nói được giọng Nghệ luyến và
ngân ở cổ, mà chỉ luyến được ở vòm miệng thôi.
Thứ tám, về tác phong ăn mặc, NAQ có
tác phong ăn mặc kiểu Tây (Pháp) của những người Việt sống bên Tây: luôn
mặc sơ mi, mang carvat, áo vét, quần tây, đi giày tây..., nhất là khi chụp
hình. Còn HCM thì thôi rồi, vô cùng luộm thuộm, thậm
chí như hơi... dơ dáy kiểu Tàu! Ngay như Giáp, không được đi Tây như NAQ, và ở trong rừng với Hồ, mà cũng diện bộ vét trắng thắt carvat! Sau này ra khỏi
hang Pác Pó thì HCM cũng không bao giờ mặc đồ tây, mà chỉ
mặc đồ cán bộ Tàu (bộ đại cán).
Bình luận 8: Ăn mặc là vấn đề thói quen và văn hóa
cá nhân từ bé, không bỏ và không thay đổi được. Chỉ nhìn cách ăn mặc đã đủ biết NAQ và HCM có
tác phong ăn mặc ngược nhau hoàn toàn, là do xuất xứ văn hóa khác
nhau: Tàu và Việt lai Tây...
Thứ chín, về nét chữ, NAQ/NTT có nét chữ mềm, chỉnh chu của người quen viết chữ
Latin (thể hiện trong các đơn xin việc từ 1912), còn HCM nét chữ nhịn, gãy, cứng, rời rạc như gà bới đặc trưng
của người chỉ quen viết hán tự từ nhỏ...
Bình luận 9: Ai cũng phải ngỡ ngàng và phì cười về
độ “gà bới”, thiếu nét, sai dấu, vụng về... trong nét chữ tiếng Việt của HCM, trừ bọn mấy triệu đảng viên cộng sản thì cứt của HCM chúng cũng thấy thơm nên chúng không bao giờ dám
nói đến trình độ i tờ tiếng Việt của “cha già dân tộc”...
Thứ mười, về văn phong và khả năng tiếng Việt: Tương tự với nét chữ, văn phong tiếng
Việt của NAQ là bình thường, nhưng của HCM là rất ngây ngô, là văn phong của người Tàu học tiếng
Việt.
Bình luận 10: Có vô số chi tiết, ví dụ về văn phong
không thuần Việt của HCM trong
vô số “tác phẩm trứ danh” của Hồ mà
đảng CSVN giữ như giữ mả tổ chúng, khắp nơi nơi, ai cũng có thể kiếm tra. Tôi
có thể viết riêng một bài 5-10 trang về đề tài này, nhưng vì bài này sẽ quá dài
(đã quá dài) nên tôi xin bỏ qua ở đây.
Thứ mười một, về văn phong và khả năng tiếng Tàu và Pháp: Trong chuyến đi lần đầu đến Tàu cộng,
từ tháng 11/1924 đến tháng 5/1927 NAQ lúc
này bí danh công tác tại Tàu là Lý Thụy, là phiên dịch tiếng Pháp trong phái đoàn của Borodin
tổng đại sứ của LX tại Trung hoa Dân quốc của Tôn Trung Sơn (Quốc Dân đảng), là
đại diện của Quốc tế Nông dân. Suốt thời gian đó NAQ làm việc bằng
tiếng Pháp (khi
viết báo hay báo cáo), tiếng
Nga (với đoàn của Borodin)
và Việt khi mở một số lớp đào tạo cho thanh
niên nông dân VN do Borodin và Quốc dân đảng của Tàu tài trợ. Thậm chí, ngày
14/1/1926 NAQ được mời phát biểu tại Đại hội lần II
của Quốc Dân đảng Tàu - Kuo Min Tai với tư cách là thành viên đoàn chủ
tịch Quốc tế Nông dân I, cũng bằng
tiếng Pháp và có
phiên dịch ra tiếng Tàu. Vậy mà chỉ hơn hai năm sau, sau khi bôn ba các
nước Nga, Đức, Bỉ, Ý, Thái, Xiêm..., tháng 12/1929 trở về Tàu lần 2 HCM đã thông
thạo tiếng Tàu hoàn toàn và đồng thời quên hết tiếng Nga, Pháp, Anh... HCM lại
làm việc riêng với người Tàu bằng tiếng Tàu... Rồi năm 1938 xuất hiện ở
Tàu lần 3 HCM đã là thiếu tá Hồ Quang trong quân đội
Tàu, có trình độ tiếng Tàu ở bậc trí thức!
Bình luận 11: Không ai hiểu HCM học tiếng Tàu khi nào trong điều kiện nào? Khoảng
trống duy nhất mà HCM có thể học tiếng Tàu là từ tháng 12/1932 đến tháng 6 năm 1934 khi ra khỏi tù Hong Kong nhưng chưa đến
lại Moscow lần 3.
Thứ mười hai, về biểu hiện văn hóa gia đình, NAQ rất
có hiếu với cha (viết đơn xin quan Pháp tha tội cho cha là Nguyễn Sinh
Sắc, và xin việc cho cha...), còn HCM sau
hơn 30 năm xa nhà mà suốt 24 năm (từ 1945 đến 1969) chỉ về quê Nghệ An một
lần vội vã, và khi anh (ông Cả Khiêm) và chị (bà Thanh) còn sống không về thăm,
họ chết HCM cũng không về ma chay giỗ lễ...
Bình luận 12: Tôi nghĩ Hồ thà mang tiếng bất hiếu với những kẻ không phải cha mẹ mình
còn hơn nếu về xứ Nghệ gặp “họ hàng” lại lòi ra mình không phải dân Nghệ thì
khốn! Với lại Hồ rất có hiếu đấy chứ, thường xuyên về
Tàu thăm hỏi chăm lo gia đình Tàu của mình đấy chứ!
Thứ mười ba, về biểu hiện văn hóa sắc tộc, NAQ/NTT rất lễ phép và tôn kính các bậc trên như với Cụ Phan
Châu Trinh (thường kính cẩn gọi Cụ Phan là Hy mã Đại nhân), còn HCM thì không những không tôn kính mà còn hỗn hào
với Đức Thành Trần (Trần Hưng Đạo) của cả dân tộc Việt, thể hiện qua bài thơ ở
Đền thờ Trần Hưng Đạo ở Côn Lôn, Kiếp Bạc (mà Hồ dám hỗn xược xưng ông-tôi với Đức Thánh Trần).
Bình luận 13: Tôi đã có một bài chửi Hồ về tội này - tội hỗn với Đức Thánh Trần. Tôi muốn
viết một bài nữa về tội 24 năm làm “cha già dân tộc” mà chỉ một lần tiện đường
ghé qua Đền Hùng - vị vua Tổ của Dân tộc, không thèm làm lễ thắp nhang gì, ngồi
xây lưng dạng chân ra dạy bảo quân lính. Trong khi đó, hầu như năm nào HCM cũng lần mò về Tàu cộng, và về đó thì Hồ đi khắp các đền thờ để cúng lạy...
Thứ mười bốn, về tác phong cầm bút viết, không có ảnh lưu về cách cầm bút của NAQ, còn ảnh HCM thì cầm
bút máy mà thẳng đứng và chìa ra đầu ngón tay như người Tàu cầm bút lông viết
chữ Tàu...
Xem hình Hồ “làm việc” sau:
Bình luận 14: Cầm bút thế thì chỉ có chọc thủng giấy
thôi chứ viết được gì? Nhưng vì từ bé chắc Hồ chỉ được dạy viết bút lông nên quen tay rồi...
Bút tích của NQA/NTT trong lá thư xin học trường Pháp năm
1911
và bút tích của HCM trong di chúc
Thứ mười năm, về tác phong ăn uống, NAQ ăn
uống đạm bạc, còn HCM thích ăn món ngon kiểu Tàu, luôn
có cán bộ Ban Hoa vận bên cạnh phục vụ đồ Tàu khi trong rừng, về Hà Nội thậm chí
thỉnh thoảng đại sứ Tàu là Trương còn đến nấu ăn riêng cho y.
Bình luận 15: tác phong ăn uống là cái có thể tập rèn tùy
theo điều kiện xung quanh, nhưng khi người ta làm vua như HCM thì đó là tác phong, thói quen từ quá khứ. Lẽ ra quá
khứ của HCM phải là NAQ tức theo đồ ăn Tây, nhưng không, Hồchỉ thích đồ Tàu...
Thứ mười sáu, về tình cảm vợ con, NAQ được
Lý Dĩnh Siêu là vợ Chu Ân Lai giới thiệu và tổ chức cưới Tăng Tuyết Minh năm 1927 ở Quảng Châu, còn HCM năm 1958 chỉ xin đảng CSVN và đảng CSTQ cho cưới/sống
chung vớiLâm Y Lan là một cán bộ cao cấp của CSTQ (nhưng
không được chuẩn y), năm 1968 Lâm Y Lan chết và 1969 Hồ buồn chết theo.
Còn đây là Tăng Tuyết Minh vợ Lý Thụy - NAQ cưới năm 1926 ở Quảng Châu, chia tay
1927 khi NAQ về lại LX:
Tăng Tuyết Minh (chữ Hán: 曾雪明, 1905–1991)
Bình luận 16: Tăng Tuyết Minh dù xinh đẹp thật đấy
nhưng với HCM hình như vẫn là... vợ người ta! Còn vợ
mình là Lâm Y Lan kia. Thế cho nên đến khi hôn mêHồ vẫn chỉ gọi tên Lâm Y Lan, dù trong tiểu sử chính
thức mà Trần Dân Tiên khai sẵn cho Hồ không
có đoạn nào Lâm Y Lan được xuất hiện cả, chỉ có Tăng Tuyết Minh. Cuộc đời éo
le, với vua Hồ cũng vậy, kịch và đời cứ lẫn lộn tréo
ngoe...
Và 4 điều giống nhau tất yếu giữa NAQ và HCM
Sẽ là không công bằng và không khách quan nếu
phủ nhận hoàn toàn sự giống nhau nếu có giữa NAQ và HCM -
nhất định phải có cơ sở nào đó giống nhau lắm thì những người ủng hộ quan điểm này
mới bỏ công xây dựng và “tin tưởng” vào lý thuyết NAQ là HCM của
họ là đúng và có thể thuyết phục mọi người chứ. Phần này, vì thế, tôi
xin trình bày 4 điểm giống nhau cơ bản, mà tôi gọi là tất yếu (chính vì thế mà) NAQ được chọn là “tiền thân” của HCM:
Thứ nhất, cả hai đều cuồng tín tôn thờ những kẻ tội đồ nhân loại
và lý thuyết đấu tranh bạo lực của chúng. NAQ thì
sau khi bôn ba ở Pháp, Anh đã không theo các Cụ Phan Bội Châu hay Phan Châu Trinh
mà chạy theo cộng sản Nga với các lãnh tụ Stalin khét tiếng tàn ác và Quốc tế
Cộng sản III của y. Còn HCM thì
một mực chỉ biết có và tôn thờ Mao với chủ thuyết cũng cộng sản nhưng còn tàn bạo
hơn Stalin...
Bình luận 17: Tuy giống nhau, cùng chọn quan thầy là
đồ tể cộng sản, nhưng HCM già
dơ hơn hay “sinh sau khả ố” hơn, nên chọn Mao giỏi hơn Stalin về tài giết
người và độ tàn ác, với lượng bị hại của y lên đến hàng trăm triệu người, dù
Stalin đã vượt cả Hitle... Vì thế, HCM cũng
vào được top ten diệt chủng mà Mao dẫn đầu với Stalin theo sau đó.
Thứ hai, cả hai đều là những kẻ thích mượn tên, gọi là trộm
danh, người khácđể
cướp công, giành danh tiếng của họ. NAQ thì
“mượn luôn” tên chung Nguyễn Ái Quốc của nhóm Ngũ Long mà NAQ là Nguyễn Tất Thành lúc đó may mắn được là thành viên non kém nhất, dù
chưa xứng học trò của bốn người kia là Cụ Phan Châu Trinh, Ls. Phan Văn
Trường, chí sĩ yêu nước Nguyễn An Ninh và nhà chính trị Nguyễn Thế Truyền. Bằng
cách đó, Nguyễn
Tất Thành cướp
công/danh là tác giả của “Thỉnh nguyên thư của dân tộc An Nam” và
nhiều tác phẩm khác của nhóm ký tên NAQ.
Còn HCM lúc là thiếu tá Hồ Quang của tình báo
cộng sản Tàu Nam Hoa thì đã “mượn” rồi cướp luôn tên Hồ Chí Minh của cụ Hồ Học Lãm.
Bình luận 18: Chúng giống nhau từ xuất xứ cái tên trở
đi: đều đi “thó” của người khác. Bằng cách đó HCM cũng cướp luôn danh tiếng, các tác phẩm và cả tổ chức
Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Cụ Lãm và những người sáng lập khác...
Trong cái giống nhau thứ hai này, HCM cũng
hơn NAQ ở mức độ - lần trước là mức độ tác ác
của thần tượng Mao hơn Stalin, lần này là mức độ vô liêm sỉ và thô bỉ của kẻ
mượn danh, ăn cắp tên tuổi danh tiếng của người khác.
Thứ ba, đi xa hơn mượn danh, cả hai đều là những bậc thầy đạo
văn và trộm cướp tác phẩm, tư tưởng của người khác. NAQ thì
đơn giản nhận mình là tác giả (duy nhất) của những gì - tài liệu và tư tưởng
trong đó - do nhóm Ngũ Long viết ra dưới tên NAQ. Còn HCM thì
không chỉ trộm cả tập thơ Ngục Trung Nhật Ký của người
khác (được cho là của Cụ Hồ Học Lãm), trộm tư tưởng và các ý tưởng, áng văn của
nhiều người nổi tiếng khác, cả các bài thơ của bất hủ của các nhà thơ danh giá
(như bài Tiết Thanh Minh của Đỗ Phủ)...
Bình luận 19: Như vậy về mức độ và phong cách trộm cắp thì
dù cả hai vẫn giống nhau, nhưng HCM vẫn ở
đẳng cấp tay nghề cao hơn, thường xuyên hơn...
Thứ tư, cả hai NAQ và HCM đều rất giống nhau ở những hành vi phản thầy hại bạn, bán
đứng đồng chí mình. NAQ thì năm 1925 ở Tàu đã lừa cùng Lâm Đức Thụ bán đứng
Cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp lấy tiền thưởng. Còn HCM cũng với phong cách lừa thầy phản bạn đó nhưng ở mức
độ cao hơn nhiều - đã bán đứng cho Pháp và/hoặc trực tiếp cho tay chân ra
tay giết hại hàng chục ngàn chí sĩ yêu nước đấu tranh cho độc lập dân tộc dù có
theo cộng sản (nhưng cản đường Hồ)
hay không theo cộng sản...
Ví dụ: Cuối năm 1929, khi đang ở Xiêm, được
tin Việt Nam Quốc Dân Đảng đang chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang đầu năm 1930, NAQ đã vội vã quay lại Quảng Châu báo tin hệ trọng đó cho
Quốc Dân Đảng Tưởng, và qua chúng báo cho Pháp chuẩn bị. Vì thế, nhờ công
của NAQ và/hoặc HCM báo kịp thời, Thực dân Pháp ở Việt Nam đã
chuẩn bị sẵn sàng. Khi cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang của Việt Nam Quốc Dân Đảng
nổ ra ngày 10/2/1930 ở Yên Bái, Hà Nội, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Hải Dương, Lào
Cai, Hồng Quảng (Quảng Ninh), Hải Phòng... quân Pháp đã dễ dàng dìm những người
Việt anh dũng đứng lên trong biển máu, kết thúc bằng vụ xử chém Nguyễn Thái
Học, Phó Đức Chính và 11 lãnh tụ VNQDĐ khác tại Yên Bái ngày 17 tháng 6 năm
1930...
Bình luận 20: Phần này tôi không muốn bình luận, chỉ
muốn khóc, vì chỉ nêu ra điều chúng giống nhau tán ác này đã làm quá đau lòng
mọi người Việt yêu nước thương nòi rồi. Sự giống nhau này của chúng - NAQ và HCM đã
làm đen tối và đẫm máu lịch sử hiện đại của dân tộc Việt Nam, đã tước đi mọi
cơ hội đi lên mong manh còn sót lại cho dân tộc Việt Nam suốt gần một thế kỷ
nay, đã đưa dân tộc vào một thế kỷ đẫm máu khác của cộng sản...
Kết luận về NAQ và HCM là
của mỗi người từng người, nhưng tội ác của chúng/nó với dân tộc Việt Nam thì
không thể chối cãi hay che giấu, dù chúng có giống hay khác nhau, dù chúng có
là hai hay là một.
Kết: Câu chuyện thử AND của HCM/NAQ
Nhưng tại sao đảng CSVN không dùng biện pháp
thử ADN để chứng minh NAQ và HCM là một người? Chúng nói là việc thử AND chỉ
chứng tỏ chúng cũng bán tín bán nghi HCM có
phải là NAQ, mà chúng thì tin chắc NAQ là HCM rồi
nên chúng không cần thử nữa! Sự thật là chúng sợ, rất sợ thử AND sẽ
làm lòi ra sự thật HCM không phải NAQ. Vì chúng biết rõ rằng HCM là người Tàu, là gián điệp Tàu.
Giả sử HCM và NAQ là
một như CSVN nói đi, thì ngoài 4 điều họ giống nhau như tôi đã công nhận trên, vẫn
còn ít nhất 16 nhóm chi tiết/cơ sở/bằng chứng để có thể kết luận NAQ và HCM là
hai kẻ khác nhau hoàn toàn, như tôi đã liệt kê ra trên. Điều đó làm
nhiều người dân hoài nghi. Từ dân hoài nghi dẫn đến dân mất lòng tin, hay dẫn
đến lòng dân ly tán. Điều gì có thể lấy lại lòng tin của dân đó, đánh đổ những
hoài nghi đó của dân? Chỉ có chứng minh rõ ràng chắc chắn cho dân biết NAQ và HCM là
một người. Và cách chứng minh thuyết phục nhất, dễ dàng nhất là thử ADN của HCM với ADN giòng họ Nguyễn hiện nay của NAQ. Chỉ đơn giản thế là CSVN có thể thuyết phục được rất
nhiều người hoài nghi HCM là
người Tàu. Lợi quá lớn mà công chả mất gì, không cần mỗi năm bỏ mấy nghìn
tỷ đồng tổ chức “học tập đạo đức tư tưởng Hồ” gì cả mà Hồ vẫn
được tâng lên tận Cung trăng. Thế nhưng chúng vẫn không dám làm phép thử đó, vì
sao? Vì chúng biết rõ rằng HCM là
giặc Tàu, và chúng đã đâm lao thì phải theo lao thôi.
Thế cho nên, dù còn một cơ hội thôi thì tôi,
chúng ta cũng phải cố gắng vạch trần bộ mặt tội ác và gian trá của lũ giặc Tàu Hồ. Đó là điều tôi muốn nói, tôi cố làm, và sẽ còn làm nữa
khi có thể.
Phan Châu
Thành
danlambaovn.blogspot.com
___________________________________
Những bài viết về Hồ Chí Minh / Nguyễn Ái Quốc
/ Hồ Tập Chương trên Dân Làm Báo:
- Tại sao chúng ta phải tiếp tục vạch trần Hồ Chí Minh? -
tác giả Dân Làm Báo
- Những sự thật không thể chối bỏ (phần 15) -
Người chồng, người cha tồi tệ -
tác giả Đặng Chí Hùng
- Sứ mệnh đích thực của “đồng chí” Trần Dân Tiên -
tác giả Phan Châu Thành
- Hồ Chí Minh: Kẻ trộm thơ - tác giả Trần
Gia Phụng
- Đâu là thơ thật sự của Hồ Chí Minh? - tác
giả Dâu Bể Tang Thương
- Chuyện di chúc Hồ Chí Minh - tác giả Trần
Gia Phụng
- Thưa Bác: cháu đếch hiểu nỗi!!! - tác giả
Vũ Đông Hà
- Hồ Chí Minh là thế đấy!!! - tác giả Người
Đưa Tin
- Những lừa đảo lịch sử của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản
Việt Nam
tác giả Cao-Đắc Tuấn
- Historical frauds by Hồ Chí Minh and the Vietnamese
Communist Party
tác giả Cao-Đắc Tuấn
- Tài đóng kịch của Hồ Chí Minh dưới mắt học giả Tây phương
tác giả Cao-Đắc Tuấn
- Nhận định về Hồ Tập Chương trong tác phẩm "Sinh bình
Khảo"
tác giả Nhóm Hành Khất
- Thiếu tá Hồ Chí Minh - tác giả Bảo Giang
- Viết về Hồ Chí Minh - tác giả Nguyễn Hữu
Tư
- Chuyện lăng Hồ Chí Minh - tác giả Trần
Gia Phụng
- Học tập đạo đức hay gian ác Hồ Chí Minh -
tác giả Lê Hải Lăng
- Hồ Chí Minh và Cải cách ruộng đất - tác
giả Đại Nghĩa
- Dù việc đánh tráo có hay không... - tác
giả Bùi Tín
- Có đúng đó là “cuộc đánh tráo không thể có”? -
tác giả Phan Châu Thành
- Tại sao 1946 Hồ đã rước Pháp quay lại VN,
rồi lại đẩy cả dân tộc vào cuộc chiến chống Pháp - tác
giả Phan Châu Thành
- Binh bài thơ xấc xược của Hồ trước vị anh hùng kiệt xuất
của Dân tộc Việt Nam - Thánh nhân Hưng Đạo Đại vương Trần
Quốc Tuấn
tác giả Phan Châu Thành
- Trần Dân Tiên và cái chết bí hiểm của Trần Đăng Ninh
tác giả Phan Châu Thành
- Vai trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách ruộng đất -
tác giả Nguyễn Quang Duy
- Cái Z của bác Hồ - tác giả Nguyễn Bá Chổi
- “Bác Hồ” nhất định KHÔNG phải là người VIỆT NAM
tác giả Nguyễn Bá Chổi
- Những nụ hôn vượt "biên giới" của
"Bác" - The Straistimes
- “Bác Hồ” ám ảnh - tác giả Nguyễn Lộc Yên
- Hồ Chí Minh - một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 1)
- tác giả Huỳnh Tâm
- Hồ Chí Minh - một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 2)
- tác giả Huỳnh Tâm
- Hồ Chí Minh - một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 3)
- tác giả Huỳnh Tâm
- Hồ Chí Minh - một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 4)
- tác giả Huỳnh Tâm
- Hồ Chí Minh - một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 5)
- tác giả Huỳnh Tâm
- Hồ Chí Minh - một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 6)
- tác giả Huỳnh Tâm
- Hồ Chí Minh - một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 7)
- tác giả Huỳnh Tâm
- Hồ Chí Minh
- một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 8) - tác giả Huỳnh Tâm
- Hồ Chí Minh - một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 9)
- tác giả Huỳnh Tâm
- Hồ Chí Minh - một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 10) -
tác giả Huỳnh Tâm
- Hồ Chí Minh
- một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 11) - tác giả Huỳnh Tâm
- Hồ Chí Minh
- một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 12) - tác giả Huỳnh Tâm
- Hồ Chí Minh - một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 13) -
tác giả Huỳnh Tâm
Đảng đã sai từ đâu?
Nguyễn Công
Lượng (Danlambao) -
Trước năm 1975, Tổng Thống VNCH nói“Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, mà hãy
nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”. Câu nói nầy có thể cho rằng đây là một khẩu
hiệu tuyên truyền, có thể có người không tin, nhưng sự thật thì được nhiều
người hiểu biết công nhận là đúng và được nhắc đi nhắc lại trên nhiều phương
tiện truyền thông cho đến nay. Dù sao thì Tổng Thống Thiệu cũng là người cầm
quyền và phê phán địch thủ của mình nên có thể cho là thiếu tính cách khách
quan. Nhưng ngày nay sau gần 40 năm, nước VNCH đã bị khối Cộng Sản xâm lăng
thôn tính, một người trong nước, ông Thái Bá Tân một công dân của nước VNDCCH,
và bây giờ là nước CHXHCNVN phổ biến một bài thơ phê phán và thách thức chế độ
Cộng Sản nghe mới can trường. Bài thơ như thế nầy:
Tôi không biết ông
Thiệu,
Yêu mến lại càng
không,
Nhưng buộc phải thừa
nhận
Một thực tế đau lòng,
Rằng ông ấy nói đúng,
Thời còn ở Miền Nam:
“Đừng nghe cộng sản
nói.
Hãy xem cộng sản làm!”
Tôi sống ở Miền Bắc
Sáu mươi lăm năm
nay,
Và buộc phải thừa nhận
Một thực tế thế nầy:
Rằng ta, đảng, chính
phủ,
Thường hay nói một
đàng
Mà lại làm một nẻo.
Nhiều khi không đàng
hoàng.
Đảng, chính phủ luôn
nói,
Mà nói hay, nói nhiều,
Rằng sẵn sàng chấp nhận
Mà nói hay, nói nhiều,
Rằng sẵn sàng chấp nhận
Những ý kiến trái
chiều.
Vậy mà một nhà báo,
Nói ý kiến của mình,
Nói đàng hoàng, chững
chạc,
Có lý và có tình,
Liền bị buộc thôi
việc.
Ai cũng hiểu vì sao.
Không khéo lại tù tội.
Như thế là thế nào?
Như thế là các vị
Mặc nhiên thừa nhận
mình
Không làm như đã nói,
Gây bức xúc dân tình.
Là một người yêu nước
Là công dân Việt Nam,
Tôi mong đảng đã nói,
Là nhất thiết phải
làm.
Vì đó là danh dự,
Niềm tin và tương lai.
Niềm tin và tương lai.
Hãy chứng minh ông
Thiệu
Nói như thế là sai.
Tôi không biết ông
Trọng,
Yêu mến lại càng
không,
Nhưng là chỗ người lớn
Nhưng là chỗ người lớn
Tôi thành thật khuyên
ông
Rút cái giấy sa thải
Một nhà báo công minh.
Phần ông, nếu phục
thiện,
Cũng nên xem lại mình.
Cũng nên xem lại mình.
Tôi nhận hưu nhà nước
Cũng đã mấy năm nay.
Hy vọng còn được nhận
Sau bài thơ ngắn nầy.
Đảng lãnh đạo sáng
suốt,
Lịch sử thì vẻ vang,
Dân anh hùng, vĩ đại,
Bạc biển và rừng vàng.
Thế mà ta, thật tội,
Chẳng dám mơ cao xa
Thành bác Mỹ, bác Nhật
Bác EU, bác Nga.
Cái dân ta mơ ước,
Ngẫm mà thấy đau lòng,
Mơ được như Miến Điện,
Mà rồi cũng chẳng
xong.
Tội mấy bác lãnh đạo,
Nói gì cũng toàn sai,
Bị dân tình la ó,
Nhiều lúc đến khôi
hài.
Là vì danh không
chính,
Ngôn không thuận được
đâu.
Cố mấy cũng không
đúng,
Khi đã sai từ đầu.
Tác giả Thái Bá Tân, một người chẳng những
sống trong chế độ cộng sản 65 năm mà lại là một cán bộ của nhà nước đang lãnh
tiền hưu trí, thì những phát biểu của ông không phải chống chế độ mà là những
góp ý xây dựng và những điều ông nêu ra chắc chắn phải đáng tin. Theo tác giả,
đảng và chính phủ Hà Nội thường nói một đàng làm một nẻo và nhiều khi không
đàng hoàng và tác giả cũng khẳng định rằng những việc làm khôi hài đó của đảng
và chính phủ dù có cố sữa sai mấy đi chăng nữa thì cũng không thể làm đúng lại
được chỉ vì đảng đã sai từ đầu.
Vậy cái sai từ đầu của
Đảng Cộng Sản là cái sai từ đâu?
Ngày nay tại Việt Nam, tài liệu viết về Hồ Chí
Minh (HCM) và Đảng Cộng Sản thì nhiều vô số kể, nhưng chỉ cần đọc 2 tập Hồ
Chí Minh Toàn Tập và Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam thì
chúng ta cũng có cái nhìn quá đủ về những gì Cộng Sản nói và hiểu ra những thực
tế đau lòng những gì Cộng Sản làm đối với nhân dân Việt Nam. Trong khuôn khổ
bài này chúng tôi chỉ nêu lên vắn tắt những sự kiện sau đây:
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản
Tuyên Ngôn Độc Lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa. Câu mở đầu ông tuyên bố:
“Hởi đồng bào cả nước.
tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền
tự do và mưu cầu hạnh phúc... Đó là lẽ phải không ai chối cãi được.”
Mặc dù câu nói nầy ông tự nhận ngay bên dưới
là ông cóp từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của Hoa Kỳ và bản Tuyên Ngôn Nhân
Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp năm 1791, hai nước mà ông luôn luôn chửi
bới là đế quốc thực dân, nhưng dù sao nó cũng được xem là những gì HCM đã nói
ngay từ đầu. Tiếp theo toàn bản Tuyên Ngôn là những lời lên án thực dân Pháp về
những việc làm trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Đó là: “Thi hành
những luật pháp dã man, ngăn chặn sự thống nhất đất nước, ngăn chận đoàn kết
dân tộc, lập nhiều nhà tù hơn trường học, thẳng tay chém giết những người yêu
nước thương nòi gây ra biển máu, thi hành chính sách ngu dân, bóc lột dân ta
đến tận xương tủy vô cùng tàn nhẫn, cướp ruộng đất hầm mỏ nguyên liệu, chúng
đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, chúng không cho các nhà tư sản ngóc đầu lên.
Pháp đã mở cửa nước ta để rước Nhật vào 1940, khiến dân ta chịu hai tầng xiềng
xích khiến hai triệu đồng bào ta chết đói. Thậm chí khi thua chạy, chúng còn
nhẫn tâm giết nốt số đông tù nhân chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng...”.
Ông HCM cũng khẳng định chính toàn dân Việt
Nam đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm, chứ không riêng gì Đảng
Cộng Sản, để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Ông HCM dõng dạc tuyên bố nay
ông là đại biểu cho toàn dân Việt Nam để “lâm thời” lập nên nước Việt Nam
Mới...
Nhưng mỉa mai thay, khi bắt tay thi hành một
Việt Nam Mới, thì HCM và đảng Cộng Sản đã làm ngược lại tất cả những gì ông đã
tuyên bố trong bản Tuyên Ngôn. Đó là: Đã áp đặt lên nhân dân Việt Nam một chế
độ độc tài đảng trị và đàn áp nhân dân còn tồi tệ hơn cả chế độ thực dân Pháp
nhằm củng cố chế độ Cộng Sản độc tôn, còn cái “chính phủ lâm thời” thì nó kéo
dài đến muôn năm trường trị.
Tôi xin tóm lược nhắc lại những sự kiện sau
đây mà không đi vào chi tiết, nếu muốn quý vị có thể vào internet, chỉ cần đánh
những vấn đề cần tìm thì có đến hàng chục bài viết kể lại những tội ác của đảng
Cộng Sản và HCM một cách chi tiết trong mỗi sự kiện nầy:
1- Âm mưu với các thế lực quốc tế chia cắt đất
nước qua Hiệp Định Geneve 1954. Theo kế hoạch từng bước của Cộng Sản Quốc Tế là
xâm chiếm toàn Việt Nam và bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản trên khắp toàn cầu.
2- Gây mâu thuẫn và làm mất đoàn kết toàn dân
để có cớ triệt hạ những đảng phái và đoàn thể quốc gia yêu nước chống Pháp dành
độc lập có từ trước khi đảng Cộng Sản ra đời (1930); mà Cộng Sản biết rằng
những người quốc gia không thể nào chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản dù thỏa hiệp
hay sống chung.
3- Bày trò cách mạng “Cải Cách Ruộng Đất” để
tiêu diệt thành phần trí phú địa hào vì thành phần nầy có thể sẽ là một lực
lượng đối kháng lại đảng Cộng Sản sau này. Cứ theo thống kê của Đảng Cộng Sản
và Chính Phủ VNDCCH thì số người bị sát hại trong CCRĐ là 120.008 người, nhưng
theo tác giả Hoàng Văn Chí trong quyển “Từ Thực Dân đến Cộng Sản” thì con số
nầy lên đến hơn nửa triệu người, một tài liệu khác thì con số nầy lên đến cả
triệu người. Hãy nghe những giòng “Thơ” của hai thi nô gạo cội của đảng, chúng
ta cũng đủ rùng mình:
Thơ Tố Hữu:
“Giết, giết nữa, bàn
tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng,
lúa tốt thuế mau xong
Cho Đảng bền
lâu, cùng rợp bước chung lòng
Thờ Mao Chủ
Tịch, thờ Xit-Ta-Lin bất diệt”.
Thơ Xuân Diệu:
“Địa hào, đối lập ra
tro
Lưng chừng phản
động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho
sáng khắp đường
Thắp đuốc cho
sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó
ra đây
Bắt quỳ gục
xuống đọa đày chết thôi”.
4- Triệt hạ nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm” của các
văn nghệ sĩ vì đây là nhóm trí thực không thể khuất phục trước những chủ trương
Cộng Sản sẽ áp đặt lên Việt Nam.
5- Xây dựng những nhà tù với một chế độ lao tù
khắc nghiệt, nhiều hơn là xây dựng trường học và bệnh viện trên khắp Miền Bắc
để khủng bố tinh thần của nhân dân và triệt hạ dần những lực lựng chống đối.
6- Bần cùng hóa nhân dân và áp đặt chế độ ngu
dân để dễ bề cai trị.
7- Xé bỏ Hiệp Định Geneve 1954 sau 2 năm và
tiến hành chiến tranh xâm chiếm Miền Nam. Một cuộc chiến tranh mà HCM tuyên bố: “Dù
đốt cháy cả dãy Trương Sơn và thiêu sống cả nhân dân Miền Nam chúng ta cũng
phải tiến hành đến thắng lợi cuối cùng...”. Cuộc chiến tranh nầy kéo dài 20
năm và đến khi lừa được 12 nước và Liên Hiệp Quốc ký kết bản Hiệp Định Paris
1973 để các lực lượng Đồng Minh của VNCH rút khỏi Miền Nam thì Cộng Sản một lần
nữa xé bỏ Hiệp Định nầy ngay tức khắc và cưỡng chiếm VNCH vào tháng 4/1975.
8- Ngay trong năm 1975, Cộng Sản Hà Nội đã
thực thi ngay một chính sách thâm độc là “Tập Trung Học Tập Cải Tạo” nhưng thật
sự là “Ngục Tù Lao Động Khổ Sai” nhằm giết dần mòn những sĩ quan và cán bộ của
VNCH mà Cộng Sản gọi là “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” vì nhận định những thành phần
nầy là mầm mống có thể trỗi dậy chống lại chế độ trong tương lai.
9- Sau đó là chiến dịch “Đánh Tư Sản Mại Bản”,
“Cải Tạo Công Thương Nghiệp, “Giải Tỏa Mặt Bằng”, “Giãn Dân đến những Vùng Kinh
tế Mới”, “Ngăn sông cấm chợ” ở Miền Nam... mà mục đích là đánh cướp tài sản, cơ
sở sản xuất, nhà cửa và ruộng vườn, đất đai... của nhân dân Miền Nam, với khẩu
hiệu bịp bợm là “Nhân dân làm chủ, Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý”.
10- Để vơ vét những gì còn sót và triệt hạ
những thành phần bất phục chế độ, Cộng Sản hé mở cánh cửa gọi là “Ra Đi Bán
Chính Thức” và “Tổ Chức Vượt Biên” để đẩy hàng triệu người ra khỏi nước gây nên
thảm cảnh chết chóc vì bão táp và nạn hải tặc trên biển Đông. Sự kiện nầy đã
đánh động lương tri của nhân loại trên toàn thế giới phải bàng hoàng xúc động
đến nỗi những tên phản chiến gạo cội cũng phải cúi mặt ăn năn như Jane Fonda,
Bob Dylan, Joan Baez, J. Kerry, vợ chồng Clinton và Hillary...
11- Phân biệt đối xử bằng cách xét lý lịch gia
đình nhằm đẩy con em những gia đình “ngụy quân, ngụy quyền” ra khỏi các trường
học để không còn con đường nào khác hơn là đi “Nghĩa Vụ Quân Sự” làm bia đỡ đạn
cho đảng ở mặt trận Campuchia hoặc phải kiếm sống bằng lao động chân tay nặng
nhọc dù ở tuổi vị thành niên... Còn người lớn tuổi thì không được tham gia vào
công việc chung của đất nước mà chỉ phải lao động bằng chân tay.
12- Về xâu thuế thì chỉ cần nghe lại câu ca
dao “Thuế gì thuế đánh ngọn cây. Xâu gì xâu lại bỏ thây trên rừng” thì
đủ biết những thứ thuế quái dị Cộng Sản đã đặt ra để bóc lột nhân dân như thế
nào, và cũng là cái cớ để triệt hạ và kết tội nhân dân trong CCRĐ (1954) và
trong CTCTN (1976)!
13- Từ ngày Nguyễn Tấn Dũng lên làm Thủ Tướng,
cán bộ nhà nước muốn cướp đất ruộng của vùng nào, thì chỉ cần lập quy hoạch là
giải tỏa; tiền đền bồi cho dân một rồi đem bán cho những công ty nước ngoài giá
lên gấp ngàn lần, rồi chia nhau bỏ túi. Còn ngành Công An muốn bắt ai thì bắt,
một lỗi nhỏ khi đi đường có thể bị bắt đem về đồn khảo tra cho đến chết.
Cho đến hôm nay sau hơn 80 năm, chính những
người đã nằm trong lòng chế độ, như Búi Tín, Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương,
Nguyễn Văn Trấn, Vũ Minh Cần, Huy Đức, Trần Đĩnh, Trần Đức Thảo... đang lên án
những việc làm hại nước phản dân như đã kể trên của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
Sản Việt Nam, còn mạnh dạn và rõ nét hơn những nhà nghiên cứu lịch sử ở hải
ngoại như Vũ Ngự Chiêu, Trần Gia Phụng... Có thể nói ở cả hai phía đều có cái
nhìn chung để vạch trần những gì mà lâu nay đảng Cộng Sản muốn đánh bóng cho
HCM. Từ việc HCM ra đi ở bến Nhà Rồng cho đến những hoạt động của HCM ở Pháp
rồi sau đó gia nhập đảng Cộng Sản Pháp và đảng Cộng Sản Quốc Tế, đến việc Liên
Xô và Trung Cộng sau đó đã thổi HCM lên như một con người trăm biến vạn hóa
nhưng rốt cuộc chỉ để sử dụng như một tên tay sai cho thế lực Cộng Sản Quốc Tế.
Thực vậy, HCM đã được sai khiển để thực hiện kế hoạch nhuộm đỏ toàn cầu theo
đúng khẩu hiệu “Vô Sản toàn thế giới, Tất cả đoàn kết lại” mà trước tiên là
nhuộm đỏ Việt Nam một cách xuất sắc. Những bằng chứng từ lá thư HCM gởi Bộ
Thuộc Địa Pháp xin được nhập học trường thuộc địa, đến lá thư xin cho cha là
Nguyễn Sinh Sắc được một việc làm trong chính phủ Bảo Hộ của Pháp, cho thấy HCM
không phải đi tìm đường cứu nước mà chính là đi xin làm tay sai cho Pháp hầu
mong sau này “áo gầm về làng” để trút nỗi nhục của cha là Nguyễn Sinh Sắc bị
triều đình Huế đánh đòn và cách chức vì đã giết người. Những tài liệu HCM hãm
hại cụ Phan Bội Châu và những nhà Cách Mạng VN ở đất Tàu cũng là những bằng
chứng về vai trò tay sai của HCM.
Vì vậy không người Việt Nam chân chính nào có
thể cho rằng HCM và đảng CSVN đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc và độc
lập cho đất nước, khi mà chính HCM và đảng CSVN đã âm mưu cùng các thế lực quốc
tế để chia đội đất nước Việt Nam qua Hiệp Định Geneve 1954 do Phạm Văn Đồng,
thủ tướng và Tạ Quang Bữu, thứ trưởng Bộ Ngoại giao của HCM đã đặt bút ký,
trong khi phe Quốc Gia phản đối không ký kết. Chính trong thời gian thi hành
Hiệp Định thì lực lượng vũ trang của CS vẫn ếm quân lại Miền Nam không chịu rút
về phía Bắc vĩ tuyến 17. Do đó, sau hai TT Diệm đòi hỏi một cuộc Tổng Tuyển Cử
phải có Quốc Tế giám sát thì Cộng Sản không chấp nhận. Nhưng CSVN đã tráo trở
và nói ngược lại là phe Quốc Gia không chịu thi hành Tổng Tuyển Cử, một cái cớ
để Bắc Việt gây nên cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) bằng vũ khí của Nga
Tàu. Dịp Tết Mậu Thân năm 1968, thực hiện lời tuyên bố xâm chiếm Miền Nam, Hổ
Chí Minh đã chôn sống trên 3.000 đồng bào ở Huế. Sau khi HCM chết 1969 tập đoàn
CSVN, dưới sự lãnh đạo của Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên
Giáp..., tiếp tục sự nghiệp bành trướng chủ nghĩa CS cho đến khi chiếm được
Miền Nam 1975.
Cuối cùng chính Lê Duẩn đã thú nhận “Ta đánh Pháp, đánh
Mỹ là đánh cho Liên Xô và Trung Quốc”. Câu nói nầy sau khi đàn em xây
xong ngôi lăng mộ của Duẩn ở Hà Tĩnh đã cho sơn son thép vàng và gắn trên lăng
mộ của y. Đây là một sự thật hiển nhiên rằng cuộc chiến tranh đã làm chết hằng
triệu thanh niên Việt Nam, gây cảnh hoàng tàn đau thương cho cả hai Miền Nam
Bắc là một cuộc chiến vô nghĩa, không phải vì độc lập dân tộc mà chính là vì sự
bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản cho Liên Xô và Tàu Cộng!!!
Cũng không ai có thể
nói HCM thương dân khi mà trong CCRĐ ông ta đã giết hàng trăm ngàn đồng bào
trong đó có những người đã từng cưu mang và nuôi sống bọn lãnh đạo Cộng Sản như
bà Nguyễn Thị Năm ở Hà Giang và khi mà chính những người đàn bà đã cống hiến
thân xác cho HCM làm hộ lý, đã sinh con cho HCM như Tăng Tuyết Minh, Đổ Thị
Lạc, Nông Thị Xuân... nhưng sau khi thỏa mãn xong ông còn sát hại thì nói gì
đến việc ông thương nước yêu nòi!?...
Chính vì thế mà hệ lụy đến ngày nay là Việt
Nam được xem như là thuộc địa của Tàu Cộng (vì Liên Xô đã từ bỏ chủ nghĩa Cộng
Sản). Nên hiện nay ở Việt Nam có hai cơ chế, thứ nhất là Đảng Cộng Sản có trụ
sở, ngân sách, và nhân sự đều do đảng Cộng Sản Tàu điều khiển từ cấp địa phương
đến trung ương và được nuôi sống từ tiền thuế của nhân dân Việt Nam, có thể nói
đây là Đô Hộ Phủ của Tàu Cộng trên đất nước Việt Nam; thứ hai là Nhà Nước
CHXHCNVN một bộ máy thừa hành cũng giống như guồng máy của Nam Triều thời Pháp
thuộc nhưng là một công cụ để đàn áp nhân dân rất tinh vi do hai lực lượng Công
an và Quân đội “nhân dân” thừa hành. Điều nầy đủ trả lời cho những người ngây
thơ được hiểu rõ tại sao Tân Rai, Nhơn Cơ, Bình Định... Tàu Cộng ngang nhiên
khai thác Bô-Xít, Titan...; tại sao Bình Dương, Đà Nẵng, Vũng Áng... Tàu cộng
ngang nhiên lập những làng người Hoa; tại sao Tàu Cộng ngang nhiên đặt giàn
khoan Hải Dương 981, xây bến cảng trên các hải đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa
mà nhà nước CSVN không hề lên tiếng giải thích cho quốc tế và quốc dân trước
những cuộc xuống đường đòi hỏi của đồng bào gần đây.
Câu trả lời là: Bởi vì Hồ Chí Minh và Đảng
CSVN đã dâng đất nước chúng ta cho Tàu cộng từ lâu rồi!
Bình tâm nhìn lại, từ khi HCM tuyên bố thành
lập một nước Việt Nam Mới đến nay, Việt Nam thật sự đã trải qua những năm dài
khốn nạn. Nhân dân phải sống trong cảnh chiến tranh ròng rã do HCM gây ra để
bành trướng chủ nghĩa xâm lược của Cộng Sản và cũng bởi vì cái xã hội chính trị
và tổ chức chính quyền của Việt Nam được đặt trên những dữ kiện hoàn toàn phi
lý mà hậu quả tất nhiên là do những trò chơi chính trị bẩn thỉu. Đảng Cộng Sản
đã âm mưu để cướp đoạt chính quyền vì tư lợi cá nhân và bè đảng, củng cố quyền
hành ở cương vị chính quyền hơn là nghĩ đến quyền lợi chung của dân tộc.
Vậy thì làm sao để tái lập uy quyền quốc gia
khi mà kẻ đương quyền là những kẻ tráo trở đi làm tay sai cho ngoại bang, cho
thế lực quốc tế đầy tham vọng, xé bỏ mọi cam kết của mình trên những công ước
quốc tế? Vậy thì làm sao lấy lại niềm tin của nhân dân khi mà kẻ đương quyền
kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc mà chưa dám mổ xẻ những ung nhọt của xã hội,
chưa áp dụng được luật pháp quốc gia, chưa dám nói lên sự thật cùng đồng bào?
Vậy thì làm sao và nhân danh cái gì để kêu gọi dân tộc phải hy sinh để chống
Tàu Cộng và sự hy sinh ấy sẽ đưa đến kết quả như thế nào khi mà kẻ đương quyền
đem dâng đất, dâng biển, dâng tài nguyên cho ngoại bang để củng cố thế lực và
địa vị cho bè đảng của mình? Trả lời thẳng thắn những câu hỏi nầy, trình bày
cùng quốc dân hướng đi rõ rệt, dứt khoát từ bỏ những trò chơi chính trị bẩn
thỉu, từ đó vấn đề đa nguyên phải được đặt ra, vai trò chính đảng và đối lập
chính trị phải được hợp pháp hóa thì cơ may mới có thể đến để đưa Việt Nam
thoát khỏi những năm dài khốn nạn.
Việt Nam đã từng bị giặc Tàu đô hộ trong suốt
một ngàn năm, nhưng lúc nào cũng có những Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ... cùng toàn dân nổi dậy dành lại độc
lập và chủ quyền. Thời Pháp thuộc ngay từ những buổi đầu và trong suốt 80 năm
đã có những anh hùng như Trương Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương...; Rồi
phong trào Văn Thân, Cần Vương với những anh hùng như Mai Xuân Thưởng, Tăng Bạt
Hổ, Trần Cao Vân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám...; tiếp đến là những tổ
chức, đảng phái như phong trào Đông Du, Duy Tân, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại
Việt Cách Mạng Đảng... với những tên tuổi như Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu,
Nguyễn Thái Học... cũng vẫn tranh đấu cho sự trường tồn của đất nước và lợi
quyền của dân tộc, chứ đâu đợi gì đến năm 1930. Năm 1930 Cộng Sản lợi dụng tình
thế Việt Nam nên chui vào với danh nghĩa chống Pháp giải phóng đất nước nhưng
kỳ thực là đi xâm lăng Việt Nam theo kế hoạch của Cộng Sản Quốc Tế. Hiện nay trong
nước đã xuất hiện những phong trào “Dân Oan Đòi Lại Ruộng Đất Bị Cộng Sản Cướp
Đoạt”, phong trào đòi “Tự Do Dân Chủ Dân Quyền”, phong trào “Đòi Hoàng Sa,
Trường Sa”, phong trào “Thoát Trung”... đã thấy xuất hiện những gương mặt trẻ
đầy cương nghị và kiên cường, những gương mặt già nhưng đầy cương quyết và quả
cảm, tay không tấc sắt nhưng dám đứng lên thách thức trước bạo quyền như Việt
Khang, Nguyễn Phương Uyên, Huỳnh Thục Vy, Lê Thị Công Nhân, Trần Huỳnh Duy
Thức, Điếu Cày, Mẹ Nấm... những người không tiếc thân xác đã tự thiêu phản đối
bạo quyền và đến cả những “người trong quân đội và công an nhân dân đang phản
tỉnh” thì chúng ta còn hy vọng một cuộc cách mạng long trời lỡ đất để lật đổ
chế độ độc tài đảng trị Cộng Sản, đuổi Tàu Cộng ra khỏi nước chắc chắn sẽ xảy
đến trong một ngày không xa.
No comments:
Post a Comment
Thanks