VRNs (26.12.2014) – Texas, USA – Trong tuần qua, Tổng thống Hoa Kỳ (HK)
Barack Obama và Chủ tịch Cuba Raul Castro đồng ý trao đổi tù nhân đang bị giam
giữ về tội gián điệp. Ngoài ra, Washington và Havana đồng ý tổ chức các cuộc
thảo luận với mục đích thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Không có
thoả thuận nào về việc chấm dứt lệnh cấm vận của HK đối với Cuba, cái bước đòi
hỏi sự chấp thuận của Quốc Hội.
Đây là một
thỏa thuận khiêm tốn, bởi vì trong thực tế không có bất cứ một thỏa thuận nào
được ký kết. Quan hệ HK-Cuba đã giá băng trong nhiều thập kỷ, với không bên nào
sẵn sàng nhượng bộ đáng kể hoặc thậm chí có những buớc đi đầu. Nguyên nhân một
phần là do chính trị nội bộ của mỗi nước mà nó làm cho việc lạnh nhạt được
khuyến khích. Về phía HK, liên minh của người Mỹ gốc Cuba, các nhóm bảo thủ và
các nhóm bảo vệ nhân quyền chỉ trích sự vi phạm nhân quyền của Cuba và ngăn
chặn nỗ lực. Về phía Cuba, sự thù nghịch với Hoa Kỳ đóng một vai trò then chốt
trong việc duy trì chính đáng tính cho chế độ cộng sản. Không chỉ chính quyền
được sinh ra để chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ, mà Havana cũng còn sử dụng lệnh cấm
vận của HK để giải thích cho những thất bại kinh tế của Cuba. Không có áp lực
bên ngoài để thúc đẩy hai bên tuơng nhuợng nhau, và có nhiều lý do nội bộ đáng
kể để duy trì tình trạng ngưng đọng như vậy.
Người Cuba bây giờ đang bị một số áp lực để chuyển dịch chính
sách của họ. Họ đã tìm cách để tồn tại sau sự sụp đổ của Liên Xô với những khó
khăn. Bây giờ họ phải đối diện với một vấn đề cấp bách ngay trước mắt: sự bất
ổn của Venezuela. Caracas cung cấp dầu cho Cuba với sự giảm giá rất lớn. Thật
khó có thể nói nền kinh tế của Cuba gần bờ vực như thế nào, nhưng rõ ràng là
dầu của Venezuela đã tạo ra một sự khác biệt đáng kể. Chính quyền của Tổng
thống Venezuela, Nicolas Maduro, đang phải đối mặt với tình trạng bất ổn đang
tăng tốc cho những thất bại về kinh tế. Nếu chính phủ Venezuela sụp đổ, Cuba sẽ
mất đi một trong những trụ cột nền móng để chống đỡ chế độ. Số phận của
Venezuela vẫn còn chưa biết được như thế nào, nhưng Cuba phải đối mặt với khả năng
của một kịch bản xấu nhất có thể xảy ra này, và phải tạo điều kiện cho việc mở
cửa. Mở cửa sang Hoa Kỳ thì hợp lý trong việc duy trì chế độ.
Lý do cho sự thay đổi của HK thì ít rõ ràng hơn. Nó có ý nghĩa
chính trị từ thế đứng của Obama. Thứ nhất, về ý thức hệ, bỏ cấm vận hấp dẫn ông
ta. Thứ hai, ông có ít thành công trong chính sách đối ngoại được ghi nhận.
Bình thường hóa quan hệ với Cuba là cái gì đó ông có thể đạt được, bởi vì những
nhóm như Phòng Thương mại Mỹ ủng hộ việc bình thường và sẽ cung cấp vỏ bọc
chính trị bảo vệ ông bên phía Đảng Cộng hòa. Nhưng cuối cùng và có lẽ quan
trọng nhất là các nền tảng địa chính trị đã ám ảnh HK về Cuba hầu hết đã không
còn nữa, nếu không phải vĩnh viễn thì ít ra là trong tương lai gần. Bình thường
hóa quan hệ với Cuba không còn là mối đe dọa chiến lược. Để hiểu được phản ứng
của HK với Cuba trong nửa thế kỷ qua, quan trọng là sự hiểu biết về thách thức
địa chính trị của Cuba cho Hoa Kỳ.
Giá trị chiến lược của Cuba
Ngược dòng thời gian, sự thách thức bắt đầu từ khi hoàn tất việc
mua Louisiana của Tổng thống Thomas Jefferson năm 1803. Lãnh thổ Louisiana
thuộc sở hữu của Tây Ban Nha trong hầu hết lịch sử của nó cho đến khi nó được
nhượng lại cho Pháp một vài năm trước khi Napoleon bán lại cho Hoa Kỳ để lấy
tiền tài trợ cho chiến tranh với người Anh. Jefferson thấy Louisiana là thiết
yếu cho an ninh quốc gia của HK trong hai phuơng diện: Thứ nhất, dân Mỹ vào
thời điểm đó chủ yếu sống ở phía đông của rặng núi Appalachians trong một dải
dài chạy từ New England tới biên giới Georgia-Florida. Nó rất dễ bị xâm lược và
không có chổ để rút lui, như hiển nhiên đã thấy trong cuộc chiến tranh năm
1812. Thứ hai, Jefferson có viễn kiến về sự thịnh vượng của HK nên được xây
dựng xung quanh những nông dân sở hữu đất đai của mình, sống như các doanh nhân
chứ không phải là nông nô. Vùng đất trù phú của Louisiana, nếu ở trong tay của
những người di dân đến Hoa Kỳ, sẽ tạo ra sự giàu có để xây dựng đất nước và
cung cấp chiều sâu chiến lược để đảm bảo an ninh của HK.
Điều làm cho Louisiana có giá trị là cấu trúc sông của nó sẽ cho
phép người nông dân miền Trung Tây vận chuyển hàng hóa trong các sà lan đến
sông Mississippi và theo dòng đi xuống New Orleans. Tại đây, nông phẩm sẽ được
chuyển qua cho các tàu đi biển và vận chuyển đến châu Âu. Các nông phẩm này sẽ
làm cho cuộc Cách mạng công nghiệp ở Anh dễ thực hiện, vì việc nhập khẩu số
lượng lớn thực phẩm giúp giải phóng nông dân Anh hầu cung cấp nhân lực làm việc
trong các ngành công nghiệp ở đô thị.
Để cho việc thực hiện điều này được thuận tiện, HK cần kiểm soát
hệ thông sông ngòi chằn chịt Ohio-Missouri-Mississippi (trong đó có rất nhiều
con sông khác), cửa sông Mississippi, Vịnh Mexico, và các lối ra Đại Tây Dương
chạy giữa Cuba và Florida, cũng như giữa Cuba và Mexico. Nếu chuỗi dây chuyền cung
cấp này bị phá vỡ ở bất cứ nơi nào, nó sẽ gây hậu quả đáng kể cho toàn cầu – và
đặc biệt là cho HK. New Orleans vẫn là cảng lớn nhất cho các khối luợng hàng to
lớn ở HK, vẫn vận chuyển lương thực tới châu Âu và nhập khẩu thép cho nền sản
xuất của HK.
Đối với người Tây Ban Nha, Lãnh Thổ Louisiana là lá chắn chống
HK xâm nhập vào Mexico và các mỏ bạch kim giàu có của họ, nó cung cấp một phần
đáng kể cho sự giàu thịnh của Tây Ban Nha. Với Louisiana trong tay HK, những
thành trì quan trọng này bị đe dọa. Nhìn từ quan điểm của người Mỹ, mối quan
tâm của Tây Ban Nha có thể đưa đến khả năng Tây Ban Nha can thiệp vào thương
mại của HK. Với Florida, Cuba và Yucatan (Mễ) nằm trong tay Tây Ban Nha, người
Tây Ban Nha có tiềm năng để ngăn chặn dòng sản xuất chảy xuống Mississippi.
Cựu Tổng thống Andrew Jackson đóng vai trò quan trọng trong
chiến lược của Jefferson. Là một tướng lãnh, ông tiến hành các cuộc chiến tranh
chống lại người da đỏ Seminole ở Florida và chiếm lấy lãnh thổ này từ sự cai
trị của Tây Ban Nha – và từ Seminoles. Ông bảo vệ New Orleans từ cuộc tấn công
của Anh năm 1814. Khi ông trở thành tổng thống, ông thấy rằng Mexico, bây giờ
đã độc lập từ Tây Ban Nha, trở thành mối đe dọa chính cho toàn bộ sự nghiệp của
vùng trung Mỹ. Biên giới của Mexico ở Texas nằm trên sông Sabine, chỉ 193 km
(120 dặm) từ Mississippi. Jackson, thông qua cấp duới của ông là Sam Houston,
khuyến khích sự nổi dậy của Texas chống lại người Mexico để thiết lập sân khấu
cho sự sáp nhập.
Nhưng Cuba của Tây Ban Nha vẫn là cái gai đâm vô hông HK. Các eo
biển Florida và Yucatan đều hẹp. Mặc dù Tây Ban Nha, ngay cả khi ở trong trạng
thái suy yếu, vẫn có thể ngăn chặn tuyến đường thương mại của Mỹ, nhưng người
Anh mới chính là điều làm cho người Mỹ lo lắng nhất. Có căn cứ ở Bahamas, gần
Cuba, người Anh, trong tâm trí của họ có nhiều mâu thuẫn với Hoa Kỳ, có thể
chiếm Cuba và áp đặt lệnh phong tỏa gần như bất khả phá vỡ, làm tê liệt nền
kinh tế HK. Anh phụ thuộc vào nông phẩm ở Mỹ, cho nên không thể loại trừ khả
năng họ sẽ tìm cách giành quyền kiểm soát xuất khẩu từ Trung Tây để đảm bảo an
ninh kinh tế của họ. Nỗi lo sợ quyền lực của Anh đã góp phần định hình cuộc nội
chiến và những thập kỷ sau đó.
Cuba là chìa khóa. Nếu nó trong tay của một thế lực thù địch
nước ngoài, nó có giá trị như nút đậy sông Mississippi, không khác gì chiếm
được New Orleans. Sự suy yếu của người Tây Ban Nha làm cho người Mỹ lo sợ. Bất
kỳ quyền lực mạnh mẽ nào của châu Âu – nguời Anh, hay sau năm 1871, người Đức –
có thể dễ dàng đá văng người Tây Ban Nha ra khỏi Cuba. Và Hoa Kỳ, thiếu một lực
lượng hải quân hùng mạnh, sẽ không thể đối phó. Chiếm Cuba đã trở thành vấn đề
cấp bách trong chiến lược của HK. Theodore Roosevelt, tổng thống trông coi sự
trừng lên của HK như là một cuờng quốc hải quân lớn – và là người đã giúp đảm
bảo việc xây dựng kênh đào Panama, vì nó tối quan trọng cho một lực lượng hải
quân hai đại dương – đã trở thành biểu tượng của việc HK chiếm Cuba trong cuộc
chiến Tây ban nha-HK những năm 1898-1900.
Với việc chiếm Cuba, đường vận chuyển New Orleans-Atlantic được
bảo đảm. Hoa Kỳ duy trì quyền kiểm soát Cuba cho đến khi sự nổi lên của Fidel
Castro. Nhưng Hoa Kỳ vẫn luôn lo lắng về an ninh Cuba. Bởi vì nếu chính tự nó,
hòn đảo này không thể đe dọa các đường cung cấp hàng hải. Tuy nhiên, nếu trong
tay của một thế lực thù địch đáng kể, Cuba có thể trở thành căn cứ cho việc bóp
nghẹt Hoa Kỳ. Trước thế chiến thứ II, khi có dư luận ồn ào về ảnh hưởng của Đức
ở Cuba, Hoa Kỳ đã làm tất cả những gì có thể để đảm bảo sự vuơn lên của cựu
lãnh đạo Cuba, Fulgencio Batista, được coi như là một đồng minh hay con rối của
HK, tùy thuộc vào cách nhìn của mỗi nguời. Nhưng điều then chốt là: Bất cứ khi
nào có một thế lực lớn của nước ngoài quan tâm đến Cuba, thì Hoa Kỳ luôn phản
ứng, điều này đã có hiệu quả cho đến khi Castro nắm quyền vào năm 1959.
Ảnh hưởng của Liên Xô
Nếu Liên Xô muốn tìm kiếm một điểm duy nhất mà từ đó họ có thể
đe dọa lợi ích của HK, họ sẽ thấy không có nơi nào hấp dẫn hơn Cuba. Vì vậy,
cho nên dù Fidel Castro có là cộng sản hay không trước khi nắm chính quyền, thì
cuối cùng ông ta cũng sẽ trở thành một đồng minh cộng sản của Liên Xô. Tôi nghi
rằng ông ta đã trở thành cộng sản những năm trước khi ông lên nắm quyền nhưng
đã khôn ngoan che giấu, vì biết rằng nếu công khai nói mình là nhà cai trị theo
cộng sản ở Cuba, thì sẽ làm sống lại những nỗi sợ hãi cũ của HK.
Cũng có thể,
ông không phải là nguời cộng sản, nhưng quay sang Liên Xô vì sợ hãi sự can
thiệp của HK. Hoa Kỳ, do không thể đọc được là cuộc cách mạng đang xảy ra, đã
máy móc đi theo hướng gia tăng sự kiểm soát. Castro, dù như một người cộng sản,
hay một nhà cải cách ruộng đất, hay bất cứ ông ta là gì, đều cần một đồng minh
để chống lại sự can thiệp của HK. Cho dù sự sắp xếp đã được lên kế hoạch từ
nhiều năm, như tôi nghi ngờ, hay do một cú đẩy đột ngột, Liên Xô đã nhìn thấy
nó như là một cuộc hôn nhân được thực hiện ở thiên đàng.
Cho dù Liên Xô không bao giờ đặt vũ khí hạt nhân ở Cuba, Hoa Kỳ
vẫn sẽ phản đối một đồng minh của Liên Xô nắm quyền kiểm soát ở Cuba trong
Chiến Tranh Lạnh. Điều này đã được in khằng trong địa chính trị của HK. Nhưng
Liên Xô đã đặt tên lửa ở đó, đây cũng là điều cần nên đề cập đến.
Lực lượng không quân Liên Xô thiếu các máy bay chiến luợc ném
bom tầm xa. Trong Thế chiến thứ II, họ đã tập trung vào máy bay tầm ngắn, lực
luợng không quân của họ để yểm trợ các hoạt động trên mặt đất. Hoa Kỳ, vì đương
đầu với cả Đức và Nhật Bản từ trên không ở tầm xa, cho nên có rất nhiều kinh
nghiệm với máy bay ném bom tầm xa. Do đó, trong những năm 1950s, máy bay HK có
căn cứ ở Châu Âu, và kế đến, với B-52 ở lục địa Hoa Kỳ, đều có thể tấn công
Liên Xô bằng vũ khí hạt nhân. Liên Xô, thiếu một đội ngũ máy bay ném bom tầm
xa, không thể trả đũa Hoa Kỳ. Cán cân quyền lực hoàn toàn nghiêng về phía Hoa
Kỳ.
Liên Xô lập kế hoạch nhảy vọt vuợt qua sự khó khăn trong việc
xây dựng đội máy bay ném bom có người lái, bằng cách di chuyển các tên lửa
đạn đạo liên lục địa. Đầu những năm 1960s, các thiết kế tên lửa đã tiến nhanh,
nhưng triển khai sử dụng thì chưa. Liên Xô không thể ngăn chặn hiệu quả một
cuộc tấn công hạt nhân của HK, ngoại trừ hạm đội tàu ngầm vẫn còn kém phát
triển của họ. Bầu không khí giữa Hoa Kỳ và Liên Xô chứa nhiều nọc độc, và
Moscow không thể giả định rằng Washington sẽ không sử dụng cửa sổ cơ hội đang bị
thu hẹp để tấn công một cách an toàn chống Liên Xô.
Liên Xô có tên lửa đạn đạo tầm trung hiệu quả. Mặc dù nó không
thể bắn tới Hoa Kỳ từ Liên Xô, nhưng nó có thể bắn tới hầu như tất cả các nơi
nào của Hoa Kỳ từ Cuba. Người Nga chỉ cần mua thêm chút thời gian cần thiết để
triển khai lực lượng tên lửa đạn đạo liên lục địa khổng lồ và lực luợng tàu
ngầm. Cuba là một nơi hoàn hảo để triển khai từ đó. Nếu thành công, Liên Xô có
thể đóng lại cửa sổ cơ hội của HK bằng cách đặt một lực lượng răn đe ở Cuba. Họ
đã bị khám phá trước khi họ có thể sẵn sàng. Hoa Kỳ đe dọa chiếm đóng, và Liên
Xô nghĩ rằng người Mỹ cũng đang đe dọa một cuộc tấn công hạt nhân áp đảo vào
Liên Xô. Họ đã phải lùi bước. Như đã được biết, Hoa Kỳ không dự định cho một
cuộc tấn công như vậy, nhưng Liên Xô không thể biết được điều đó.
Cuba đã khằng lên tâm lý chiến lược của Mỹ qua hai lớp. Tự nó,
nó không bao giờ là một mối đe dọa. Dưới sự điều khiển của một lực lượng hải
quân nước ngoài, nó có thể bóp nghẹt Hoa Kỳ. Sau khi Liên Xô cố gắng triển khai
tên lửa đạn đạo tầm trung, nó tạo ra thêm một lớp mới, đó là Cuba trở thành mối
đe dọa tiềm năng cho lục địa HK, tương tự như các tuyến đường thương mại. Các
thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Liên Xô bao gồm việc đảm bảo là HK không xâm chiếm
Cuba, và Liên Xô không lập căn cứ vũ khí hạt nhân ở đó. Nhưng Cuba vẫn là một
vấn nạn đối với Hoa Kỳ. Nếu có một cuộc chiến tranh ở châu Âu, Cuba sẽ là một
căn cứ để đe doạ sự kiểm soát của HK ở Caribbean, và cùng với nó, là khả năng
của HK để vận chuyển tàu từ hạm đội Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương. Áp lực
của Hoa Kỳ không bao giờ thuyên giảm cho Cuba, Liên Xô sử dụng nó như là một
căn cứ cho nhiều thứ, trừ vũ khí hạt nhân (ta cho là như vậy), và chế độ Castro
bám vào Liên Xô để có được an ninh, trong khi hỗ trợ các cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc, như thuờng được gọi, ở châu Mỹ Latin và châu Phi, nhằm phục vụ
lợi ích chiến lược của Liên Xô.
Cuba hậu Liên Xô
Với sự sụp đổ của Liên Xô, Castro bị mất nơi nương tựa và bảo
đảm chiến lược. Mặt khác, Cuba không còn là mối đe dọa cho Hoa Kỳ. Có một sự
thỏa hiệp ngầm. Vì Cuba đã không còn là một mối đe dọa đối với Hoa Kỳ, nhưng
trên lý thuyết vẫn là có thể, cho nên Washington sẽ không chấm dứt sự thù địch
đối với Havana nhưng sẽ không tích cực cố gắng lật đổ. Về phần mình, chính
quyền Cuba hứa sẽ không làm những gì, mà thực ra nó cũng không thể có khả năng
làm: trở thành một mối đe dọa chiến lược cho Hoa Kỳ. Cuba vẫn là mối phiền toái
giống như Venezuela, nhưng mối phiền toái không phải là đe dọa chiến lược. Do
vậy, mối quan hệ vẫn lạnh.
Kể từ khi mua Louisiana, Cuba là mối đe dọa tiềm năng cho Hoa Kỳ
khi nó bị kiểm soát hay nó liên kết với một cường quốc châu Âu. Vì vậy, Hoa Kỳ
không ngừng cố gắng định hình các chính sách của Cuba, và do đó, lên chính trị
nội bộ của Cuba. Mục tiêu của Fidel Castro là chấm dứt sự ảnh hưởng của HK,
nhưng ông chỉ có thể đạt được điều đó bằng cách nối kết với một cường quốc:
Liên Xô. Cuba độc lập từ Hoa Kỳ đòi hỏi nó phải lệ thuộc vào Liên Xô. Và rằng,
giống như tất cả các mối quan hệ, nó phải trả bằng một cái giá.
Việc trao đổi tù nhân là thú vị. Việc mở đại sứ quán là quan
trọng. Nhưng câu hỏi lớn vẫn chưa được trả lời. Ở thời điểm này, không có quyền
lực lớn khai thác vị trí địa lý của Cuba (bao gồm cả Trung Quốc, cho hiện tại).
Vì vậy, không có các vấn đề quan trọng. Nhưng không ai biết được tương lai.
Cuba muốn duy trì chế độ và tìm cách giải tỏa áp lực từ Hoa Kỳ. Tại thời điểm
này, Cuba thực sự không quan trọng. Nhưng khi thời gian đi qua, không ai có thể
đảm bảo rằng nó sẽ không trở nên quan trọng. Cho nên, chính sách của HK nhấn
mạnh vào sự thay đổi chế độ trước khi giải tỏa áp lực. Với việc Cuba quyết định
duy trì chế độ, thì Cuba có gì để cho? Họ có thể hứa trung lập vĩnh viễn, nhưng
cam kết như vậy không có giá trị nhiều.
Cuba cần quan hệ tốt hơn với Hoa Kỳ, đặc biệt là nếu chính quyền
Venezuela sụp đổ. Với nền kinh tế nghèo nàn của Venezuela thì có thể, về mặt lý
thuyết, Cuba buộc phải thay đổi chế độ do từ áp lực nội bộ. Hơn nữa, Raul Cátro
đã già và Fidel Cátro đã rất già. Nếu chính quyền Cuba cần phải duy trì, nó
phải được bảo đảm ngay từ bây giờ, bởi vì hiện giờ không được rõ là những gì sẽ
nối tiếp khi hậu Castros. Nhưng Hoa Kỳ có yếu tố thời gian, và mối quan tâm về
Cuba là một phần trong DNA của HK. Không có sự lo lắng trong hiện tại, thì duy
trì áp lực là điều không có ý nghĩa. Nhưng Washington cũng không có sự khẩn cấp
để chấm dứt nó cho Havana. Obama có thể muốn có một di sản, nhưng logic của
tình hình là Cuba cần điều này hơn HK, và cái giá của HK cho việc bình thường
sẽ cao hơn khi nó xuất hiện ở thời điểm này, cho dù được thiết lập bởi Obama
hay người kế nhiệm ông.
Chúng ta đang vẫn còn xa để giải quyết một tranh chấp chiến lược
bắt nguồn từ vị trí của Cuba, và sự kiện là vị trí của nó có thể đe dọa lợi ích
của HK. Cho nên, động thái cởi mở chỉ là động thái cởi mở. Con đường vẫn còn
rất dài trong vấn đề này.
George Friedman
Lê Minh Nguyên dịch
VRNs (16.12.2014) – Hơn 10 tổ chức
Xã hội dân sự (XHDS) Việt Nam đã tổ chức kỷ niệm 66 năm Ngày Nhân Quyền (NNQ),
tại DCCT Sài Gòn, từ 09 giờ đến 13 giờ 30, hôm qua, 15.12.2014.
Hòa thượng Thích
Không Tánh, Viện phó điều hành Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo VNTN cho biết lý do
NNQ được toàn thế giới kỷ niệm vào ngày 10.12, nhưng các XHDS ở VN chỉ có thể
tổ chức vào ngày 15.12 là do công an canh, và ngăn cản không cho các thành viên
lãnh đạo và đại diện các tổ chức đến gặp nhau.
Mục sư Nguyễn Mạnh
Hùng, quản nhiệm Hội thánh Chuồng Bò, thuộc Giáo hội Mennonite Độc lập cho biết
việc các XHDS quy tụ ngày hôm nay khẳng định quyền tự do hội họp của công dân,
không ai có quyền ngăn cản. Mục sư Hùng cũng là người điều hợp buổi họp mặt kỷ
niệm này.
Tham dự buổi kỷ niệm
này có các tổ chức: Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo VNTN, Phật giáo Hòa Hảo, Tin
Lành Mennonite, Hội đồng Liên tôn VN, Văn phòng Công lý hòa bình DCCT, Hội phụ
nữ nhân quyền, Con đường Việt Nam, Hội cựu tù nhân lương tâm, Hội nhà báo độc
lập, Hội anh em dân chủ, Hội bảo vệ quyền tự do tôn giáo, Diễn đàn UPR, Mạng
lưới blogger VN, Hội Bạch Đằng Giang, Lao Động Việt, Liên hiệp dân oan, CLB Lê
Hiếu Đằng.
Đại diện các XHDS tham
gia kỷ niệm lần 66, Ngày Quốc tế nhân quyền
Phát biểu mở đầu, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, đồng chủ tịch Hội cựu tù
nhân lương tâm cho biết, ngày 10.12 vừa qua, lần đầu tiên các XHDS đã gởi đến
đồng bào quốc nội và hải ngoại thông điệp đầu
tiên nhân NNQ.Thông điệp này tức khắc
được ủng hộ không chỉ cộng đồng người Việt khắp nơi, mà cả các hệ thống truyền
thông quốc tế.
Trong lời phát biểu, bác sĩ Quế nhắc lại sự kiện ngày 10.12.1948,
khi Công ước quốc tế về nhân quyền được thông qua, thì công dân các nước trên
thế giới được sống các quyền tự do của mình, nhưng đau buồn thay, 1/2 dân cư
của thế giới thuộc về các nước cộng sản lại bị vi phạm nhân quyền cách nghiêm
trọng. Các nước cộng sản dần dần đã sụp hết, đến nay chỉ còn Trung Quốc, Việt
Nam, Bắc Hàn, Cuba và Lào. Dự báo thời gian tồn tại cũng không còn lâu.
Bác sĩ Quế xúc động về các bạn trẻ dân thân cho hoạt động xã hội
trong những năm gần đây, đặc biệt là hoạt động phổ biến Công ước quốc tế về
Nhân Quyền của Con Đường VN và các tổ chức khác. Có hàng trăm ngàn bản Công ước
được in dưới nhiều hình thức khác nhau được gởi đến mọi người ở mọi nơi, từ bến
xe đến đồn công an, từ công viên đến quán cà phê, từ phố chợ đến trước cổng tòa
án nhân dân. Việc khởi động phong trào “Chúng tôi muốn biết” của Mạng lưới
blogger gây chú ý mạnh mẻ toàn xã hội, việc ra đời các tổ chức Hội cựu tù nhân
lương tâm, Hội nhà bao độc lập Việt Nam đã thực sự là một khẳng định về quyền
công dân.
Bác sĩ Nguyễn Đan Quế
trình bày.
Ngay sau đó, cha
Giuse Đinh Hữu Thọai, Trưởng văn phòng Công lý hòa bình trình bày sơ lược về
họat động. Theo đó, từ tháng 05.2011, Tu viện DCCT Sài Gòn quyết định mỗi Chúa
nhật cuối tháng lúc 20 giờ, sẽ có thánh lễ cầu nguyện cho công lý và hòa bình.
Ban đầu dân thập phương đến cầu nguyện, dần dần nhu cầu của dân oan cần trợ
giúp pháp lý, nên tháng 04.2013, Phòng công lý và hòa bình được thành lập để hỗ
trợ pháp lý cho dân oan. Hiện có hơn 700 hồ sơ, trong đó 90% là liên quan đến
đất đai. Hiện nay, Phòng công lý hòa bình kế thừa các hoạt động của Hòa thượng
Thích Không Tánh, Chùa Liên Trì để tổ chức các hoạt động tri ân cho quý ông
thương phế binh (TPB) VNCH. Năm nay chương trình mở rộng thêm hoạt động chăm
sóc sức khỏe cho các công TPB, mổ mắt, làm kính, tặng xe lăn xe lắc, mua bảo
hiểm y tế … Hiện có khoảng 1000 hồ sơ TPB.
cha Đinh Hữu Thoại giới
thiệu hoạt động Văn phòng công lý và hòa bình
Góp vui trong ngày kỷ niệm nay, luật sư Nguyễn Văn Đài, Hội anh em
dân chủ từ Hà Nội qua đại diện ở Sài Gòn gởi tặng các tham dự viên mỗi người
một chiếc áo thun có in logo của NNQ và nhấn mạnh “Phán đối bạo lực, sách nhiễu
người dân”. Mục sư Hùng và mục sư Du (cũng thuộc HT Chuồng Bò) trao tận tay các
tham dự viên món quà dễ thương này.
Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng,
điều hợp viên buổi họp giới thiệu áo của Hội anh em dân chủ tặng.
Sau đó thạc sĩ Phạm Bá Hải, điều phối viên của Hội cựu tù nhân
lương tâm trình bày hoạt động của Hội trong năm qua và hướng đi của năm 2015.
Nguyên tắc chung của Hội là “Thả tất cả tù nhân lương tâm và thúc đẩy phát
triển các tổ chức XHDS”. Ông Hải cũng cho biết đã có rất nhiều hoạt động cụ thể
như lên tiếng phản đối chính sách sai trái, ủng hộ tù nhân lương tâm, gởi báo
cáo về chống tra tấn, … thăm viếng các cựu tù nhân và thân nhân. Nhìn chung,
các hoạt động đã qua, và năm sắp tới vẫn hướng đến những hoạt động nhằm đòi
quyền cư xử nhân đạo trong các nhà tù, quyền tự do lập hội, quyền tự do hội
họp, quyền tự do đi lại, quyền an toàn thân thể.
Kế tiếp linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, DCCT trình bày đôi nét về
Hội đồng liên tôn VN và Hội bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Theo đó, Hội đồng liên
tôn VN hiện nay là “phiên bản thứ ba”. Phiên bản một đã có từ thời các bậc khai
đạo Cao Đài và Hòa Hảo, nhưng không thành. Phiên bản hai vào thập niên 90 thế
kỷ 20 với Đại lão Hòa thượng Thích Quãng Độ, Cụ hội trưởng Lê Quang Liêm, Linh
mục Chân Tín và một vài vị khác, nhưng do nhiều lý do và ngăn trở, nên cũng
không duy trì được.
Hội đồng liên tôn VN hiện nay khởi đầu từ giữa năm 2012 tại
Chùa Liên Trì, do Hòa thượng Thích Không Tánh chủ động mời đại diện các chức
sắc tôn giáo cùng tham gia các buổi cầu nguyện và phát quà cho các cháu bệnh
nhân ung thư và các ông thương phế binh. Sau vài lần, các hoạt động này bị công
an quốc hai đánh phá, gây khó khăn, ngăn chặn. Các chức sắc vào cuối năm 2012
về DCCT và chính thức thành lập Hội đồng liên tôn. Hội đồng liên tôn có Ban
lãnh đạo gồm 5 vị đồng chủ tịch của năm tôn giáo, do các chức sắc cùng tôn giáo
thành viên hội đồng bầu lên. Thường trực có vị điều phối viên và vị phụ tá là
tổng thư ký. Hội đồng liên tôn đã lên tiếng nhiều vấn đề liên quan đến tự do
tôn giáo, cũng như về an nguy của tổ quốc. Trong năm qua, Hội đồng liên tôn VN
được chỉ định là nơi chính thức để đặc phái viên tư do tôn giáo Liên Hiệp Quốc
đến làm việc. Báo cáo sơ bộ của vị đặc phái viên, ông Heiner Bielefeldt,
trước khi rời VN đã phản ánh nhiều nội dung đã được trao đổi với Hội đồng liên
tôn. Hiện nay, Hội đồng liên tôn đang chuẩn bị kêu gọi các XHDS và cộng đồng
cùng lên tiếng kêu gọi hủy bỏ bản án tử hình, vì án tử hình mà oan sai là không
cách nào sửa được nữa.
Về Hội bảo vệ tự do tôn giáo, cha Thanh cho biết, Hội này đã được
lập từ đầu năm 2014. Hội hiện nay đang triển khai hai dự án: (1) Báo cáo những
vi phạm tự do tôn giáo của các cơ quan thuộc chính phủ mỗi ba tháng. báo cáo
này được chuyển trực tiếp tới Văn phòng cao ủy nhân quyền LHQ tại Bangkok, Thái
Lan. (2) Bảo vệ quyền thực hành tôn giáo trong quân ngũ. Những chí bộ độ là
những công dân ưu tú, là những người đang trực tiếp và sẵn sàng hy sinh xương
máu và mạng sống để bảo vệ tổ quốc, họ đáng được ứu đãi hơn hết mọi người. Tuy
nhiện hiện nay, khi đi nghĩa vụ quân sự, các công dân đó bị tước đi quyền thực
hành tôn giáo. Họ chỉ được thực hành cách âm thầm và riêng tư, thậm chí, nhiều
quân nhân phải trốn trại lính để đi lễ ngày Chúa nhật, sau đó bị kỷ luật. Hiến
pháp đều 24 quy định công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự do theo
hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo. Nhưng nhiều công dân theo tôn giáo đi vào
bộ đội đã không được thực hành tôn giáo. Việc chăm sóc đời sống tôn giáo cho
quân nhân là một yếu tố qaun trọng giúp xây dựng một quân đội mạnh. Các nước có
quân đội mạnh trên thế giới luôn chăm sóc tốt đời sống tôn giáo cho quân nhân.
Cha Thanh cho một ví dụ cụ thể. Một tân binh ra trận, lần đầu tiên
bắn chết một người của phía bên kia. Anh ta sẽ gặp hniều bối rối và hoảng loạn,
vì dù sao đó cũng là hành vi giết người. Nếu những xáo trộn từ tâm lý xoáy sâu
vào tâm linh đó không được giải quyết thì sẽ tạo ra một quân đội có những người
lính bất quân bình, và là một quân đôi không an toàn. Hiện nay các văn thư liên
quan đến vấn đề này đã được gởi đến các vị đứng đầu quốc gia Việt Nam và các
quân khu.
Cha Thanh trình bày các
vấn đề về Hội bảo vệ quyền tự do tôn giáo
Ngoài ra cha Thanh cũng đánh giá cao các XHDS Việt Nam và đề nghị
các XHDS chú ý đến điểm mấu chốt của XHDS là ví cộng đồng và nhờ cộng đồng.
Ngoài những người lãnh đạo, người điều phối hoạt động, cần phải có những người
làm việc vận động cộng đồng. Đây là một vấn đề quan trọng bậc nhất trong lúc
này.
Tiếp theo, Hòa thượng Thích Không Tánh trình bày về các hoạt động
xã hội của Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo VNTN. Hòa thượng cũng lên án chính sách
cố tình xoá tôn giáo bằng cách lập ra các tôn giáo quốc doanh. Thầy cho
một minh họa đau lòng là tại Bà Rịa,người ta cho xe ủi cổng chùa để xây lại
cổng ấp văn hóa. Các nhà sư ra can ngăn thì bị đánh nhừ đòn.
Hòa thượng Thích Không
Tánh trình bày về Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo VNTN
Kế đó, tiến sĩ Phạm Chí Dũng trình bày về Hội nhà báo độc lâp. Ông
cho biết số người truy cập vào website của hội hàng ngày từ 50 đến 55 ngàn, và
sẽ phấn đấu được 100 ngàn vào năm tới. Dứ báo về năm 2015, liệu những người
hoạt động xã hội sẽ bị bắt nhiều, bầu khi tự do sẽ thế nào? Tiến sĩ Dũng cho
biết 50-50, nhưng có chút hy vọng, như là xu thế bắt buộc.
Ts. Phạm Chí Dũng trình
bày về Hội nhà báo độc lập VN
Sau đó, mục sư Nguyễn Mạnh Hùng trình bày về những bách hại tôn
giáo xảy ra tại Bình Dương cho Tin Lành Mennonite độc lập như truyền thông đã
liên tục đưa tin.
Sau đó anh Hoảng Dũng trình bày về các hoạt động quảng bá Công ước
quốc tế về nhân quyền. Đặc biệt, hai tháng qua, Phong trào Con đường VN đã phát
hành báo giấy qua Bản tin MỞ. Đây là hoạt động phối hợp với website Dân Luận.
Anh Hoàng Dũng trình bày
về Nhân Quyền
Các tổ chức và cá nhân tiếp tục được mời trao đổi những suy nghĩ
và kế họach hoạt động của năm 2014 và 2015.
Các thành viên tham dự
đến giờ cuối
PV. VRNs
Nguồn ảnh: Các Facebooker tham gia lễ kỷ niệm
No comments:
Post a Comment
Thanks