BÀI
HỌC LỊCH SỬ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA DÂN CHỦ
Tô Văn Trường
Lịch sử Việt Nam, các
triều đại đều khởi đầu rất huy hoàng nhưng vì cơ chế chọn người kế vị bó hẹp
trong dòng tộc, con trưởng mà càng ngày người kế vị càng kém tài, bạc đức,
không giữ nổi cơ đồ. Trong khoa
sinh học (biology) có một thực tế về thế hệ F1 là thượng thặng, các F càng về
sau … càng tồi mà quy luật này không chỉ riêng ở lịch sử Việt Nam mà là
lịch sử nhân loại.
Các triều đại, dù khởi
đầu có công với nước thế nào mà về sau không được lòng dân thì cũng sụp, cũng
làm mồi cho giặc ngoại xâm. Chỉ có dân chủ mới chọn được người tài. Có người
tài, đất nước mới phát triển và như vậy mới bảo vệ được chủ quyền, lãnh thổ.
Nhìn lại lịch sử nước
nhà
Thời Lý thịnh vượng,
trước hết là nhờ dời đô để cắt đứt với quá khứ loạn sứ quân và tàn dư các triều
trước giành ăn, giết nhau. Đất Hoa Lư hẹp là tất nhiên nhưng rất phù hợp cho
phòng thủ mà một Vua mới lúc đầu đăng quang rất cần. Phải thấy tầm của Lý Công
Uẩn dám vượt lên chính mình để qua mặt các triều trước ở tầm nhìn này. Thời Lý
thịnh còn vì khách quan là nhà Tống luôn dòm ngó, Vua tôi sợ bị yếu mà không
dám bất hòa tranh ăn (chủ quan). Cái chủ quan nữa là các hoàng tử không được
vào ở trong cung mà ở ngoài trại lính.
Ta thấy cái công thức:
Vua+tôi+thần dân = Quốc gia và dân tộc, mà sau này Trần Quốc Tuấn và Nguyễn
Trãi đã vận dụng để dạy Vua, dạy quan.
Thời Trần thịnh trị
cũng là do khách quan là Tàu rất mạnh, hung hăng và liên tục (3 lần) giặc
Nguyên – Mông xâm lăng, các hoàng thân quốc thích đều phải cầm quân (các liệt
sĩ có danh tiếng, phần lớn đều là họ Trần). Hịch tướng sĩ và di chúc của Trần
Hưng Đạo là tinh hoa Đại Việt, là lời Thánh nhân dạy trị quốc. Lại thêm Thượng
Hoàng Nhân Tông có những lời vàng ngọc như đấng từ bi dạy các vua con, vua cháu
phải thương dân mà tích đức chớ không tích chức, tích của.
Cái tệ của nhà Trần là
do Trần Thủ Độ sợ hậu họa, cho phép dòng họ lấy nhau, thành ra đồng huyết, đây
mới đúng là quả báo! Thủ Độ tiệt dòng nhà Lý mấy trăm nhân mạng dưới hầm có
ngụy trang thì Hồ Quý Ly sau đó cũng thiêu chết từng ấy nhân mạng họ Trần trong
hang đá. Về điểm “nhân quả” như vậy, lịch sử thế giới có nhiều minh họa từ một
chế độ đến một nhóm và nhất là cá nhân cụ thể: “Gieo gì gặt nấy”
không ai thoát! Không phải duy tâm mà là biện chứng!
Cái dở của nhà Lê là
do hoàn cảnh nhà Minh suy, họa xâm lăng giảm thì vua, quan lại tranh nhau hưởng
thụ và vì tranh nhau mà tàn sát nhau. Cái máu của “văn minh lúa nước” có thời
phát huy cái mặt tiêu cực của nó: “Kinh tế tiểu nông, trí nông, dạ thâm” là
nguyên nhân của sự suy đồi ở triều Lê là một điển hình, cho dù Lê Thánh Tôn là
bậc minh quân nhưng vẫn không cứu nổi cơ đồ nhà Lê thoát cái họa trầm luân là
tranh ăn, tham nhũng kéo dài nhất trong lịch sử.
Nhà Lý và nhà Trần tồn
tại khoảng 400 năm với nền độc lập Đại Việt, riêng nhà Lê tồn tại tương đương
hai triều trước cộng lại (1428 – 1788) nhưng chỉ có 101 năm (từ 1428 – 1527) và
chỉ có 2/10 Vua là khai quốc, minh quân: Thái Tổ và Thánh Tông khá ổn định
trong 43 năm.
Thời gian còn lại thì Lê triều nhưng các Vua Mạc và các Chúa:
Trịnh-Nguyễn đánh nhau tơi bời, dân tình khổ sở, lầm than suốt 200 năm! Thời
gian ấy quốc gia không được chấn hưng, biên cương bờ cõi cũng không mở ra. Đó
là do nhà Minh suy yếu, còn về chủ quan là cơ hội phát triển các chứng bệnh có
chung cái căn bệnh truyền đời là cá nhân ích kỷ và thiển cận trong bộ phận tinh
hoa đất nước (Vua, quan và sĩ phu – Trí thức) dưới triều Lê. Phải nhờ sự bất
hòa trong gia đình Nguyễn – Trịnh mà khơi nguồn cảm hứng cho cuộc “hành phương
Nam” 1588 – 1802 khi Gia Long thống nhất đất nước lên ngôi.
Nhà Nguyễn và các Chúa
Nguyễn như ta đã biết, lãnh thổ rộng gấp đôi, vươn ra tận Bãi Cát Vàng (Hoàng
Sa) và Vạn Lý Trường Sa (Trường Sa) mà nay Trung Quốc tham lam bành chướng đang
dùng bản đồ đường lưỡi bò liếm lấy hầu hết biển Đông.
Dân chủ phải bắt nguồn
từ đâu?
Có 2 luồng ý kiến, thứ
nhất dân chủ phải bắt nguồn từ trong đảng. Luồng ý kiến thứ hai, trước hết là
đảng phải dân chủ với xã hội vì đảng đang nắm quyền, và là độc quyền.
Trong phạm vi bài viết
này, tôi muốn phân tích cụ thể Quy chế bầu cử trong Đảng theo quyết định
244-QĐ-TW ngày 09/6/2014 do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký, trong đó có quy
định cụ thể:
Điều 13. Việc ứng cử,
đề cử của cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban
Bí thư.
1- Cấp ủy viên cấp
triệu tập đại hội không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do cấp ủy đề cử;
không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của cấp
ủy.
2- Ở các hội nghị của
ban chấp hành, ủy viên ban thường vụ không được đề cử nhân sự ngoài danh sách
do ban thường vụ cấp ủy đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên
trong danh sách đề cử của ban thường vụ cấp ủy.
3- Ở các hội nghị của
Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư
không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do Bộ Chính trị đề cử; không được ứng
cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị.
Nhiều đảng viên mong
muốn thực hành dân chủ trong Đảng, đặc biệt là trong việc lựa chọn nhân sự
trong Đại hội 12, tránh tiếp tục đi theo đường mòn của nhiều đại hội trước,
không có dân chủ thực chất, trên thực tế chỉ là sự sắp đặt của khóa trước cho
nhân sự khóa sau với sự chi phối của một số ít người có quyền. Vì thế các kỳ
Đại hội không nâng cao được chất lượng cán bộ lãnh đạo mà ngược lại thường dẫn
tới tình trạng nhân sự lãnh đạo khóa sau kém hơn khóa trước.
Quy chế bầu cử số
244-QĐ-TW ngày 09/6/2014 có những bất cập, vi phạm Điều lệ Đảng như quyền bảo
lưu ý kiến của đảng viên theo quy định trong Điều lệ Đảng đã bị tước bỏ trong
Quy chế bầu cử và nguyên tắc dân chủ, bình đẳng trong bầu cử. Quy chế nói trên
cũng mâu thuẫn với Điều lệ hiện hành nêu rõ ở khoản 2 Điều 9: “Cơ quan lãnh
đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp
là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên” và ở khoản 3 Điều 12:
“Danh sách bầu cử do đại hội thảo luận và biểu quyết thông qua” v.v…
Ngay từ năm 2005, khi
bàn về quy chế bầu cử chuẩn bị cho Đại hội X của Đảng, ông Võ Văn Kiệt đã gửi
thư đến Bộ Chính trị nêu rõ quan điểm:
“Bầu cử phải được
tiến hành theo nguyên tắc tự do ứng cử, nguyên tắc tự do đề cử, nguyên tắc bỏ
phiếu kín, để thực sự bảo đảm dân chủ và lựa chọn được những đảng viên có phẩm
chất và năng lực xứng đáng nhất cho việc đảm đương các nhiệm vụ của Đảng. Bầu
cử theo nguyên tắc đa số, không nên vì e ngại số phiếu bầu có thể phân tán mà
giới hạn số lượng ứng cử và đề cử so với số người quy định được bầu. Để thưc sự
phát huy dân chủ ở mức cao nhất, động viên ý chí và nâng cao tính Đảng của từng
Đảng viên tham gia gánh vác công việc Đảng, nên khuyến khích tự do ứng cử, chấp
nhận việc đề cử cả đảng viên không phải là đại biểu của Đại hội. Đồng thời
khuyến khích người đề cử hay người ứng cử trình bầy những ý kiến, suy nghĩ, dự
kiến chương trình hành động của mình nếu trúng cử để Đại hội có cơ sở cân
nhắc”.
Nhiều vị lãnh đạo ở
Việt Nam đã học ở Nga, chắc phải biết khái niệm “tập trung dân chủ” mà V.I.
Lenin dùng trong các công trình của mình bằng tiếng Nga là “Демократический
Центранлизм” cần phải được dịch/hiểu là sự tập trung có dân chủ, tức “dân chủ”
là tính từ,”tập trung” là danh từ, có nghĩa phải dân chủ trước và tập trung
sau. Cái gọi là nguyên tắc “tập trung dân chủ” hay thường được một số người
dùng là “dân chủ có tập trung” thì nếu dịch sang tiếng mẹ đẻ của V.I. Lenin là
“Централизированная Демократия” tức “tập trung” là tính từ, còn “dân chủ” là
danh từ (tập trung trước, dân chủ sau) thì khái niệm này không hề có trong các
tuyển tập của V.I. Lenin.
Rất tiếc, chúng ta cứ
nói như vẹt là “học trò của Lenin”, nhưng, “trò” lại không hiểu “thày”, cứ cố ý
làm sai học thuyết của thày mấy chục năm rồi. Có lẽ Học viện chính trị Nguyễn
Ái Quốc nên cho hội thảo về việc dịch từ tiếng Nga sang tiếng Việt khái niệm
này để hiểu và làm cho đúng ý của V.I. Lenin, tránh việc “cưỡng từ, đoạt ý”
ngược chiều với xu hướng dân chủ trên thế giới hiện nay là quyền đề cử và ứng
cử của công dân.
Ngày nay, chúng ta
càng cần phải hiểu đúng phạm trù “tập trung dân chủ”. Nó là 1 chứ không phải 2.
Dân chủ là phương thức phải làm để đi đến quyết định tập trung. Hồ Chí Minh trong
thời kỳ khó khăn cũng tranh thủ mọi nơi, mọi lúc thu lượm ý kiến một cách dân
chủ (cả trong và ngoài Đảng) để có quyết định đúng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp
được giao “Tướng quân tại ngoại”, một mình ông có quyền như vậy mà trước khi
đưa ra quyết định rất khó khăn là kéo pháo ra ở Điện Biên phủ, ông cũng tham
khảo rất dân chủ, nên các tướng tá khác mới nói ra sự thật, làm căn cứ cho Võ
Đại tướng ra một quyết định lịch sử.
Nhiều đảng viên tâm
huyết với vận nước vẫn tin rằng quyền cao nhất là Đại hội Đảng các cấp, đặc
biệt ở Đại hội Đảng khóa 12, các đại biểu có tâm và tầm sẽ thể hiện chính kiến
của mình.
Thay cho lời kết
Nguy cơ đáng sợ đối
với Việt Nam là trước đây, phong kiến Trung Quốc mưu thôn tính nước ta bằng vó
ngựa, lưỡi gươm cắm xuống đất. Nay họ xâm lăng bằng kinh tế, thể chế, tư tưởng
và văn hóa, hậu họa càng khó lường.
Một gia tài ông
Washington và các thế hệ lãnh đạo kế tiếp để lại cho nước Mỹ mà người đời cho
là vô giá, đó là thể chế dân chủ mà người dân Hoa kỳ còn giữ vững đến ngày nay.
Người ta nói nước Mỹ có hoàn cảnh lập quốc đặc biệt, cho nên nhà nước phải là
pháp quyền mới có thể là Hợp chủng quốc. Nước Mỹ tuy không phải là thiên đường,
nhưng chắc chắn ngày càng xa địa ngục, vì thể chế của họ đã đặt được tiền đề
thuận lợi rồi.
Hiện tượng không phải là lẻ tẻ của những người dân Mỹ phản đối
chiến tranh Việt Nam, sự kiện động trời của anh Morrison tự thiêu trước Nhà
Trắng, và gần đây nhất, vụ phanh phui CIA xử dụng các biện pháp “nâng cao kết
quả tra khảo phạm nhân bị coi là nguy cơ của an ninh Hoa Kỳ”, trước đó không
lâu là Snowden tố cáo NSA nghe trộm điện thoại và xem trộm các mail của công
dân Mỹ và một số đồng minh, nhìn theo khía cạnh nhân quyền, thuần túy nhân
quyền, đó chính là nền dân chủ Hoa kỳ, nước khác khó theo được.
Việt Nam không có hoàn
cảnh đó, nhưng Việt Nam phải trở thành một nhà nước pháp quyền, dân chủ, biết
được lịch sử, biết được dân trí dân Việt Nam là những điều kiện cần thiết để
biết được cách phù hợp đưa dân ta tiến lên xứng đáng với chế độ pháp quyền.
Nhưng đó chỉ mới là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là bối cảnh trong và ngoài
nước thuận lợi, mà người thức thời phải biết.
T.V.T.
Bắt giữ Bọ Lập là trái với
quy định của pháp luật?
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-12-17
2014-12-17
- In trang này
- Chia
sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Nhà văn cũng là Blogger Nguyễn Quang Lập người điều hành Blog Quê
Choa nổi tiếng.
Courtesy photo
Không có phê chuẩn của Viện Kiểm sát
Dư luận tiếp tục theo
dõi tình trạng của blogger Bọ Lập sau khi anh bị giam giữ quá thời hạn quy định
của pháp luật mà không có phê chuẩn của Viện Kiểm sát. Hơn nữa, việc bắt giữ
khẩn cấp cũng như lý do bắt giữ vì trang blog Quê Choa phát tán tài liệu tuyên
truyền chống nhà nước liệu có phù hợp với luật pháp hay không là điều đang được
giới luật gia chia sẻ.
Sáng ngày 17 tháng 12,
tiếp tục theo chân bà Hồ Thị Hồng vợ của nhà văn Nguyễn Quang Lập vào nhà giam
Phan Đăng Lưu chờ đợi anh được thả sau khi thời hạn 9 ngày giam giữ đã trôi
qua. Bà Hồng cho chúng tôi biết tình trạng hiện thời của anh như sau:
Hồ Thị Hồng: Ngày hôm nay cả mấy mẹ con vào mục đích là muốn biết nếu họ có
bắt giam anh ấy thì cũng phải có quyết định chứ hiện nay mẹ con không biết gì
cả vì anh Lập đã quá ngày tạm giữ rồi. Hôm qua họ bảo với mấy mẹ con là làm một
cái đơn kiến nghị để họ đem lên trình với sếp có gì thì họ sẽ thông báo cho gia
đình sau. Họ nói thế thôi rồi gia đình phải ngồi đợi.
Mặc Lâm: Xin chị cho biết lá đơn xin tại ngoại gia đình đã gửi cho ai
thưa chị?
Hồ Thị Hồng: Dạ gửi cho an ninh cho cơ quan điều tra, cơ quan mà tạm giữ anh
Lập đấy.
Mặc Lâm: Vâng, khi họ tới bắt anh Lập thì họ có trưng ra lệnh của Viện
Kiểm sát hay không?
Hồ Thị Hồng: Dạ không, chỉ có cơ quan an ninh điều tra bắt thôi ạ. Họ có nói
là sau 9 ngày nếu không có tội thì được thả còn nếu có tội thì tạm giam rồi sau
đó sẽ biết việc thăm nom chế độ như thế nào thì sau 9 ngày sẽ thông báo cho gia
đình biết mà đến ngày hôm nay vẫn chưa nhận được gì cả.
Mặc Lâm: Thưa chị gia đình có dự định mời luật sư để bảo vệ quyền lợi của
anh Lập hay không nếu vài ngày tới anh ấy vẫn không được thả?
Dạ trước mắt phải chờ
đã sau khi họ có quyết định tạm giữ anh Lập đã rồi sau đó mới thuê luật sư. Họ
bảo gửi cái đơn ấy và chờ.
-Hồ Thị Hồng
-Hồ Thị Hồng
Hồ Thị Hồng: Dạ trước mắt phải chờ đã sau khi họ có quyết định tạm giữ anh
Lập đã rồi sau đó mới thuê luật sư. Họ bảo gửi cái đơn ấy và chờ. Cái ông điều
tra ông ấy lại bảo ông không có quyền gì, tất cả gia đình phải chờ rồi họ sẽ
thông báo sau. Họ bảo nếu họ sai vì đáng lẽ ra sau 9 ngày thì phải có lệnh
nhưng bây giờ chưa có lệnh gì và nếu gia đình thấy họ sai thì có quyền kiện, họ
thách thức như vậy đấy.
Trong tình hình như
vậy chúng tôi liên lạc với luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên là chủ nhiệm văn
phòng Quốc hội để tìm hiểu thêm về thể thức tạm giữ người cũng như bắt người mà
không có lệnh của Viện Kiểm sát vì trường hợp của nhà văn Nguyễn Quang Lập
không thể gọi là trường hợp nghiêm trọng cần bắt khẩn cấp. Trả lời chúng tôi
luật sư Trần Quốc Thuận cho biết:
LS Trần Quốc Thuận: Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì việc bắt người có
nhiều trường hợp khác nhau. Trường hợp bình thường hay trường hợp bắt khẩn cấp.
Trong trường hợp bắt khẩn cấp thì có những quy định cụ thể thí dụ như bị cáo
đang bị truy nã, bị cáo phạm tội đặc biệt nguy hiểm hay bắt phạm tội quả
tang…họ hay nói chữ “quả tang” để đẩy qua việc bắt khẩn cấp. Khi bắt khẩn cấp
thì thủ tục nó khác. Nếu bắt bình thường thì có sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát,
phải có đại diện của dân phố còn khi bắt khẩn cấp thì không cần sự phê chuẩn
của Viện Kiểm sát hay bắt quả tang còn cái chuyện đang ngồi viết văn mà lại bắt
quả tang thì cũng không biết tại sao nữa (?)
Bắt khẩn cấp là tội
phạm đặc biệt nguy hiểm như giết người cướp của đang bị truy nã nếu không bắt
liền mà chờ phê chuẩn thì nó chạy mất còn gì? Hay nó phi tang như buôn bán á
phiện thì phải bắt khẩn cấp thì không cần phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhưng sau
đó thì phải có sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát.
Mặc Lâm: Thưa luật sư nếu sau 9 ngày mà vẫn không có phê chuẩn của Viện
Kiểm sát nhưng công an vẫn tiếp tục giam giữ bị cáo thì liệu có vi phạm luật tố
tụng hình sự hay không?
LS Trần Quốc Thuận: Trong trường hợp đó họ chỉ có quyền tạm giữ hành chánh trong
vòng 24 tiếng rồi tạm giữ hình sự trong vòng 7 đến 10 ngày sau đó phải báo cáo
cho Viện Kiểm sát mà nếu Viện Kiểm sát không phê chuẩn và tiếp tục giữ người
thì không hợp pháp.
Mặc Lâm: Quay trở lại với việc bắt giữ Bọ Lập, lý do công an đưa ra là
trang blog Quê Choa đã đăng những bài viết tuyên truyền chống phá nhà nước
nhưng người viết ra các bài viết ấy lại hoàn toàn không bị công an điều tra hay
bắt giữ. Luật sư nhận xét điều này ra sao thưa ông?
LS Trần Quốc Thuận: Trường hợp Bọ Lập ai cũng biết trang mạng Quê Choa ấy là công
khai tôi cũng hay vào xem thì tôi thấy Bọ chỉ đăng lại những bài của người khác
người ta đăng. Câu chuyện đặt ra là như thế này khi anh đăng lại những bài mà
người ta gọi là tuyên truyền tán phát tài liệu phản động chống nhà nước gì đó
thì trước tiên anh phải bắt, truy tố mấy người viết bài đó trước. Từ trước giờ
chưa thấy cơ quan nào nói về những cái bài mà nhà nước cho rằng tán phát tài
liệu tuyên truyền cụ thể cả nếu như vậy thì phải công bố những bài ấy cho mọi
người biết và những tiêu chí gì để khẳng định là những bài ấy phản động tuyên
truyền chống phá nhà nước như thế nào.
Hầu hết những bài
Nguyễn Quang Lập đăng trên trang mạng Quê Choa là những bài góp nhặt của những
trang mạng khác hoặc là người ta trực tiếp gửi đến như trang Boxit người ta gửi
đến thì họ đăng. Anh phải trách nhiệm nhắc nhở và những người viết đó mới là
người làm ra, tán phát chuyền đi lúc đó mới cấu thành tội phạm hình sự được,
lúc đó mới phạm tội. Anh bắt tất cả những người viết anh truy tố họ hết đi,
truy tố tất cả những người viết bài, truy tố rồi đem ra xử tập thể luôn….câu
chuyện là ở chỗ đó.
Vừa rồi là ý kiến của
luật sư Trần Quốc Thuận nhận xét lý do mà công an truy tố blogger Bọ Lập là
không phù hợp với bộ luật tố tụng hình sự. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi vụ
bắt giữ này và tường trình khi có những thông tin liên quan.
Trường hợp Nguyễn Quang Lập - từ 258 đến 88: Các thái thú điên
tiết!
Vũ Đông Hà
(Danlambao) -
Nếu ai vẫn còn nghi ngờ về lòng trung thành ăn đời ở kiếp với nhau của
Nguyễn Phú Trọng và các lãnh đạo thái thú của đảng CSVN đối với thiên triều Bắc
Kinh, nếu ai còn phân vân về câu "hèn với giặc ác với dân" áp dụng
cho đảng để tiếp tục bám víu, nuôi dưỡng lòng trung thành mong manh đối với
đảng, thì bản án 88 dọn ra cho nhà văn Nguyễn Quang Lập nên được dùng làm cái
kéo cắt đứt sợi dây trung thành u tối ấy để xác định rằng: đảng cộng sản này
chính là giặc nội xâm và chúng phải ra đi...
*
Vào ngày 10.12.2014 Bộ Công an thả quả bóng lừa đến với
dư luận "Ông Lập khai
nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin được hưởng khoan hồng, sớm được
tại ngoại. Ông Lập cam kết từ bỏ hoạt động vi phạm pháp luật để tập trung vào
lĩnh vực văn học nghệ thuật, phục vụ xã hội."
Sau khi hết hạn 10 ngày tạm giữ hình sự theo
quy định, Điều 258 quy tội nhà văn Nguyễn Quang Lập với tối
đa 3 năm tù đã được nâng cấp lên thành Điều 88 vớitối
đa 20 năm tù. Điều này chứng tỏ Bộ Công an đã thông tin láo:
người lái đò Bọ Lập không xin hưởng khoan hồng cho hành động chở
con thuyền "sự thật" đến với dân của ông. Thế là các quan
thái thú Ba Đình ăn cơm Việt thờ ma Tàu điên tiết gán cho ông tội: tuyên
truyền chống phá nhà nước...
Tàu.
Phải thêm chấm chấm chấm Tàu vì
nhà văn Nguyễn Quang Lập chưa bao giờ tuyên truyền với ai để chống nhà nước
CHXHCNVN.
Phải thêm chấm chấm chấm Tàu vì "nếu" Bọ
Lập tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN thì với bộ máy an ninh từ trên mạng
xuống vỉa hè đã không phải đợi và nhờ đến "quần chúng tố cáo" mới bắt
quả tang người chủ trang blog Quê Choa - một trang blog nổi tiếng với mấy chục
triệu lượt truy cập trong suốt 6 năm qua - làm cái chuyện gọi là "tuyên
truyền chống nhà nước..." Bản cáo trạng của công an trong tương
lai sẽ chứng minh điều viết ở trên. Sẽ có những suy diễn để kết tội nhà văn
Nguyễn Quang Lập được công an lấy từ những bài viết, những đoạn văn đã hiện hữu
nhiều năm tháng trước khi ông Lập bị "bắt quả tang", không những chỉ
trên blog Quê Choa mà còn ở rất nhiều các trang mạng khác.
Phải thêm chấm chấm chấm Tàu vì
trong trường hợp của nhà văn Nguyễn Quang Lập, chỉ khi nào có cái quan niệm
rằng: "tuyên truyền" chống nhà nước Tàu-cộng xâm lược là
chống nhà nước Việt-cộng thì Điều 88 mới thực sự có thể áp dụng
một cách "logic" cho toàn bộ "nội dung tuyên truyền" của
trang blog Quê Choa của ông.
Phải thêm chấm chấm chấm Tàu bởi
vì đệ nhất thái thú ăn cơm quốc gia thờ ma Tàu khựa - Nguyễn Phú Trọng đã khẳng
định chủ trương "Trung thành với Bắc Kinh là điều kiện tiên quyết để
giữ được chế độ." qua lời phát biểu "Tôi đã nhiều lần nói ta với TQ là láng giềng, phải ăn đời
ở kiếp với nhau, xúc đất đổ đi được không? Ta giữ được độc lập chủ quyền, nhưng
cũng phải giữ cho được chế độ, bảo đảm cho được Đảng lãnh đạo, môi trường hòa
bình ổn định để xây dựng, phát triển đất nước, giữ cho được quan hệ hòa hiếu
với các nước, trong đó có TQ".
Nhà văn Nguyễn Quang Lập đã "xúc
phạm" đến lòng-trung-thành-Bắc-Kinh đó của các thái thú. Ông đã không
(biết điều) "khai
nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin được hưởng khoan hồng, sớm được
tại ngoại... cam kết từ bỏ hoạt động vi phạm pháp luật để tập trung vào lĩnh
vực văn học nghệ thuật, phục vụ xã hội" như an ninh đã bắn
tiếng (láo) từ nhà giam ra ngoài hầu mong dư luận và gia đình sau đó có những
phản ứng (theo hướng các thái thú mong muốn) ảnh hưởng và thay đổi thái độ
cương quyết chở con đò sự thật của ông.
Lòng trung thành của tập đoàn bán nước đối với
triều đình Bắc Kinh cũng đã bị xúc phạm và đe dọa nặng nề khi Nguyễn Quang Lập
- một bộ đội tên lửa phòng không, một nhà văn và nhà biên kịch sân khấu, điện
ảnh nổi tiếng đã trở thành đầu mối cho những đảng viên, thành phần phục vụ
trong guồng máy đang muốn "thoát Trung" kết hợp và lan tỏa rộng rãi
trong những nỗ lực ủng hộ ông. Điều này đã thể hiện khi Bộ Công an thả quả lừa
"Nguyễn Quang Lập đã nhận tội và xin khoan hồng" thì Bản Yêu Cầu Trả Tự Do cho Nhà Văn Nguyễn Quang Lập cũng
vẫn được công bố vào ngày Quốc tế Nhân quyền 10 tháng 12; và vào thời điểm các
thái thú Ba Đình quyết định nâng cấp tội danh dành cho Bọ Lập, con số chữ ký đã
hơn 600 người, trong đó có rất nhiều tên tuổi của những người "có công với
cách mạng", có những tác động lên các thành phần đảng viên trong đảng.
Từ 258 sang 88, từ "lợi dụng các
quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, công dân" sang đến "tuyên truyền chống Nhà
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam", từ tối đa 3 năm tù lên đến
20 năm tù, tập đoàn "ta với TQ là láng giềng, phải ăn đời ở kiếp với nhau, xúc đất đổ
đi được không? Ta giữ được độc lập chủ quyền, nhưng cũng phải giữ cho được chế
độ, bảo đảm cho được Đảng lãnh đạo, môi trường hòa bình ổn định để xây dựng,
phát triển đất nước, giữ cho được quan hệ hòa hiếu với các nước, trong đó có TQ" không chỉ nhắm đến một nhà văn lớn tuổi, ốm yếu, bệnh tật.
Họ nhắm đến những thành phần đang ở trong đảng hay chân trong chân ngoài với
đảng. Nếu 3 năm tù có thể chỉ là một giấc ngủ trưa để những thành phần ấy có
thể vượt qua những sợ hãi để nắm tay nhau, cùng với những lực lượng dân chủ
giải quyết đại nạn thù-trong-giặc-ngoài, thì 20 năm tù là một nâng cấp mang
tính răn đe và khủng bố tinh thần những ai đang muốn bước ra khỏi vòng tròn
trung thành với đảng và đặt vấn đề về lòng trung thành ăn đời ở kiếp
với nhau của các quan thái thú Ba Đình đối với triều đình Bắc Kinh.
Nếu ai vẫn còn nghi ngờ về lòng trung thành ăn đời ở kiếp với nhau của Nguyễn Phú Trọng và các lãnh đạo thái thú của đảng CSVN đối
với thiên triều Bắc Kinh, nếu ai còn phân vân về câu "hèn với giặc ác với dân" áp
dụng cho đảng để tiếp tục bám víu, nuôi dưỡng lòng trung thành mong manh đối
với đảng thì bản án 88 dọn ra cho nhà văn, blogger Nguyễn Quang Lập nên được
dùng làm cái kéo cắt đứt sợi dây trung thành u tối ấy để xác định rằng: đảng cộng sản này chính là giặc nội xâm và chúng phải ra đi.
YÊU CẦU TRẢ TỰ DO CHO
NHÀ VĂN NGUYỄN QUANG LẬP TỨC BLOGGER QUÊ CHOA (cập nhật đến đợt 8, tổng cộng
670 người ký)
Những người khởi xướng rất mong được bạn đọc
hưởng ứng. Nếu tán đồng Yêu cầu này, xin anh/chị gửi thư về địa chỉ bolap2014@gmail.com và cho biết đầy đủ
thông tin (viết có dấu): tên họ, nghề nghiệp, chức vụ (nếu có), địa chỉ cư trú
(tên tỉnh/thành phố Việt Nam hoặc tên quốc gia ngoài Việt Nam).
Kính gửi:
- Ông Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước CHXHCNVN
- Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng nước CHXHCNVN
- Ông Trần Đại Quang, Bộ trưởng Công an nước
CHXHCNVN
Chúng tôi ký tên dưới đây, những đồng nghiệp
văn bút, những bạn đọc của nhà văn Nguyễn Quang Lập tức blogger Quê Choa, những
người hoạt động trong các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, những người quan tâm đến
quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận của công dân và những quyền con người căn
bản được Hiến pháp nước CHXHCNVN bảo vệ và được quy định trong Tuyên ngôn Quốc
tế Nhân quyền và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam
đã ký kết và tham gia,
Hết sức bất bình và lo lắng trước việc nhà văn
Nguyễn Quang Lập tức blogger Quê Choa, một nhà văn và nhà biên kịch sân khấu,
điện ảnh có nhiều cống hiến xuất sắc cho văn nghệ nước nhà được đông đảo bạn
đọc người Việt trong và ngoài nước hâm mộ, một chủ blog thông tin đa chiều có
uy tín cao đối với cộng đồng mạng tiếng Việt trên khắp thế giới, đã bị An ninh
TPHCM bắt đi vào ngày 6/12 theo điều 258 Bộ Luật Hình sự về “Tội lợi dụng các
quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, công dân”.
Trong mấy ngày qua, vụ bắt giữ nhà văn Nguyễn
Quang Lập đã gây xúc động mạnh mẽ trong nhiều giới quần chúng, từ trí thức văn
nghệ sĩ đến cán bộ công chức, thanh niên, đồng nghiệp và bạn đọc yêu mến ông.
Tính chính đáng của việc bắt giữ đã bị nhiều
người lên tiếng hoài nghi, xét từ nội dung trang blog Quê Choa vốn chỉ đưa
những bài viết và tin tức có cách nhìn đa chiều, với mong muốn tiếp cận Sự Thật
như chủ blog đã tuyên bố, nhìn chung mang tính phản biện ôn hoà đối với các chủ
trương chính sách và việc làm của Nhà nước Việt Nam, có mục đích đóng góp vào
quá trình cải thiện tình hình mọi mặt của đất nước; xét từ việc đột nhập một
cách phi pháp vào nhà riêng của đương sự và sau đó tuyên bố “bắt quả tang” đương
sự một cách mơ hồ, phi lý trong khi nhà văn Nguyễn Quang Lập đang viết tiểu
thuyết trên máy tính của ông.
Việc giam giữ nhà văn Nguyễn Quang Lập còn gây
xúc động hơn nữa vì tình trạng sức khoẻ của ông: liệt nửa người do di chứng
chấn thương sọ não, đi lại, nằm ngồi cho đến vệ sinh cá nhân đều hết sức khó
khăn phải có người giúp đỡ, cùng nhiều bệnh nặng khác. Đó là việc làm trái với
tinh thần nhân đạo của luật pháp của bất cứ quốc gia văn minh nào.
Với những dữ kiện trên, việc bắt giữ nhà văn
Nguyễn Quang Lập hoàn toàn không có sức thuyết phục, ngược lại chỉ gây ra phản
ứng tiêu cực trong đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam và dư luận quốc tế,
phá hoại nghiêm trọng lòng tin vào sự công minh của luật pháp Việt Nam, sự tôn
trọng quyền công dân và quyền con người của Nhà nước Việt Nam, phá hoại đường
lối tranh thủ sự trợ giúp của các nước dân chủ trong cuộc chiến đấu bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta.
Vì thế, chúng tôi yêu cầu:
1/ Trả
tự do tức khắc cho nhà văn Nguyễn Quang Lập.
2/ Việc
điều tra nếu tiếp tục thì phải tiến hành một cách công minh, đúng luật, có sự
tham gia từ đầu của luật sư do nhà văn yêu cầu.
3/ Nhanh
chóng trả tự do cho các blogger Trương Duy Nhất, Nguyễn Hữu Vinh, Hồng Lê Thọ
và những blogger khác bị bắt với tội danh tương tự và chịu nhiều quy kết phi lý
tương tự.
4/ Vụ
bắt nhà văn Nguyễn Quang Lập và những vụ bắt bớ các blogger gần đây cho thấy
cần gấp rút sửa các bộ Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự theo hướng minh
bạch, dân chủ; bãi bỏ các điều 258, 88 chứa đựng nhiều sự mơ hồ và phi lý dễ bị
lợi dụng để triệt bỏ quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận của công dân.
Để đất nước mau thoát khỏi thời kỳ khủng hoảng
về mọi mặt, đối diện những nguy cơ chưa từng có, Nhà nước cần chân thành lắng
nghe tiếng nói phản biện của trí thức văn nghệ sĩ và các giới quần chúng như
các ông Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ nhiều lần khẳng định, thay thế cho
việc đàn áp những ý kiến khác hoặc trái chiều.
Kính gửi các ông lời chào trân trọng.
Ngày Nhân quyền thế giới 10/12/2014
Bản tiếng Đức:
Appell zur Freilassung des
Schriftstellers und Bloggers Nguyễn Quang Lập
Sehr geehrter Herr Trương Tấn Sang, Präsident
der Sozialistischen Republik Vietnam,
Sehr geehrter Herr Nguyễn Tấn Dũng, Premierminister der Sozialistischen Republik Vietnam,
Sehr geehrter Herr Nguyễn Tấn Dũng, Premierminister der Sozialistischen Republik Vietnam,
Sehr geehrter Herr Trần Đại Quang, Minister
für Staatssicherheit der Sozialistischen Republik Vietnam,
Wir, die Unterzeichnenden, sind
Schriftsteller, Leser sowie Kultur- und Kunstschaffende. Uns sind die Meinungs-
und Redefreiheit der Bürger sowie die anderen Grundrechte, die von der
Verfassung der Sozialistischen Republik Vietnam geschützt werden sollen, sehr
wichtig. Diese Rechte sind verbrieft in der „Allgemeinen Erklärung der
Menschenrechte“ und im „Internationalen Pakt über bürgerliche und politische
Rechte“, die auch von der Sozialistischen Republik Vietnam ratifiziert worden
sind.
Herr Nguyễn Quang Lập, alias Blogger Quê Choa,
ist nicht nur ein Schriftsteller, sondern auch ein Theater- und Drehbuchautor,
der viele herausragende Beiträge für das Land auf den Gebieten der Literatur
und Kultur geleistet hat. Seine Werke, nicht zuletzt sein Blog „Quê Choa“, haben
ihm viel Anerkennung bei den vietnamesisch sprechenden Lesern im In- und
Ausland eingebracht.
Wir sind deshalb empört und besorgt über seine
Festnahme am 6. Dezember 2014 durch die Beamten der Staatssicherheit in
Ho-Chi-Minh-Stadt aufgrund des angeblichen Verdachts auf „Missbrauch der
demokratischen Freiheit zur Verletzung der staatlichen und legitimen Rechte und
Interessen der Bürger“ gemäß Paragraph 258 des Strafgesetzbuches.
Die Festnahme des Schriftstellers Nguyễn Quang
Lập hat eine starke Welle der Empörung bei unterschiedlichen
Gesellschaftsschichten, von den Intellektuellen, Beamten, Funktionären,
Schriftstellerkollegen bis hin zu den Jugendlichen, ausgelöst.
Die Rechtmäßigkeit der Festnahme wurde von
vielen Menschen bezweifelt. Nach den Inhalten des Blogs „Quê Choa“ sind die
Beiträge nur eine friedliche Kritik der Politik und der Handlungen der
vietnamesischen Regierung mit dem Ziel, den Zustand des Landes zu verbessern.
Die Beiträge und Nachrichten haben nur einen Zweck, nämlich, sich der Wahrheit anzunähern,
wie es der Blog-Inhaber selbst auf seiner Seite definiert hat. Die illegal in
seinem Privathaus durchgeführte Festnahme war jedoch eine
Nacht-und-Nebel-Aktion, die von der Staatssicherheit als „auf frischer Tat
ertappte Strafhandlung“ deklariert wurde, obwohl er zu dem Zeitpunkt der
Verhaftung gerade mit dem PC an seinem neuen Roman arbeitete.
Seine Verhaftung erregt wegen seiner Krankheit
noch mehr Entrüstung. Er ist infolge traumatischer Verletzungen halbseitig
gelähmt, hat große Schwierigkeiten beim Gehen und Sitzen und kann ohne Hilfe
Dritter alle persönlichen Bedürfnisse kaum bewältigen. Die Inhaftnahme einer
schwerkranken Person verstößt gegen jeglichen humanen Geist der zivilisierten
Welt.
Die Festnahme und Inhaftierung des
Schriftstellers Nguyễn Quang Lập sind damit von zweifelhafter Begründung und
haben bisher lediglich negative Reaktionen bei den Vietnamesen sowie aus dem
Ausland verursacht. Schlimmer noch, sie zerstören das Vertrauen in die
Rechtmäßigkeit des vietnamesischen Gesetzes und den Glauben an die
Glaubwürdigkeit der vietnamesischen Regierung bei der Einhaltung der Bürger-
und Menschenrechte. Sie können außerdem zu dem Solidaritätsverlust bei den
demokratischen Ländern im Kampf für die Souveränität und territoriale
Integrität des Landes führen.
Deshalb richten wir an Sie folgenden Appell:
1.
den Schriftsteller
Nguyễn Quang Lập unverzüglich freizulassen;
2.
die Ermittlung der
angeblichen Straftat transparent und entsprechend dem gültigen Gesetz
durchzuführen, wobei der Verdächtigte von einem von ihm genannten Rechtsanwalt
begleitet wird;
3.
die zu Unrecht mit den
ähnlichen „Straftaten“ verhafteten Blogger wie Trương Duy Nhất, Nguyễn Hữu
Vinh, Hồng Lê Thọ und andere freizulassen;
4.
das Strafgesetzbuch
und die Strafprozessordnung dringend mit mehr Klarheit zu ändern. Die unklar
und unsinnig formulierten Paragraphen 88 und 258 aus dem Strafgesetzbuch sind
zu streichen; denn sie animieren den Missbrauch, die Bürger ihrer Meinungs- und
Redefreiheit zu berauben.
Damit das Land in allen Bereichen die Krise
überwinden kann, sollte die Regierung die Kritik seiner Bürger aufrichtig
annehmen, anstatt Andersdenkende zu unterdrücken, so wie auch Sie, Herr
Präsident und Herr Premierminister, es mehrfach versprochen haben.
Mit respektvollen Grüßen
Die Unterzeichner
Am Tag der Internationalen Menschenrechte 10.
Dezember 2014
Những người khởi xướng:
1. Nguyên Ngọc, nhà văn, Hội An
2. Bùi Chát, nhà thơ, TPHCM
3. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, Đà Lạt
4. Châu Diên (Phạm Toàn), nhà văn, nhà giáo
dục, Hà Nội
5. Chu Hảo, TS, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường, Hà Nội
6. Dương Tường, nhà thơ, dịch giả, Hà Nội
7. Đào Tiến Thi, nhà nghiên cứu ngôn ngữ, Hà
Nội
8. Hà Sĩ Phu, TS, Đà Lạt
9. Hiền Phương, nhà văn, TPHCM
10. Hoàng Dũng, PGSTS, nhà nghiên cứu ngôn
ngữ, TPHCM
11. Hoàng Hưng, nhà thơ, dịch giả, TPHCM
12. Hoàng Minh Tường, nhà văn, Hà Nội
13. GB. Huỳnh Công Minh, linh mục Tổng Giáo
phận Sài Gòn, TPHCM
14. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí
thức yêu nước TPHCM, TPHCM
15. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, nguyên Chủ tịch
Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (trước 1975), Đại biểu Quốc hội khóa 6, Ủy viên Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TPHCM
16. Kha Lương Ngãi, nhà báo, nguyên Phó Tổng
biên tập báo Sài Gòn giải phóng, TPHCM
17. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường
trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó
Giám đốc Tổng công ty Du lịch Thành phố HCM (Saigontourist), TPHCM
18. Lê Phú Khải, nhà báo, nguyên phóng viên
Đài Tiếng nói Việt Nam, TPHCM
19. Lưu Trọng Văn, nhà văn, nhà báo, TPHCM
20. Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, nhà báo, TPHCM
21. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TPHCM
22. Nguyễn Huệ Chi, GS, nhà nghiên cứu văn
học, Hà Nội
23. Nguyễn Quang A, TS, Hà Nội
24. Nguyễn Quốc Thái, nhà thơ, TPHCM
25. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận
Vinh
26. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TPHCM
27. Nguyễn Xuân Diện, TS, nhà nghiên cứu
Hán-Nôm, Hà Nội
28. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TPHCM
29. Phạm Nguyên Trường, dịch giả, Vũng Tàu
30. Phạm Xuân Nguyên, nhà phê bình, Chủ tịch
Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội
31. Phan Thị Hoàng Oanh, TS, TPHCM
32. Trần Trung Chính, nhà văn, họa sĩ, Hà Nội
33. Từ Quốc Hoài, nhà thơ, TPHCM
34. Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
35. Ý Nhi, nhà thơ, TPHCM
Đợt 2:
36. Giáng Vân, nhà thơ, nhà báo, Hà Nội
37. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, TPHCM
38. Phạm Duy Hiển, GS, nghiên cứu khoa học hạt
nhân, Hà Nội
39. Phạm Thị Minh Đức, nhân viên Trung tâm Hợp
tác Quốc tế Nhật Bản (JICE), Hà Nội
40. Trần Tiến Đức, nhà báo, đạo diễn phim tài
liệu và truyền hình, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục – Truyền thông, Ủy ban Quốc
gia Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, Hà Nội
41. Phạm Gia Minh, TS, Hà nội
42. Hoàng Lại Giang, nhà văn, TPHCM
43. Vũ Thế Khôi, nhà giáo ưu tú, nguyên Trưởng
khoa Tiếng Nga Đại học Hà Nội, Hà Nội
44. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ
Bộ Công an, Hà Nội
45. Đinh Gia Hưng, dịch giả, giảng viên tiếng
Anh, TP Đà Nẵng
46. Hà Dương Tường, nguyên giáo sư Đại học
Compiègne, Pháp
47. Nguyễn Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn
Hà Nội, Hà Nội
48. Lê Mạnh Đức, kỹ sư, TPHCM
49. Trần Minh Khôi, kỹ sư điện toán, CHLB Đức
50. Thuỳ Linh, nhà văn, Hà Nội
51. Đặng Xuân Thảo, Directeur de recherche,
CNRS (Viện Khoa học Quốc gia), Pháp
52. Thanh Thảo, nhà thơ, nhà báo, Quảng Ngãi
53. Hoàng Văn Khẩn, TS sinh hoá học, Thụy Sĩ
54. Trần Thị Tươi, nghề nghiệp tự do, Tân
Bình, TPHCM
55. Trần Hải Yến, TS, Viện Văn học, Hà Nội
56. Đặng Đình Cung, kỹ sư tư vấn, Pháp
57. Đặng Thị Hảo, TS, nguyên Phó trưởng phòng
Văn học Cổ cận đại, Viện Văn học, Hà Nội
58. Phạm Tư Thanh Thiện, nhà báo, Pháp
59. Nguyễn Ngọc Giao, nhà giáo, Pháp
60. Tạ Duy Anh, nhà văn, cán bộ biên tập nhà
xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội
61. Chân Phương, nhà thơ, dịch giả, Hoa Kỳ
62. Trần Hải Hạc, nguyên PGS trường Đại học
Paris 13, Pháp
63. Lê Minh Hà, nhà văn, CHLB Đức
64. Trần Văn Bang, kỹ sư, cựu chiến binh chống
Tàu, TPHCM
65. Dương Văn Tú, nghiên cứu sinh, Đại học
Leuven, Vương quốc Bỉ
66. Nguyễn Đức Hiệp, Atmospheric Scientist,
Australia
67. Vũ Ngọc Thăng, dịch giả, Canada
68. Hà Dương Tuấn, nguyên chuyên gia Công nghệ
thông tin, Pháp
69. Trần Huy Quang, nhà văn, Hà Nội
70. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu, Hà Nội
71. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, nguyên Tổng biên tập
tạp chí Sông Hương, Huế
72. Tống Văn Công, nguyên Tổng biên tập báo
Lao động, TPHCM
73. Nguyễn Trọng Tạo, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà
báo, Hà Nội
74. Bùi Như Hương, nhà nghiên cứu phê bình mỹ
thuật, Hà Nội
75. Đinh Đức Long, TS, bác sĩ, TPHCM
76. Khánh Phương, viết văn, Hoa Kỳ
77. Văn Giá, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hà
Nội
78. Phạm Anh Tuấn, dịch sách, viết báo, dạy
học, Hà Nội
79. Lê Bá Diễm Chi (tức Song Chi), đạo diễn
phim và nhà báo tự do, Na Uy
80. Văn Sáng, họa sĩ, Hà Nội
81. Trương Anh Thụy, nhà văn, Hoa Kỳ
82. Nguyễn Đình Đăng, TS khoa học & nghiên
cứu vật lý hạt nhân, hoạ sĩ, Nhật Bản
83. Đinh Thị Thùy Mai, Nhật Bản
84. Nguyễn Đắc Xuân, nhà nghiên cứu lịch sử
văn hóa, Huế
85. Trần Công Thạch, nhà giáo nghỉ hưu, TPHCM
86. Trần Nghi Hoàng, nhà văn, Hoa Kỳ
87. Trương Hồng Liêm, tin học, Pháp
88. Thụy Khuê, nhà nghiên cứu văn học, Pháp
89. Trần Quang Thành, nhà báo, Slovakia
90. André Menras, Hồ Cương Quyết, nhà giáo,
cựu tù chính trị chế độ cũ, Pháp
91. Hoài Việt, nhà văn, cựu giáo sư trường Cao
đẳng, Pháp
92. Antôn Lê Ngọc Thanh, linh mục Dòng Chúa
Cứu thế Sài Gòn
93. Nguyễn Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp
94. Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp
95. Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt
96. Mai Thái Lĩnh, nhà giáo, nhà nghiên cứu
độc lập, Đà Lạt
97. Hồ Ngọc Nhuận, nguyên chủ bút nhật báo Tin
Sáng, TPHCM
98. Lê Đăng Doanh, TS, chuyên gia kinh tế, Hà
Nội
99. Phạm Xuân Yêm, Giám đốc Nghiên cứu Vật lý
(CNRS), Đại học Paris 6, Pháp
100. Bùi Thanh Hiếu, blogger, CHLB Đức
101. Nguyễn Đồng, TS, Giám đốc Chương Trình
Thanh Lọc Nước Bẩn DESAL, Hoa Kỳ
102. Bùi Xuân Bách, giáo viên về hưu, Hoa Kỳ
103. Nguyễn Tường Thụy, Hội viên Hội Nhà báo
Độc lập Việt Nam, Hà Nội
104. Trần Thị Hường, CHLB Đức
105. Đoàn Nam Sinh, nghiên cứu tự do, Đà
Lạt
106. Vũ Thế Cường, TS, kỹ sư cơ khí, CHLB Đức
107. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, TP HCM
108. Nguyễn Khắc Phê, nhà văn, nhà báo,
Huế
109. Hà Thúc Huy, PGSTS, giảng dạy đại học,
TPHCM
110. Nguyễn Mai Oanh, chuyên gia nông nghiệp,
TPHCM
111. Vũ Nhật Khải, nguyên vụ trưởng Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
112. Huỳnh Phi Long, cán bộ hưu trí, TPHCM
113. Đỗ Hoàng, nhà thơ, nguyên Trưởng ban Thơ
Tạp chí Nhà văn – Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
114. Nguyễn Thị Bình, PGSTS, nguyên giảng viên
Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội
115. Nguyễn Đức Tùng, M.D., Canada
116. Tạ Trọng Trí, họa sĩ, Hà Nội
117. Nguyễn Phương Chi, biên tập viên chính,
cán bộ Viện Văn học (đã nghỉ hưu), Hà Nội
118. Trần Đình Nam, nguyên Trưởng ban biên tập
Nhà xuất bản Kim Đồng (đã nghỉ hưu), Hà Nội
119. Nguyễn Đan Quế, bác sĩ, TPHCM
120. Phạm Chí Dũng, nhà báo độc lập, TPHCM
121. Ngô Minh, nhà văn Việt Nam, Huế
122. Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang
123. Nguyễn Duy, nhà thơ, TPHCM
124. Trần Minh Thảo, viết văn, Bảo Lộc, Lâm
Đồng
125. Đinh Phương Thảo, giáo viên, Hà Nội
126. Nguyễn Thanh Giang, TS Địa Vật lý, Hà Nội
127. Nguyễn Đức Mậu, TS Văn học, Hà Nội,
Việt Nam
128. Lê Văn Tâm, nguyên Chủ tịch Hội Người
Việt Nam tại Nhật Bản, Nhật Bản
129. Nguyễn Văn Nhượng, kỹ sư, Thụy Sĩ
130. Nguyễn Thị Kim Chi, nghệ sĩ ưu tú, Hà Nội
131. Vũ Linh, nhà giáo về hưu, Hà Nội
132. Trần Đồng Minh, nhà giáo về hưu, Hà Nội
134. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên
văn hóa, TPHCM
135. Ngô Kim Hoa, nhà báo tự do, TPHCM
136. Lại Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ, TPHCM
137. Trần Kỳ Trung, nhà văn, Hội An
138. Nguyên Giác Phan Tấn Hải, nhà báo, Hoa Kỳ
139. Nguyễn Quang Thân, nhà văn, TPHCM
140. Dạ Ngân, nhà văn, TPHCM
141. Nguyễn Văn Dũng, nhà giáo về hưu, Huế
142. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư tin học, Thụy Sĩ
Đợt 3:
143. Phùng Hoài Ngọc, thạc sỹ, cựu giảng viên
đại học, An Giang
144. Phan Thanh Hải, blogger Anhbasg, CLB Nhà
báo tự do, TPHCM
145. Nguyễn Đình Ấm, nhà báo, Hà Nội
146. Nguyễn Đương, kỹ sư điện nghỉ hưu, Bắc
Giang
147. Đinh Thị Quỳnh Như, nguyên giảng viên
ĐHSP TPHCM, TPHCM
148. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
149. Tô Lê Sơn, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng,
TPHCM
150. Liêu Tuấn Kiệt, Volkswagen after sales
manager, CHLB Đức
151. Trần Thiên Phụng, chuyên gia công nghệ
thông tin, Thụy Sĩ
152. Nguyễn Trung Tôn, mục sư Tin Lành, Thanh
Hóa
153. Nguyễn Ngọc Anh, phiên dịch, Hà Nội
154. Vũ Hoàng Minh, TS Hóa học, đã nghỉ hưu,
Hà Nội
155. Nguyễn Huỳnh Mai, nhà xã hội học, Bỉ
156. Đỗ Thanh Tàu, Lào Cai
157. Lê Hải Lý, chuyên viên kiểm toán, CHLB
Đức
158. Chu Sơn, nhà thơ, TPHCM
159. Nguyễn Thị Kim Thoa, bác sĩ, TPHCM
160. Nguyễn Đình Cống, GS trường Đại học Xây
dựng, Hà Nội
161. Hoàng Đức Doanh, nghỉ hưu, Hà Nam
162. Nguyễn Hồng Cúc, nghiên cứu độc lập,
TPHCM
163. Hoàng Cường, kỹ sư giao thông, Hà Nội
164. Nguyễn Mạnh Cường, CH Czech
165. Đặng Văn Sinh, nhà văn, Hải Dương
166. Trần Song Hào, hưu trí, cựu chiến binh
mặt trận K, Khánh Hoà
167. Đỗ Xuân Cang, kỹ sư, CH Czech
168. Nguyễn Thị Hoàng Bắc, nhà văn, Hoa Kỳ
169. Bùi Tuấn Dương, lao động tự do, Đắk Nông
170. Hạ Đình Nguyên, hưu trí, TPHCM
171. Lê Thành Hưng, kỹ sư, Đà Nẵng
172. Trần Ngọc Tuấn, nhà văn – nhà báo, CH
Czech
173. Hoàng Anh Vũ, chuyên gia IT, Quảng Nam
174. Hoàng Danh Hiển, nghiên cứu và tư vấn độc
lập, Hải Phòng
175. Tăng Bá Hùng, dạy học, Hải Dương
176. Trần Thanh Ngôn, kỹ sư điện toán, CHLB
Đức
177. Đào Phong, kinh doanh, chủ doanh nghiệp,
CH Czech
178. Vũ Quang Việt, chuyên gia thống kê kinh
tế, Hoa Kỳ
179. Chu Trọng Thu, cựu chiến binh, TPHCM
180. Đinh Tấn Lực, blogger Tam Biên,
BKK/VTE/PNH/KUL/MNL – SouthEast Asia
181. Đỗ Thái Bình, kỹ sư đóng tàu, uỷ viên Ban
Chấp hành Hội Biển Việt Nam, Hội Đóng Tàu Việt Nam, Hội Đóng Tàu Hoa Kỳ SNAME,
TPHCM
182. Đinh Văn Trọng, nhân viên Truyền thông,
Đại học Bình Dương, Bình Dương
183. Ngô Thị Thúy Vân, sinh viên năm thứ ba
ngành công tác xã hội, khoa Evangelická a Teolgická, Charles University, CH
Czech
184. Trần Quốc Túy, kỹ sư hóa đã nghỉ hưu, Hà
Nội
185. Phan Văn Liên, cán bộ về hưu, Nghệ An
186. Bùi Tín, nhà báo tự do, Pháp
187. Đào Thu Huệ, giảng viên Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội
188. Nguyễn Thạch Hãn, họa sĩ, Hà Nội
189. Đặng Bích Phượng, nghỉ hưu, Hà Nội
190. Bùi Thị Ánh Tuyết, MBA, kinh doanh, TPHCM
191. Nguyễn Thượng Long, dạy học – viết báo,
Hà Nội
192. Ngô Hoàng Hưng, kinh doanh, TPHCM
193. Phùng Chí Kiên, designer, Hà Nội
194. Lê Minh Tâm, TS Kinh tế, Hà Nội
195. Phạm Thị Minh Trang, nhân viên kinh doanh
tại công ty du lịch, Hà Nội
196. Khương Quang Đính, chuyên gia Công nghệ
Thông tin, Pháp
197. Phạm Terry The, KCI Medical, Canada
198. Bùi Hồng Mạnh, cử nhân Hoá, CCB-79, bút
hiệu Văn Đức, biên khảo, dịch thuật, blogger, CHLB Đức
199. Nguyễn Đức Toàn, TPHCM
200. Nguyễn Việt Anh, nghiên cứu sinh toán,
Đại học Angers, Pháp
201. Phạm Thành, nhà báo, nhà văn, chủ trang
blog Bà Đầm xòe, Hà Nội
202. Nguyễn Công Đức, kỹ sư điện tử, Hoa Kỳ
203. Lê Tuyết Phượng, nghiên cứu sinh, Hoa Kỳ
204. Vũ Minh Trí, kỹ sư, Hà Nội
205. Nguyễn Quang Vinh, kỹ sư, công tác
tại Bộ Quốc Phòng, Hà Nội
206. Nguyễn Văn Bằng, nghề nghiệp tự do, Hà
Nội
207. Khoái Văn Phan, hồi hưu, Hoa Kỳ
208. Phạm Đức Quý, chuyên viên, nghỉ hưu, Hà
Nội
209. Hà Huy Toàn, giáo viên, ký giả, Hà Nội
210. Trần Đình Sơn Cước, nguyên hội viên Hội Luật
gia thành phố Hồ Chí Minh, Hoa Kỳ
211. Lê Anh Hùng, blogger, Hà Nội
212. Phan Minh Hùng, binh nhì D3 E 1 22 F313
mặt trận Vị Xuyên Hà Giang, nhà thơ, dịch giả, sinh viên khoa Ngoại ngữ các
trường Đại học Sư phạm TPHCM, Đại học XH-NV TPHCM
213. Lê Hải, nhà nhiếp ảnh, Đà Nẵng
214. Trần Văn Thủy, NSND, Đạo diễn Điện ảnh,
Hà Nội
215. Vũ Văn Sự, kinh doanh, Bà Rịa – Vũng Tàu
216. Đặng Viết Trường, nhà báo, Hà Nội
217. Lê Mạnh Năm, nghiên cứu viên, Hà Nội
218. Bắc Phong, nhà thơ, Canada
219. Mai Văn Tuất, Hoa Kỳ
220. Ngô Minh, IT technician, Hoa Kỳ
221. Nguyễn Sỹ Phương, Dr, CHLB Đức
222. Bùi Thu Trang, Canada
223. Nguyễn Đình Văn, CH Czech
224. Nguyễn Đăng Quang, kỹ sư, Hà Nội
225. Lưu Bá Ôn, nghỉ hưu, Hoa Kỳ
226. Phạm Hải Hồ, TS, CHLB Đức
227. Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ Y khoa, Pháp
228. Van Ha, nội trợ, Hoa Kỳ
229. Nguyễn Thanh Lam, nghiên cứu khoa học,
Viện Công nghệ California (Caltech), Hoa Kỳ
230. Hồ Liên, TS, nguyên giảng viên trường
Viết văn Nguyễn Du, Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội
231. Xuân Nguyễn, công nghệ thông tin, TPHCM
232. Nguyễn Công Nghĩa, TS, BS, Đại học
Waterloo, Canada
233. Nguyễn Xuân Liên, giám đốc Bảo tàng Chiến
tranh Ngoài trời Vực Quành, Quảng Bình
234. Phạm Thị Lâm, cán bộ hưu trí, Hà Nội
235. Trần Văn Bình, TS kỹ sư, CHLB Đức
236. Dạ Thảo Phương, Hà Nội
237. Cù Phương Dung, nhà báo, Hà Nội
238. Lưu Thuỷ Hương, nhà văn, CHLB Đức
239. Toi Duong, thương mại, Hoa Kỳ
240. Thanh Nguyen, Hoa Kỳ
241. Nguyễn Đức Phổ, nông dân, Lâm Đồng
242. Phạm Mai Ly, nội trợ, Thụy Điển
243. Hoàng Dương Tuấn, GS, Đại học Công nghệ
Sydney, Australia
244. Nguyễn Xuân Thọ, kỹ sư truyền thông, CHLB
Đức
245. Nguyễn Kim Thảo, giảng viên ĐH Kinh tế
TPHCM
246. Tony Vũ, giáo viên, Hoa Kỳ
247. Phùng Mạnh Cường, CHLB Đức
248. Mai Nguyen Ova, CH Czech
249. Bùi Tony, cán bộ kỹ thuật trường học,
Pháp
250. Trần Phong, Aircraft-Technik, Áo
251. Trần Thị Thiên, giáo viên trung học đã về
hưu, Hà Nội
252. Nguyễn Bá Dũng, kỹ sư, Hà Nội
253. Phạm Văn Hiền, nguyên giảng viên Lý luận
Chính trị trường Chính trị Tô Hiệu, Hải Phòng
254. Pham Cường, đạo diễn, CHLB Đức
255. Nguyễn Minh Thuyết, GSTS ngữ văn, cựu đại
biểu Quốc hội, Hà Nội
256. Trần Đàn, Ba Lan
257. Bùi Văn Phú, GS Đại học Cộng đồng, nhà
báo tự do, Hoa Kỳ
258. Nguyễn Trọng Hoàng, TS Vật lý, CHLB Đức
259. Phạm Hữu Uyển, IT, CH Czech
260. Lê Diễn Đức, nhà báo, Hoa Kỳ
261. Nhã Thuyên, nhà thơ, Hà Nội
262. Nguyễn Lương Thịnh, chuyên viên Quản trị
Doanh nghiệp, TPHCM
263. Nguyễn Đức Việt, IT Contractor, Australia
264. Thường Quán, dịch giả, Australia
265. Nguyễn Lệ Uyên, nghề nghiệp tự do, TPHCM
266. Hồ Vĩnh Trực, kỹ thuật viên vi tính,
TPHCM
267. Hòa thượng Thích Thanh Tịnh, chùa Phước
Bửu thuộc Tăng đoàn GHPGVNTN, Bà Rịa Vũng Tàu
268. Tỳ kheo Thích Vĩnh Phước, chùa Phước Bửu
thuộc Tăng đoàn GHPGVNTN, Bà Rịa Vũng Tàu
269. Đỗ Ngọc Quỳnh, TS, nông học, nhà giáo
trường Đại học Cần Thơ, nghỉ hưu, TPHCM
270. Hà Văn Thùy, nhà văn, TPHCM
271. Dương Văn Minh, nhân viên hoá chất, Đồng
Nai
272. Trần Quốc Trọng, đạo diễn, nghệ sĩ ưu tú.
Hà Nội
273. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên
Giám đốc Làng Du Lịch Bình Quới Saigontourist, hưu trí, Hoa kỳ
274. Nguyễn Văn Tuấn, Đại học Công nghệ
Sydney, Australia
275. Đào Minh Châu, tư vấn Hành chính công và
Chính sách công, Hà Nội
276. Dương Sanh, nhà giáo, Khánh Hòa
277. Nguyễn Duy Vĩnh, nhân viên Ngân hàng,
TPHCM
278. Trần Hưng Thinh, kỹ sư, nghỉ hưu, Hà Nội
279. Nguyễn Văn Hiếu, kỹ sư, Bà Rịa – Vũng Tàu
280. Nguyễn Khắc Bình, kỹ sư,TPHCM
281. Nguyễn Văn Đức, lao động tự do, TPHCM
282. Dương Hoài Linh, nhà báo, Hoa Kỳ
283. Lại Đức Hưng Quốc, TS Truyền tải Thông
tin, Hoa Kỳ
284. Đặng Minh Điệp, giảng viên đại học, TPHCM
285. Nguyễn Thị Lý, nhân viên kế toán công ty
CP Xuất nhập khấu và Thiết bị Y tế Metech, Hà Nội
286. Nguyễn Minh Nhật, kỹ sư, TPHCM
287. Phạm Quang Tuấn, nhà giáo Đại học New
South Wales, Australia
288. Nguyển Thu Nguyệt, nhà giáo về hưu, TPHCM
289. Trinh Thi Thu Ha, Hoa Kỳ
290. Phan Dương, kỹ sư, TPHCM
291. Hoàng Lan, nguyên giảng viên Đại học Sư
phạm TPHCM, nghỉ hưu, Đồng Nai
292. Hoàng Ngọc Biên, nhà văn – nhà thơ,
Hoa Kỳ
293. Đỗ Huy Tấn, giáo viên, Hải Dương
294. Đặng Trường Lưu, họa sĩ, nhà phê bình Mỹ
thuật, Hà Nội
295. Nguyễn Hữu Tưởng, dịch giả, viện Nghiên
cứu Hán Nôm, Hà Nội
296. Nguyễn Văn Tâm, hưu trí, TPHCM
297. Nguyễn Hồng Kiên, TS Sử học, Hà Nội
298. Ma Văn Dũng, nhà báo tự do, Australia
299. Nguyễn Thanh Tâm, cựu Phó Chủ tịch Nội Vụ
BCHCĐVN, Hoa Kỳ
300. Vi Toàn Nghĩa, kỹ sư tự động hóa, Hà Nội
301. Nguyễn Tiến Trung, kỹ sư máy tính, TPHCM
302. Mai Văn Hoan, nhà thơ, hội viên Hội Nhà
văn Việt Nam, Huế
303. Duc Nguyen, engineer, Hoa Kỳ
304. Lê Mạnh Chiến, cán bộ về hưu, Hà Nội
305. Mai An Nguyễn Anh Tuấn, đạo diễn điện
ảnh, nhà báo, Hà Nội
306. Nguyễn Quốc Quân, bác sĩ, Hoa Kỳ
307. Lê Thăng Long, doanh nhân, kỹ sư viễn
thông, TPHCM
308. Nguyễn Quốc Minh, nhà báo, nhà thơ
309. Đỗ Thành Nhân, MBA, Quảng Ngãi
310. Trần Đức Thạch, nhà thơ, hội viên Hội Văn
nghệ Nghệ An
311. Trần Hải Bằng, nghiên cứu sinh tại Đại
học Kyushu, Nhật Bản
312. Hà Văn Chiến, cựu chiến binh, Hà Nội
313. Lại Thị Bích Ngọc, nhân viên văn
phòng, Hà Nội
314. Hồ Thị Hồng Nhung, bác sĩ, TS, TPHCM
315. Lê Phước Dạ Đăng, làm thơ, TPHCM
316. Bùi Kế Nhãn, cựu chiến binh, cựu Thanh
niên Xung phong, nghề nghiệp tự do, Bà Rịa – Vũng Tàu
317. Đỗ Như Ly, kỹ sư, hưu trí, TPHCM
318. Lê Hải, lập trình viên, TPHCM
319. Vũ Quang Chính, nhà lý luận phê bình điện
ảnh, Hà Nội
320. Từ Sâm, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật
Khánh Hòa, Khánh Hòa
321. Nguyễn Ngọc Xuân, nông dân, Bà Rịa Vũng
Tàu
322. Mai Tú Ân, nhà văn, TPHCM
323. Nguyễn Thanh Hoa, hoạ sĩ, Australia
324. Ngụy Hữu Tâm, TS, dịch giả, tác giả sách,
Hà Nội
325. Hoàng Mậu Sơn, nông dân, TPHCM
326. Phạm Văn Thọ (Minh Thọ), luật gia, cựu
nhà báo, TPHCM
327. Trần Văn Phong, cựu chiến binh, Nghệ An
328. Nguyễn Minh Chánh, TS, Hoa Kỳ
329. Chu Văn Keng, cử nhân Toán, CHLB Đức
330. Hoàng Xuân Cảnh, kế toán, Thái Bình
331. Đoàn Nhật Hồng, Đà Lạt
332. Lê Cát Tường, TS, nguyên giảng viên Đại
học, Hoa Kỳ
333. Lưu Thị Kim Oanh, nhân viên văn phòng,
TPHCM
334. Đặng Xuân Hiểu, nhân viên tín dụng, Hà
Nội
335. Trần Tuấn Lộc, cử nhân Kinh tế, cử nhân
Luật, kế toán trưởng, TPHCM
336. Thao Mai, Hoa Kỳ
337. Loan Nguyễn, Hoa Kỳ
338. Tommy Mai, Hoa Kỳ
339. Lang Nguyễn, Hoa Kỳ
340. Trần Hùng Minh, nghề tự do, Hoa Kỳ
341. Trần Đức Thuận, giảng viên Đại học, TPHCM
342. Hoàng Thị Phượng, nhân viên hành chính
nhân sự, Hà Nội
343. Nguyễn Thu Hồng, doanh nhân, TPHCM
344. Nguyễn Thị Mai Hoa, PGSTS, Hà Nội
345. Nguyễn Đức Huy, kỹ sư địa chất, TPHCM
346. Trần Đình Thắng, cựu giảng viên, TPHCM
347. Nguyễn Văn Thành, kỹ sư, TPHCM
348. Nguyễn Đình Sĩ, kỹ sư Xây dựng, Canada
349. Trần Thị Nga, CHLB Đức
350. Trần Vũ Việt Trung, kỹ sư, TPHCM
351. Trần Quốc Huy, giáo viên, TPHCM
352. Nguyễn Công Bình, nhà thơ, nhà báo,TPHCM
353. Tony Huynh, kỹ sư, Hoa Kỳ
354. Doãn Quốc Khoa, TS. KTS, Hà Nội
355. Phạm Vương Ánh, kỹ sư Kinh tế, cựu sỹ
quan QĐNDVN, Nghệ An
356. Trần Văn Tấn, kỹ sư, CHLB Đức
357. Nguyễn Hồng Khoái, chuyên viên Tư vấn Tài
chính, Hà Nội
358. Phạm Kỳ Đăng, làm thơ, viết báo, dịch
thuật, CHLB Đức
359. Đào Duy Từ, giáo viên về hưu, Pháp
360. Phan Tùng Giang, nghề kinh doanh, Hungary
361. Nguyễn Công Huân, biên tập viên trang Dân
Luận, Đan Mạch
362. Nguyễn Minh Khang, nhân viên vi tính,
TPHCM
363. Nguyễn Quang Đạo, cựu chiến binh QĐNDVN,
Australia
364. Lê Hùng Dũng, chuyên viên quan hệ khách
hàng doanh nghiệp, TPHCM
365. Hoàng Tuỵ, GS, Viện Toán học, Hà Nội
366. Nguyễn Tuấn Thiệp, kiến trúc sư, Hà
Nội
367. Vũ Văn Thịnh, bác sỹ, Thái Nguyên
368. Trần Văn Thọ, GS, Đại học Waseda, Nhật
Bản
369. Kim Ngọc Cương, chuyên viên kinh tế (đã
nghỉ hưu), Hà Nội
370. Trần Trung Sơn, nhà giáo nghỉ hưu, Khánh
Hoà
371. Trần Minh Đông, kỹ sư, Tuyên Quang
372. Trương Khánh Ngọc, kỹ sư Xây dựng, Huế
373. Lưu Trọng Đức, kỹ sư, Hà Nội
374. Lê Mai Quang Tuấn, kinh doanh, Giám đốc,
TPHCM
375. Lê Đình Đáp, kỹ sư Xây dựng, Hà Nội
376. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ Nha khoa, TPHCM
377. Nguyễn Minh Hồng, kế toán, Pháp
378. Lê Đức Quang, TS, giảng viên Đại học Huế,
Huế
379. Phạm Lưu Vũ, viết văn tự do, Nam Định
380. Phạm Ngọc Cảnh Nam, nhà văn, Đà Nẵng
381. Nguyễn Hoàng Vũ, nhân viên bán hàng, Bình
Dương
382. Bùi Quang Tín, designer and illustrator,
freelance, TPHCM
383. Cat Le Van, CHLB Đức
384. Hoàng Vũ Thuật, nhà thơ, nguyên chủ tịch
Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình
385. Vũ Trọng Khải, PGSTS, chuyên gia độc lập
về Kinh tế nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, nguyên Hiệu trưởng Trường cán
bộ Quản lý Nông nghiệp và Phát triển nông thôn II, TPHCM
386. Nguyễn Trung Lĩnh, kỹ sư, Hà Nội
387. Nguyễn Thị Kim Quý, giáo viên đại học,
Quảng Ninh
388. Phan Đăng Khoi, J.D, Hoa Kỳ
Đợt 4:
389. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Phó Bí thư
Đảng ủy Sở Văn hóa Thông tin TPHCM, TP HCM
390. Ngô Thanh Ngân, giáo viên, Hà Nội
391. Nguyễn Thị Nguyên Dung, nhân viên siêu
thị Lotte, Quảng Nam
392. Nguyễn Tiến Dũng, nhân viên văn phòng,
Quảng Ngãi
393. Nguyễn Thị Dương Hà, luật sư, Hà Nội
394. Hung Tran, kỹ sư, Project Manager tại
General Electric, Hoa Kỳ
395. Nguyễn Tấn Nhuyên, giám đốc, kinh doanh,
TPHCM
396. Trần Thu Thủy, nghỉ hưu, CHLB Đức
397. Trần Văn Cung, kỹ sư luyện kim, nghỉ hưu,
CHLB Đức
398. Nguyễn Thế Việt, Dr, TS Ngữ văn, CHLB Đức
399. Thích Không Tánh, trụ trì Chùa Liên Trì,
TPHCM
400. Phạm Hồng Nhật, kiến trúc sư, Đồng Nai
401. Trần Viết Tôn, bác sĩ, CHLB Đức
402. Nguyễn Thế Hùng, GSTS, Phó Chủ tịch Hội
Cơ học Thủy Khí Việt Nam, Đại học Đà Nẵng
403. Nguyễn Thị Vĩnh Diệp, Hoa Kỳ
404. Văn Quang Đạo, kỹ sư, Pháp
405. Nguyễn Mậu Cường, giảng viên trường Đại
học Bách Khoa Hà Nội và Đại học Agostinho Neto Angola, đã về hưu, Hà Nội
406. Tommy Ho, doanh nghiệp, Canada
407. Bao Nguyen, kỹ sư, Hoa Kỳ
408. Le Dinh Hong, kế toán hưu trí, Canada
409. Le Thi Nhan, nội trợ, Canada
410. Nguyen Thi Câm Chi, TS Sinh học Phân tử,
Pháp
411. Nguyễn Van Xoang, doanh nghiệp, CHLB Đức
412. Châu Hoài Thương, kỹ sư, Australia
413. Lê Ðang Thuy, Na Uy
414. Trần Thị Như Thủy, nghiên cứu viên khoa
học, Canada
415. Huỳnh Công Thuận, blogger, TPHCM
416. Trần Quốc Hùng, cựu giáo viên, TPHCM
417. Trần Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội
418. Đặng Kim Toàn, tư doanh, Hoa Kỳ
419. Nguyễn Quốc Bình, Phó Tổng giám đốc công
ty Tư vấn Kỹ thuật Môi trường, TPHCM
420. Vũ Hoàng Anh Bốn Phương, Hoa Kỳ
421. Phạm Văn Mầu, cán bộ hưu trí, Hà Nội
422. Vũ Mạnh Hùng, nguyên giảng viên trường
Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Thương mại, hiện là cán bộ quản lý khu nội trú của
trường, Hà Nội
423. Lê Hùng, cán bộ hưu trí, Hà Nội
424. Phạm Hồng Thắm, cán bộ Sở Khoa học Công
nghệ Hà Nội, nghỉ hưu, Hà Nội
425. Đaminh Lê Thanh Trưởng, linh mục, Đồng
Nai
426. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TPHCM
427. Đỗ Thị Bắc Giang, kế toán, TPHCM
428. Hoàng Anh Tuấn, kỹ sư Vật lý, doanh nhân,
Hà Nội
429. Dương Văn Vinh, cựu sĩ quan QĐNDVN, TPHCM
430. Thành Lê, TSKH, Hoa Kỳ
431. Lê Văn Oanh, kỹ sư Xây dựng, Hà Nội
432. Ngô Đăng Vinh, Hà Nội
433. Le Ba Thuong, Hoa Kỳ
434. Nguyễn Dương, thợ máy, Hoa Kỳ
435. Nguyễn Thanh Cường, kinh doanh, TPHCM
436. Tôn Thất Tấn, kỹ sư, Hà Nội
437. Nam Dao, nhà văn, Canada
438. Phạm Văn Hội, TS, giảng viên, học viện
Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội
439. Hồ Tú Bảo, GSTS, Viện Khoa học và Công
nghệ Tiên tiến, Nhật Bản
440. Hà Việt Giang, sinh viên, Hà Nội
441. Kiều Quốc Thư, giáo viên, Hà Nội
442. Nguyễn Thanh Bình, công nhân, Hoa Kỳ
443. Phạm Văn Lễ, kỹ sư Cầu đường, Quảng Ngãi
444. Trần Nguyên Vũ, kỹ sư Xây dựng, Đồng Nai
445. Nguyễn Thái Minh, Thái Nguyên
446. Nguyễn Kim, nhà văn, Bình Định
447. Nguyễn Hùng, Australia
448. Trương Kim Sơn, CHLB Đức
449. Nguyễn Anh Tuấn, kiến trúc sư, Hà Nội
450. Đoàn Viết Hiệp, kỹ sư điện, Pháp
451. Âu Dương Thệ, TS, chính trị học, CHLB Đức
452. Phạm Hoàng Phiệt, GS Y học, nghỉ hưu,
TPHCM
453. Lý Đăng Thạnh, người chép Sử, TPHCM
454. Nguyễn Xuân Bách, kỹ sư, CHLB Đức
455. Lê Thành Lâm, TS Sinh học, Anh
456. Hà Liên Phương, nghề tự do, Hà Nội
457. Nguyen Phuc Nguyen, kỹ sư nghỉ hưu, Hà
Nội
458. Chu Vĩnh Hải, nhà báo độc lập, hội viên
Hội Nhà báo Độc lập, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, TPHCM
459. Nguyễn Thị Ngọc Dung, sinh viên, TPHCM
460. Nguyễn Hoàng Hải, CHLB Đức
461. Nguyễn Bá Lơi, giáo viên đã về hưu, TPHCM
462. Uông Đinh Đức, kỹ sư cơ khí, nghỉ hưu,
TPHCM
463. Nguyễn Hồng Đức, nghệ sĩ, Hà Nội
464. Trần Ngọc Thành, Áo
465. Lê Gia Ninh, nhà giáo hưu trí, Huế
466. Mai Văn Hào, TS Vi sinh, Australia
467. Vũ Quốc Ngữ, Hà Nội
468. Hà Văn Thịnh, chủ nhiệm Bộ môn Đông
phương học, Đại học Khoa học Huế, Huế
Đợt 5:
469. Nguyễn Tiến Tài, nhà giáo hưu trí, Hà Nội
470. Nguyễn Việt Bách, hướng dẫn viên du lịch,
luật gia, Pháp
471. Quan Vinh, chuyên viên tin học, Italia
472. Cao Đoàn, kỹ sư, Hà Nội
473. Nguyễn Minh, kỹ sư tin học, CH Czech
474. Lê Văn Điền, tiến sĩ Toán vận trù, Ba Lan
475. Hoàng Hải, kỹ sư, Hà Nội
476. Lưu Vân Khương, kỹ sư, Italia
477. Nguyen Van Thanh, CHLB Đức
478. Phan Thế Vấn, bác sĩ, TPHCM
479. Nguyễn Thị Phương Hoa, giáo viên tự do,
TPHCM
480. Tạ Bắc Sơn, kỹ sư, Quảng Trị
481. Nguyen Tan Lac, blogger, Hoa Kỳ
482. Vo Nhan Tri, TS, nhà kinh tế, Pháp
483. Cao Minh Đức, CHLB Đức
484. Nguyễn Thị Diên, CHLB Đức
485. Trần Đắc Lộc, cựu giảng viên Đại học Khoa
học Huế, CH Czech
486. Trương Quang Tích, Quy Nhơn
487. Phong Trần, kỹ sư Điện tử, Hoa Kỳ
488. Nguyễn Minh Kính, cựu chiến binh, Hoa Kỳ
489. Nguyễn Trọng Thành, công dân Việt Nam,
kinh doanh, Lithuania
490. Nguyễn Duy Long, TS, giảng viên đại học
(assistant professor), Hoa Kỳ
491. Sơn Nguyễn, kỹ sư Hàng hải, Hoa Kỳ
492. Nguyễn Thế Hồng, kỹ sư, Italia
493. Lê Gia Vinh, TS, Canada
494. Vũ Mạnh Hùng, kinh doanh, Ba Lan
495. Nguyễn Vinh Khoa, sinh viên, CHLB Đức
496. Nguyen Thanh Binh, kinh doanh, CHLB Đức
497. Nguyễn Quyền, công nhân, CHLB Đức
498. Nguyễn Tuệ Hải, Australia
499. Đỗ Tuyết Khanh, thông dịch viên, Thuỵ Sĩ
500. Hồ Văn Tiến, kỹ sư Tin học, Thuỵ Sĩ
501. Đoàn Khắc Xuyên, nhà báo, TPHCM
502. Nguyễn Thịnh, đại diện tập thể những
người làm báo Xa Xứ, CH Czech
503. Nguyen Minh Dang, kỹ sư, TPHCM
504. Trần Văn Tiến, kinh doanh, CH Czech
505. Nguyễn Văn Thế, hội viên hội Cựu chiến
binh, Hà Nội
506. Quí Công Lê, kỹ sư, Australia
507. Mạc Văn Trang, nhà nghiên cứu Tâm lý học,
Hà Nội
508. Hanh Tran, Library Technician, Australia
509. Minh Chi To, hưu trí, Australia
510. Minh Tran, plumber, Australia
511. Thao Nguyen, process worker, Australia
512. Hoa Nguyen, process worker, Australia
513. Phuong Tran, student, Pháp
514. Thu Tran, accountant, Pháp
515. Nguyễn Hồng Tâm, kỹ sư Xây dựng, Nghệ An
516. Mặc Lâm, nhà báo đài Radio Free Asia, Hoa
Kỳ
517. Tạ Dzu, nhà báo tự do, Hoa Kỳ
518. Võ Công Duẩn, TS Hoá học, Anh
519. Trần Phương Dung, nghiên cứu sinh tiến sĩ
Đại học Kobe, Nhật Bản
520. Phan Cao Thiện, lao động tự do, Quảng
Bình
521. Phạm Minh Cầm, cựu giáo chức, Quảng Bình
522. Nguyễn Thị Hải Yến, TS, CHLB Đức
523. Hoàng Quý Thân, TS, Hà Nội
524. Hoàng Công, thạc sỹ Đo lường – Điều
khiển, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội
525. Thế Dũng, nhà văn – nhà thơ, CHLB Đức
526. Do Quang Tuyen, kỹ sư, Hoa Kỳ
Đợt 6:
527. Nguyễn Đăng Hưng, giáo sư danh dự thực
thụ (Professeur honoraire ordinaire), Đại học Liège, Bỉ
528. Martin Hagen, CHLB Đức
529. Nguyen Tuan Hiep, lao động tự do, Nghệ An
530. Lê Minh Hà, giảng viên Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội
531. Nguyễn Quang Tấn, giáo viên, TPHCM
532. Phan Đức Thông, hưu trí, CHLB Đức
533. Phạm Phú, kỹ sư, Hoa Kỳ
534. Trần Thanh Bình, kỹ sư, Italia
535. Phan Thị Mộng Huyền, nghỉ hưu, Italia
536. Trần Thị Quyên, nghề tự do, Quảng Nam
537. Sắc Võ, hưu trí, Hoa Kỳ
538. Lê Phước Nhất Sang, kế toán, TPHCM
539. Dương Tùng, nông dân, Bình Dương
540. Nguyễn Văn Dũng, TS Vật lý, trước đây làm
việc tại Viện Khoa học Việt Nam, Hoa Kỳ
541. Đặng Xuân Thanh, kỹ sư, Hà Nội
542. Đinh Huyền Hương, giáo viên hưu trí,
TPHCM
543. Nguyễn Chí Dũng, kỹ sư Xây dựng, TPHCM
544. Nguyễn Văn Tạc, giáo học hưu trí, Hà Nội
545. Nguyễn Văn Sỹ, đo đạc bản đồ, Hà Nội
546. Cao Xuân Lý, nhà văn, Australia
547. Hoàng Đức, nhà báo, Quảng Trị
548. Trịnh Dũng, kỹ sư, Hà Nội
549. Phạm Minh Đức, kỹ sư, Hà Nội
550. Lê Khánh Hùng, TS Công nghệ Thông tin, Hà
Nội
551. Tô Oanh, giáo viên Trung học phổ thông,
đã nghỉ hưu, Bắc Giang
552. Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo, TPHCM
553. Vũ Văn Thành, kiến trúc sư, Hà Nội
554. Mai Thanh Quân, TPHCM
555. Huyền Tôn Nữ Ngọc Hằng, kiểm tra chất
lượng sản phẩm, Hoa Kỳ
556. Phạm Như Mai, nhân viên kinh doanh, Hà
Nội
557. Phạm Xuân Vinh, thủy thủ, Hải Dương
558. Steve Nguyễn, Software Engineer, Hoa Kỳ
559. Nguyễn Việt Hà, kỹ sư, TPHCM
560. Lan Nguyễn, kỹ sư, Hoa Kỳ
561. Lê Văn Dũng, kỹ sư Xây dựng, Quảng Trị
562. Nguyễn Như Ngọc, kinh doanh tự do, TPHCM
563. Đỗ Thế, giảng viên, Đà Nẵng
564. Trần Huê, bác sĩ, CHLB Đức
565. Sa Huỳnh, kỹ sư Điện tử và Viễn thông,
CHLB Đức
566. Huỳnh Thị Xuân Mai, giáo viên, Vĩnh Long
567. Lê Hồng Hà, công nhân, Hoa Kỳ
568. Trương Văn Cừ, kỹ sư, CHLB Đức
569. Trần Văn Khoản, nghề nghiệp tự do, Bà Rịa
– Vũng Tàu
570. Lương Đức Vinh, sinh viên, Singapore
Đợt 7:
571. Phạm Xuân Phụng, Hà Nam
572. Kiều Thị Xin, TSKH chuyên ngành Khí
tượng, nguyên giảng viên trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội
573. Hồ Thanh Quỳnh, cựu giáo chức, Thanh Hóa
574. Võ Văn Rân, hưu trí, Hoa Kỳ
575. Hong Khac Kim Yen, Hoa Kỳ
576. Hoàng Thị Lệ Thủy, buôn bán nhỏ, Hà Nội
577. Trần Trọng Trung, kinh doanh, Hải Dương
578. Nguyễn Văn Quang, kiến trúc sư, Bạc Liêu
579. Lê Thị Minh Hà, vợ Nguyễn Hữu Vinh tên
thường gọi Anh Ba Sàm, Hà Nội
580. Hà Thị Thúy Hằng, thiết kế, TPHCM
581. Trần Công Biên, phóng Viên, Hà Nội
582. Hau Phamová, CH Czech
583. Nguyễn Thị Thu Hương, giảng viên đại
học, CH Czech
584. Trần Công, Hoa Kỳ
585. Lê Thắng, kinh doanh tự do, CH Czech,
586. Nguyễ̉n Quốc Vũ, IT, CH Czech
587. Đoàn Hòa, phiên dịch, chuyên viên, CH
Czech
588. Ngô Văn Phượng, bác sĩ, hưu trí, TPHCM
589. Nguyễn Phúc Thọ, cán sự kỹ thuật, Pháp
590. Trương Chí Tâm, cử nhân y khoa, TPHCM
591. Nguyễn Khánh Hưng, kiểm toán viên, Hoa Kỳ
592. Phan Hồng Công, kỹ sư, TPHCM
593. Trần Quốc Vũ, công nhân, CHLB Đức
594. Trịnh Xuân Sơn, hưu trí, hội viên Hội Cựu
chiến binh, Nghệ An
595. Dat Nguyen, engineer, Hoa Kỳ
596. Nguyễn Trung, nguyên trợ lý cố Thủ
tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội
597. Phan Anh Tuấn, nghiên cứu, Hà Nội
598. Trần Hữu Đức, bác sĩ thú y – buôn bán, Hà
Tĩnh
599. Trần Minh Kiệt, nghề nghiệp tự do, Cần
Thơ
600. Trương Minh Tịnh, giám đốc công ty
TITHACO PTY.LTD, Australia
601. Nguyễn Quang Ngọc, kỹ sư, Hà Nội
602. Võ Văn Ðiểm, Hoa Kỳ
603. Nguyễn Việt Anh, TS Công nghệ Thông tin,
nghiên cứu viên, Viện Công nghệ Thông tin, Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam, Hà Nội
604. Khải Nguyên, dạy học (hưu), viết văn, Hải
Phòng
605. Trần Nam Hùng, kỹ sư Điện, Hoa Kỳ
606. Hoàng Văn Thiên, chạy xe ôm, TPHCM
607. Huỳnh Văn Thắng, lao động tự do, TPHCM
608. Tư Đồ Tuệ, Canada
609. Trần Thanh Bình, kỹ sư xây dựng, Công ty
cổ phần Trung Đô, Nghệ An
610. Hoàng Minh Giang, nghiên cứu sinh tại Đại
học Okayama, Nhật Bản.
611. Nguyễn Tiến Đức, kỹ sư nghỉ hưu, TPHCM
612. Phạm Thanh Hằng, nội trợ, Australia
613. Nguyễn Hoàng Ánh, giáo viên, Hà Nội
614. Nguyen Ly, kinh doanh, CHLB Đức
615. Trần Thanh Mai, giáo viên, Pháp
616. Thương Việt Võ, Nga
617. Minh Nguyen, Geotechnical Specialist, Anh
618. Nguyễn Dương, lập trình viên, CH Czech
619. Trần Tử Vân Anh, giáo viên, TPHCM
620. Trần Công Khánh, hưu trí, Hải Phòng
621. Nguyễn Cảnh Hoàn, nghỉ hưu, CHLB Đức
622. Phan Tấn Hải, nhà văn, Hoa Kỳ
623. Nguyễn Thị Túy Vân, nội trợ, TPHCM
624. Vũ Văn Minh, bác sĩ, Thái Nguyên
625. Trần Tuấn Tú, giảng viên đại học, TPHCM
Đợt 8:
626. Nguyễn Đăng Nghiệp, nhà giáo hưu, TPHCM
627. Vũ Quốc Việt, nghỉ hưu, TPHCM
628. Lê Hoài Sơn, nhà nghiên cứu, TPHCM
629. Đỗ Đình Tuân, cựu giáo chức, Hải Dương
630. Nguyen Quang Tuyen, artist, Hoa Kỳ
631. Genie Nguyễn Thị Ngọc Giao, Hoa Kỳ
632. Lousiana Ho, System Engineer, Hoa Kỳ
633. Lê Thành Chung, kỹ sư Tin học, CHL Đức
634. Hoàng Thái Việt, kỹ sư Năng lượng, Hoa Kỳ
635. Nguyễn Hoàng Linh, quản lý dự án phần mềm,
TPHCM
636. Nguyễn Huy Dũng, Vũng Tàu
637. Lê Mỹ Hạnh, công chức về hưu, Pháp
638. Bùi Duy Thiện, tin học, TPHCM
639. Nguyễn Văn Dũng, kinh doanh thương mại,
CHLB Đức
640. Diệp Đình Huyên, cán bộ hưu trí, Đà Lạt
641. Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, nội trợ, Khánh Hoà
642. Đỗ Văn Trà, kỹ sư, Hà Nội
643. Nguyễn Huy Canh, giáo viên hưu trí, Hải
Phòng
644. Huong Phan, kinh doanh, Hoa Kỳ
645. Lê Ngọc An, cựu giáo viên, Đà Nẵng
646. Võ Hữu Minh, kỹ sư Hóa, TPHCM
647. Đỗ Quốc Văn, giảng viên Đại học Bạc Liêu,
Bạc Liêu
648. Vo Thi Huong, hưu trí, Hà Nội
649. Trần Thị Thúy Lan, nhân viên văn phòng,
Hà Nội
650. Toàn Nguyễn, kỹ sư, Hoa Kỳ
651. Phạm Minh Hoàng, nguyên giảng viên Đại
học Bách khoa TPHCM, TPHCM
652. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban
Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội
653. Nguyễn Phương Đông Sinh, Hà Nội
654. Nguyễn Bá Quân, TPHCM
655. Dang Tran Khanh, bác sĩ, TPHCM
656. Trần Đĩnh, TPHCM
657. Nguyễn Đình Quyền, kiến trúc/xây dựng,
Hoa Kỳ
658. Nguyễn Văn Đông, kỹ sư, Hà Nội
659. Nguyễn Hải Tùng, kỹ sư, Hoa Kỳ
660. Nguyên Hữu Tế, hưu trí, TPHCM
661. Nguyễn Thị Huế, kỹ sư kinh tế xây dựng,
Hà Nội
662. Văn Thy Trúc, kế toán, Lâm Đồng
663. Bùi Phan Thiên Giang, chuyên viên máy
tính, TPHCM
664. Trần Tuấn Tú, bác sĩ, Na Uy
665. Nguyễn Văn Phúc, kỹ sư Điện, Bình Định
666. Đinh Thái Hoàng Hiệp, học sinh, TPHCM
667. Đỗ Thành Long, giáo viên, TPHCM
668. Nguyễn Xuân Thu, kỹ sư, Hà Nội
669. Lương Xuân Rĩnh, hưu trí, Hải Dương
670. Huy Đức, nhà báo, Sài Gòn
No comments:
Post a Comment
Thanks