Đại Học chăn Trâu




Sunday 7 December 2014

'Hậu quả tai hại của Hội nghị Thành Đô'



'Hậu quả tai hại của Hội nghị Thành Đô'
Dương Danh DyNhà nghiên cứu Trung Quốc
  • 25 tháng 10 2014


Các ông Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười

...Hơn 20 năm sau Hội nghị Thành Đô, nay có dịp nhìn lại vấn đề, người ta sẽ thấy “ngộ” ra được một số điều mà ngay từ khi được phổ biến kết quả của Hội nghị, những người quan tâm đến tình hình đất nước lúc đó đã ít nhiều biểu thị sự không đồng tình.

Bước đầu, xin mạnh dạn công khai một số yếu kém của phía chúng ta, cũng như xin thẳng thắn đề cập tới một vài tác hại của những “quyết đoán” sai lầm khi đó đối với đất nước.
Nêu ra một số việc, không phải là muốn truy cứu trách nhiệm chính trị, hoặc nhằm bôi xấu, hạ thấp uy tín của một ai mà chỉ nhằm một mục đích: nếu không thấy hết những dại khờ, non yếu của chúng ta, không vạch trần những mưu ma chước quỷ của kẻ mà cho đến tận giờ phút này trong chúng ta vẫn còn có không ít ngưòi lầm tưởng họ là những đồng chí cộng sản, những người đang cùng chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sẽ là một nguy hại to lớn, lâu dài, tiềm ẩn đối với dân tộc.

Ngoài những nhân nhượng vô nguyên tắc về Campuchia như đã trình bày ở bài trước, phía Việt Nam đã không hề (hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc Chiến tranh Biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.
Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”.

Đó là những điều ngưòi viết bài này thu nhận được sau khi đã hỏi kỹ đồng chí phiên dịch và nói chuyện nghiêm túc nhiều lần với đồng chí Hồng Hà khi đồng chí còn sống tại một số cuộc họp và tại phòng làm việc của đồng chí tại số 2 Nguyễn Cảnh Trân và tại nhà riêng của tôi do đồng chí chủ động tới gặp.

Không dám hé một lời

Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh

Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thường hoá quan hệ hai nước nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu 'lấy làm tiếc' về hành động phi nghĩa của mình?

Nhượng bộ vô nguyên tắc này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dường như giành được 'vị thế chính nghĩa' trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính quy xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng sáu tỉnh biên giới Việt Nam.

Làm cho một bộ phận người trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: 'Việt Nam xua đuổi người Hoa', 'Việt Nam xâm lược Campuchia'… là đúng, việc thế giới 'lên án, bao vây cấm vận Việt Nam' là cần thiết, việc Trung Quốc 'cho Việt Nam một bài học' là phải đạo…trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme Đỏ, cứu nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.

Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc. Ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên.



Cuộc Chiến tranh Biên giới năm 1979 bị quên đi


Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để bôi xấu, xuyên tạc Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn người dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là 'vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát'...

Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc - tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học - tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông.

Cảm tình, ấn tượng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được.

Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến Đại hội 8 Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước Phương Tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”...

Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm.

Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưởng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam (lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)

Cần nói thêm, việc ngoan ngoãn chấp hành yêu sách gạt bỏ đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đã tạo điều kiện để từ sau đó, Bắc Kinh can thiệp ngày càng sâu hơn vào công tác cán bộ, nhân sự chủ chốt của đảng và nhà nước ta qua mấy kỳ đại hội Đảng (IX, X, và XI) nhằm có người thân Trung Quốc trong cơ cấu lãnh đạo cấp cao.


Quan hệ Việt - Trung đ̣ã trải qua nhiều bước thăng trầm

Quan hệ Việt - Trung đ̣ã trải qua nhiều bước thăng trầm
Việc tỏ ý không muốn thấy con trai đồng chí Nguyễn Cơ Thạch nêu trên chỉ là một ví dụ gần đây nhất.

Đây là việc chưa từng có trong Đảng ta. Chúng ta đều biết thời Bác Hồ, trong Đảng ta tuy có người này kẻ kia thân Liên Xô, thân Trung Quốc nhưng ngưòi nào cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành đường lối của Đảng, thời đồng chí Lê Duấn là người lãnh đạo chủ yếu đã không duy trì được nếp chung sống đó, nhưng bất kể là ai hễ thân Liên Xô, thân Trung Quốc trong đảng đều bị loại trừ.

Có thể nhận định thế này thế nọ về hiện tượng trên nhưng có một điều có thể khẳng định, thời đó nước ngoài và nhất là Trung Quốc, không thể trực tiếp thò tay can thiệp vào nội bộ Đảng ta nhất là vê công tác nhân sự tổ chức.

Nhưng từ năm 1991 đến nay, việc Trung Quốc can thiệp vào nội bộ ta đã hầu như đã diễn ra thường xuyên và chưa hề bị lên án. Phải chăng đã xuất hiện 'Nhóm lợi ích thân Trung Quốc' trong Đảng ta? Không giải quyết được tình trạng này thì hậu hoạn khôn lường.

Bài học bị dắt mũi nhớ đời
Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề.

Hội nghị Thành Đô đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả to lớn, cay đắng, nhục nhã...

Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà người viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?

1. Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước XHCN Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc.


 Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.


Lãnh đạo Việt Nam đã nhận định sai về vị thế quan hệ Trung - Xô

Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện Bức tường Berlin bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yeltsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Liên bang Nga, Gorbachev từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên.

Trong tình hình như thế mà lại chủ trương 'bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc', 'Mỹ và Phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản'.

"Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.” (trích Hồi ký Trần Quang Cơ)

Cần thấy rằng, trước đó Liên Xô là chỗ dựa về nhiều mặt của Việt Nam, tuy vậy phải nói thẳng ra rằng, so với Cuba thì Việt Nam tương đối ít lệ thuộc hơn. Thế nhưng trong khi Cuba phụ thuộc nặng nề vào Liên Xô, lại ở ngay sát nách Mỹ đã không tỏ ra hoảng hốt khi Liên Xô tan rã, và các bạn ấy vẫn hiên ngang đứng vững từ đó đến nay, Mỹ không dám can thiệp… thì Việt Nam đã phải vội vã quay sang tìm đồng minh ngay với kẻ đang là đối thủ nguy hiểm trực tiếp của mình chỉ vì cái đại cục chung chung, chỉ vì sợ mất chỗ dựa, sợ có thể mất chủ nghĩa xã hội, mất Đảng.

Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xảy ra sự kiện Thiên An Môn, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước Phương Tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự, có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ.

Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc 'dắt mũi' kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.


Lãnh đạo Đảng năm 1990 đã đánh mất bản lĩnh và trở nên sợ địch

Không thể không đề cập tới một vấn đề nữa là trong hơn 10 năm đối kháng, nhà nước Xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không từ thủ đoạn nào trong đối xử với nước ta, không những thế thái độ của họ trong đối xử với Liên Xô, trong đối xử với nước Ấn Độ láng giềng đồng tác giả với họ trong đề xướng 5 nguyên tăc chung sống hoà bình những năm trước đó.

Chẳng lẽ Ban lãnh đạo Việt Nam lúc đó lại không thấy chút nào?
2. Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh kiên cường, bất khuất, không sợ địch mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình trước kẻ thù, tuỳ tiện đổ lỗi cho người tiền nhiệm.

Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối cải cách và Đổi mới và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp 'vì chủ nghĩa xã hội', 'vì đại cục' của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.

Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi 'láng giềng bốn tốt', của 'những đồng chí' luôn rêu rao '16 chữ vàng' đang không ngừng vận dụng những thành quả cũ vào trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tương lai.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của nhà ngoại giao kỳ cựu Dương Danh Dy, hiện sống tại Hà Nội. Mời quý vị đọc bài trước 'Họp Thành Đô 'nguyên nhân và diễn biến'





Yếu kém trong hoạt động điều tra ở Việt Nam
Luật sư Ngô Ngọc TraiGửi tới BBC từ Hà Nội
  • 4 tháng 12 2014




Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc Giang đang mang tiếng xấu bởi đã gây ra vụ án oan cho ông Nguyễn Thanh Chấn.

Cũng chính cơ quan này trước đây từng bị một bị can khác là Hàn Đức Long tố cáo bức cung nhục hình khi điều tra vụ án giết người và hiếp dâm trẻ em xảy ra tại huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang từ năm 2005.

Ngay trong quá trình giải quyết vụ án, viện kiểm sát đã xác minh lời tố cáo của Hàn Đức Long nhưng rồi đi đến kết luận là việc tố cáo không có cơ sở.

Xác minh bằng cách nào?
Bị can khai rằng trong các lần đi hỏi cung đều bị điều tra viên đánh bằng hung khí là gậy lim dài 70cm bản rộng 03 ngón tay (thước thợ xây) và cờ-lê, bật lửa đốt râu, bút bi để đập bẻ ngón tay.

Để xác minh sự việc, cơ quan tiến hành tố tụng đã hỏi những phạm nhân bị giam giữ cùng phòng với Long và hỏi giám thị trại giam xem có việc Long bị đánh không.

Ngoài ra để củng cố quan điểm Long là thủ phạm, cơ quan điều tra đã hỏi những người từng giam giữ cùng phòng với Long, và những người này khai rằng đã từng nghe Long thừa nhận hành vi phạm tội.
Những lời khai đó được ghi lại thành biên bản và trở thành chứng cứ để giải quyết vụ án.
Trong khi đó thuộc tính quan trọng nhất của chứng cứ là tính khách quan.

Tại các mẫu biên bản ghi lời khai được ban hành đều có các mục thông tin làm rõ người được lấy lời khai có quan hệ thế nào với bị can, quan hệ thế nào với bị hại, có tư cách gì trong vụ án, đã làm gì ở đâu khi tội phạm xảy ra, sức khỏe và tinh thần có minh mẫn hay không… để từ đó xác định xem lời khai báo có độ tin cậy và khách quan hay không.

Tại các mẫu biên bản ghi lời khai được ban hành đều có các mục thông tin làm rõ người được lấy lời khai có quan hệ thế nào với bị can, quan hệ thế nào với bị hại, có tư cách gì trong vụ án, đã làm gì ở đâu khi tội phạm xảy ra, sức khỏe và tinh thần có minh mẫn hay không… để từ đó xác định xem lời khai báo có độ tin cậy và khách quan hay không

Vậy trong việc xác minh Long có bị đánh đập nhục hình không mà lại đi hỏi cán bộ quản lý trại giam là người chịu trách nhiệm bảo vệ tính mạng sức khỏe người bị giam giữ thì có hợp lý không?
Lẽ nào những người này thừa nhận mình có lỗi yếu kém trong công vụ khi để bị can bị đánh?
Những người bị giam giữ cùng phòng với Long không hề là nhân chứng của vụ án, thế thì tại sao lời khai của họ lại là chứng cứ sử dụng để kết tội?
Điều này cho thấy có sự nhận thức sai lệch nghiêm trọng về chứng cứ trong tố tụng hình sự.

Thực nghiệm điều tra
Lâu nay nói đến sai phạm trong hoạt động điều tra thường chỉ thấy nói đến vấn đề bức cung nhục hình.

Song đó không phải là tất cả và đừng đề vấn đề bức cung nhục hình vốn dễ gây phẫn nộ che lấp đi các vấn đề khác trong hoạt động điều tra.
Để thấy được điều này chỉ cần khảo sát qua nghiệp vụ điều tra ngay trong vụ án Hàn Đức Long.

Cơ quan điều tra quy kết Long là thủ phạm trong vụ án với hành vi tóm gọn như sau: Một chiều mùa hè, một cặp vợ chồng đi làm đồng về không thấy con gái đâu, mọi người đổ xô đi tìm, sáng hôm sau người đi làm đồng sớm phát hiện thấy xác cháu bé ngoài mương nước cánh đồng. Kết quả giám định pháp y cho thấy cháu bé bị hiếp trước khi bị giết chết.

Sau gần bốn tháng điều tra không tìm ra thủ phạm, cơ quan điều tra nhận được thư tố giác của hai mẹ con bà cụ cùng tố một người ở cùng thôn là Hàn Đức Long từng hiếp dâm mình.
Cơ quan điều tra bắt giữ Long, Long thú nhận đã hiếp dâm hai mẹ con bà cụ và thú nhận thêm mình là thủ phạm trong vụ giết hiếp cháu bé.

Kết luận điều tra nhận định chiều hôm xảy ra vụ án, Long đem ngô thóc đến quán xay xát, trong lúc chờ đợi đến lượt mình đã đi sang nhà cháu bé, thấy cháu ở nhà một mình Long bắt bế đưa cháu ra cánh đồng hiếp rồi đẩy cháu ngã xuống mương nước rồi quay trở lại quán xay xát như không có chuyện gì xảy ra.

Qua các lời khai cơ quan điều tra xác định Long phạm tội trong lúc chờ đợi hai người phụ nữ xay xát thóc.
Họ đã cho thực nghiệm điều tra xem thời gian hai người phụ nữ xay xát hết bao nhiêu lâu, có đủ để Long thực hiện hành vi phạm tội rồi quay trở về không.


Tình trạng bị cáo, phạm nhân kêu oan xảy ra khá thường xuyên trong các vụ án hình sự ở Việt Nam

Tính chính xác của công tác thực nghiệm điều tra


Có mấy vấn đề xung quanh việc thực nghiệm này.
Thời điểm bắt Long và tập trung điều tra về Long là đã bốn tháng kể từ ngày vụ án xảy ra. Vậy sau khoảng thời gian đó liệu những người xay xát thóc cùng có nhớ được hôm đó mình đã xát bao nhiêu kg thóc không?
Họ có thể nhớ được hôm đó có những người nào xay xát thóc, nhưng liệu có nhớ nổi thứ tự lần lượt từng người với tổng số gần chục người xay xát thóc không?
Sau bốn tháng, chủ quán xay xát khai rằng có sự khác nhau về điện áp và động cơ máy giữa hôm xảy ra vụ án và buổi thực nghiệm.
Hôm xảy ra vụ án điện lưới yếu nên trong hai động cơ xay thóc và chà gạo phải chạy từng động cơ một.

Chủ quán cũng đã thay động cơ máy mới.

Điều này dẫn đến tốc độ năng suất thay đổi và do vậy thời gian xay xát thóc sẽ khác nhau.

Với những dữ kiện thông tin sai lệch như thế liệu việc thực nghiệm có đảm bảo đưa đến số liệu chính xác hay không?

Không chỉ thế, cơ quan điều tra cũng thực nghiệm cho một người ôm một vật nặng tương đương cháu bé di chuyển trên quãng đường gây án (đi và về khoảng 1,7km) để xem lượng thời gian gây án có phù hợp với thời gian xay xát thóc của hai người phụ nữ không.
Nhưng vấn đề là tốc độ di chuyển trong khi thực nghiệm làm sao đúng khớp với sự di chuyển khi phạm tội?

Việc di chuyển khi phạm tội sẽ lúc nhanh lúc chậm bởi hung thủ còn phải quan sát nghe ngóng và tránh người phát hiện làm sao giống với lúc thực nghiệm?

Cháu bé là thực thể sống giẫy đạp đâu có im lìm như đồ vật thực nghiệm?
Như thế tốc độ di chuyển của khi thực nghiệm sẽ khác với tốc độ di chuyển hôm phạm tội.

Vận tốc khác nhau thì thời gian sẽ khác nhau, vì thời gian là kết quả của phép chia quãng đường cho vận tốc.

Ngoài vấn đề di chuyển còn có giai đoạn bị can hiếp dâm và xuất tinh ra ngoài, khoảng thời gian này thì làm sao tính đếm được bao lâu để có thể tính được tổng thời gian thực hiện hành vi phạm tội là chừng nào?

Bất chấp bao nhiêu sai lệch trong các dữ kiện, cơ quan điều tra vẫn tiến hành hoạt động thực nghiệm điều tra từ đó cho ra kết quả làm căn cứ để định đoạt mạng sống người khác.
Cơ quan điều tra thu giữ được ở hiện trường một số lông và tinh dịch nhưng lại không giám định cho ra được kết quả.

Về tinh trùng thì kết luận giám định cho rằng lượng dấu vết ít và chất lượng vết kém nên không thu giữ được gen.

Thực tế lâu nay người ta dễ dàng hóa giải quy định [không được sử dụng lời khai nhận tội của bị cáo là bằng chứng duy nhất để kết tội] bằng các quy định lỏng lẻo về chứng cứ.
Về lông thì kết luận lông thu được ở hiện trường là lông người, trong đó chỉ có một sợi có gốc nhưng ít tế bào gốc nên không phân tích được gen.

Như vậy những gì thu thập được không giúp tìm ra được thủ phạm.
Cũng tức là không có vật chứng chứng minh thủ phạm.
Không có vật chứng và cũng không có nhân chứng. Vậy thì dựa vào đâu để chứng minh tội phạm?
Trong vụ án này chính xác thì cơ quan tố tụng chỉ dựa vào duy nhất lời khai nhận tội của Hàn Đức Long để kết tội.

Trong khi đó pháp luật hiện tại quy định không được sử dụng lời khai nhận tội của bị cáo là bằng chứng duy nhất để kết tội.
Nhưng thực tế lâu nay người ta dễ dàng hóa giải quy định ràng buộc này bằng các quy định lỏng lẻo về chứng cứ.

Theo đó những tài liệu điều tra như lời khai của những người bị giam giữ cùng phòng với Long cũng là chứng cứ được sử dụng, mặc dù họ không hề tồn tại ở không gian và thời gian xảy ra vụ án.
Và những thứ mặc dù không giúp chứng minh được tội phạm nhưng cũng được coi là chứng cứ như tinh dịch và lông tóc trong vụ án này.

Vấn đề và giải pháp
Chỉ khảo sát trong một vụ án thôi mà đã bộc lộ ra rất nhiều vấn đề về chất lượng trong hoạt động điều tra.
Và đây không chỉ là vấn đề tồn tại của riêng cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc Giang mà là vấn đề cần soi xét đối với hệ thống cơ quan điều tra cả nước.

Cho nên cần lưu ý rằng nguyên nhân gây ra oan sai không chỉ là vấn đề bức cung nhục hình mà còn nhiều nguyên nhân khác nữa.
Trong quá trình bào chữa các luật sư đều nêu ra các bất cập trong hoạt động điều tra, nhưng vấn đề lại mang bản chất vĩ mô, đòi hỏi sửa đổi quy định pháp luật và thay đổi lại nhận thức và không thể giải quyết trong phạm vi một vụ án. Chẳng hạn như cần tư duy lại khái niệm thế nào là chứng cứ.


<

No comments:

Post a Comment

Thanks

Featured post

Lisa Pham Vấn Đáp official 8/6/2023

Popular Posts

Popular Posts