Đại Học chăn Trâu




Thursday, 31 May 2018

NỌC ĐỘC CỦA TƯ TƯỞNG NÔ LỆ VỌNG NGOẠI PHI DÂN TỘC





Dẫn nhập: Chủ nghĩa thực dân người ta hay nhắc đến hiện nay để chỉ một giai đoạn lịch sử từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 20 khi người châu Âu tiến hành những cuộc viễn chinh xâm lược xây dựng các thuộc địa của mình tại các lục địa khác để mở rộng thị trường, gia tăng uy quyền quốc gia. trốn thoát sự ngược đãi tại mẫu quốc, truyền bá Giáo lý Cơ đốc nhằm nô dịch tinh thầnngười dân của quốc gia bị họ chiếm đóng. Bọn thực dân và lũ truyền  giáo phương Tây kiêu ngạo tự cho rằng họ đã giúp đỡ bằng cách "khai hóa văn minh" cho dân bản xứ về chủ nghĩa nhân đạo, tinh thần bác ái, trọng danh dự và sống có trách nhiệm. Nhưng thực tế cho thấy bản chất của chế độ thực dân từ cổ sơ cho đến cận đương đại vẫn chỉ là cướp của, giết người và cách thức khai hóa bằng súng đồng, giày đinh, lưỡi lê với thành tích những vụ thảm sát  kèm theo tệ nạn biến người dân từ các nước châu Phi thành hàng hóa bán sang châu Mỹ trong hơn ba thế kỷ, bọn thực dân đã bức hại nhược tiểu da vàng, tận diệt dân da đỏ, hành hạ dân da đen cấy sâu những mầm mống phản dân tộc vào trong lòng các dân tộc để phân hóa nội bộ các dân tộc trong mục đích nô dịch cả nhân loại. Nhân đọc bài viết rác rưởi "Thực dân Pháp tốt hay xấu?" được đài RFA phổ biến, chúng tôi không thể ngồi yên bỏ mặc cho hành động vô liêm sỉ, thái độ vong ơn, vong bản, tư tưởng vọng ngoại phi dân tộc, phản dân tộc và phản quốc ngụy trang dưới hình thức chỉ trích nhà cầm quyền cộng sản nhưng thực ra tấn công trực diện vào tinh  thần dân tộc, ca tụng bọn thực dân Pháp cướp nước và những tên gián điệp Thiên Chúa Giáo môt cách lố bịch, tác hại, đầu độc tinh thần tư tưởng giới trẻ đương đại trong nước cũng như hải ngoại và đó là nguyên nhân có bài viết này, mời độc giả theo dõi.

NỌC ĐỘC CỦA TƯ TƯỞNG
NÔ  LỆ VỌNG NGOẠI
PHI DÂN TỘC

Vào ngày 2018-05-25  đài phát thanh điền thế RFA chọn đưa lên blog của đài một bài viết với cái tựa đề “Thực dân Pháp” tốt hay xấu?”  khiến chúng tôi thật sự ngỡ ngàng vì sự ngu dốt của ban biên tập và ban giám đốc của đài này trở thành thái độ vô liêm sỉ, vong ơn, phi dân tộc trong việc nhận thức về chủ nghĩa thực dân phát sinh trong thời kỳ các nước quân chủ Âu Tây bước vào cuộc cách mạng khoa học về kỹ thuật và sản xuất. Thời đại thực dân là thời đại lộng hành của bọn quỷ sứ da trắng. Tội ác của chủ nghĩa thực dân Âu Tây đối với nhân loại còn kinh khủng hơn cộng sản gấp nhiều lần, nhưng do bọn da trắng Âu tây này cấu kết chặt chẽ để chạy tội nên chúng đã nhấn chìm và bưng bít tội ác đã thực hiện khi tranh nhau đem quân đi xâm lược, cướp bóc giết hại con người của các quốc gia lạc hậu, nhược tiểu tại các châu Á Úc, Phi, Mỹ.


Tư tưởng thực dân là cái bóng lớn đồng hành với các thế lực gieo rắc tội ác suốt tiến trình phát triển của nền văn minh nhân loại chất chứa căn  tính bạo ngược, bản chất man rợ của bọn kẻ cướp. Từ khi loài người ở khắp nơi quần tụ thành lập nên những quốc gia thì việc quốc gia này xâm chiếm cai trị quốc gia khác đều mang tính thực dân. Nhưng loại thực dân nhân loại quen nói đến hiện nay khởi đầu từ năm 1415 khi Bồ Đào Nha chiếm được hải cảng Ceuta của người Hồi giáo tại Bắc Phi, sau đó chủ nghĩa thực dân phát triển qua các cuộc thám hiểm châu Mỹ, bờ biển châu Phi, Trung Đông, Ấn Độ và Đông Á của hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Đó là nguyên do những đoàn  thám hiểm được tổ chức lên đường Christophe Columbus tìm ra châu Mỹ và đem tới tai họa khủng khiếp cho lục địa này vì  bản chất man rợ phi nhân của bọn da trắng châu Âu chịu ảnh hưởng từ những cuộc Thập Tự Chinh Thiên Chúa Gíao đã tác oai, tác quái gieo rắc tai họa lên đầu những người dân của các quốc gia châu Mỹ, Á, Phi còn chìm đắm trong hình thái sinh sống, lao động lạc hậu bán khai qua những cuộc tàn sát đẫm máu trong chiến tranh xâm lược.
Nếu chủ nghĩa thực dân là tốt, châu  Phi đã không mất đi 100 triệu người bị bắt cóc bán làm nô lệ ở châu Mỹ trong ba trăm năm từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 và thực dân Anh đã không bị những lực lượng cách mạng do George Washington lãnh đạo đánh đuổi khỏi Bắc Mỹ để có Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ ngày nay, và đến hậu Đệ Nhất Thế Chiến từ 1918 – 1939  toàn thể lục địa Á châu đều bùng lên tinh thần giải thực và phong trào độc lập dân tộc ở các thuộc địa trỗi dậy mạnh mẽ dẫn tới những cuộc cách mạng rồi kháng chiến gian khổ chỉ với mục đích cuối cùng đánh đuổi bằng được các lực lượng viễn chinh Âu châu xâm lược tàn ác, bóc lột ra khỏi lãnh thổ của họ. Thề giới đã chứng kiến hầu như tất cả các dân tôc bị trị đều quyết tống cổ bọn thực dân xâm lược ra khỏi  đất nước dù đó là Vương Quốc Anh, Cộng Hòa Pháp, Vương Quốc  Hòa Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha hay chính là Cộng Hòa Liên Bang Hoa Kỳ như ở Phi Luật Tân chẳng hạn. Nhân loại đã kết thúc chủ nghĩa thực dân bằng cách vứt nó vào sọt rác lịch sử không chút áy náy. Chủ nghĩa thực dân không bao giờ được các dân tộc thuộc địa thừa nhận  là… tốt. Chỉ có những  loại bồi bút vô minh làm việc ở đài phát thanh điền thế RFA công nhận là TỐT bằng cách đưa lên một bài viết đặt ra câu hỏi vớ vẩn “Thực dân Pháp tốt hay ,,, xấu” và tự trả lời.
Riêng với việc thực dân Pháp nếu một người Việt Nam có đọc sách sử đều đã biết………
Người Pháp đã mở màn cuộc chiến xâm lược Đại Nam từ năm 1858 hậu bán thế kỷ thứ 19, nhưng tính từ năm 1867 khi Phan Thanh Giản lợi dụng được đảm nhiệm việc thương nghị đã phản lại nhà Nguyễn, tự ý cắt nhượng cho Pháp sáu tỉnh Nam kỳ trở thành lãnh thổ đầu tiên Pháp chiếm được trong quá trình xâm lược Đại Nam, việc làm này chẳng khác gì cho giặc Pháp thấy triều đình Đại Nam không có khả năng tự vệ. Dĩ nhiên sau đó toàn bộ lãnh thổ rơi vào tay giặc Pháp đúng như tiên kiến. Suốt thời gian gần một thế kỷ, không biết bao nhiêu nghĩa sĩ ái quốc đã ngã xuống trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để vãn hồi độc lập tự chủ cho nước nhà.
80 năm dân tộc Việt Nam đã chứng kiến quá nhiều sự lật lọng phản bội của Nguyễn triều hèn nhát từ khi Hàm Nghi xuất bôn phát hịch Cần Vương rồi những việc phế lập tại triều đình Huế đã biến những kẻ cầm mệnh nước trở thành “bù nhìn giữ dưa” cho quân xâm lược, phản bội lại tinh thần phò vua giúp nước của quốc dân do các sĩ phu, hào kiệt dẫn dắt. Tất nhiên những gì bọn thực dân Pháp cướp nước đem đến trong thời kỳ xây dựng guồng máy cai trị và đàn áp, khai thác, cướp bóc tài nguyên Đại Nam là một luồng gió văn minh hơn hẳn thời kỷ “bế quan tỏa cảng” của triều đình hủ lậu nhà Nguyễn nhưng mở mồm, ngoác miệng phát ngôn hay gõ máy viết lên câu hỏi   “Thực dân tốt hay xấu?” rồi tự trả lời là “…tốt” đã cho thấy tâm địa và bản chất phi dân tộc, phản dân tộc, phản quốc của tác giả và những kẻ đồng tình quảng bá. Bầy đàn ngu dốt này không khác gì những kẻ đã vẽ đường, chỉ điểm và làm tay sai cho giặc Pháp chiếm đất nước Đại Nam, giết hại những nghĩa sĩ, anh hùng, hào kiệt, sĩ phu của dân tộc. 


Chúng tôi tạm nêu ra một số tên trong muôn nghìn người ái quốc như Trương Công Định, Tán Thuật, Nguyễn Tri Phương, Hoàng  Diệu, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám, Phạm Hồng Thái,Trần Trung Lập, Nguyễn Thái Học và 13 liệt sĩ Yên Bái mà ngay cả những pho “nô lệ sử” của Nguyễn Triều do các “sử nô” biên soạn theo lệnh bề trên là giặc Pháp cũng vẫn phải ghi lại. Thực dân  Pháp không ban phát gì cho người dân Việt Nam ngoài những phát đạn vào đầu, những nhát lê đâm vào cơ thể Việt Nam.

Ngoài tác giả và đám bút nô trong đài RFA đồng tình khen thực dân Pháp tốt? Ai dám bảo thực dân Pháp là tốt? Thực dân Pháp tốt tại sao suốt 80 chục năm tuy dân tộc Việt Nam phải sống dưới ách cai trị, kiểm soát của giặc Pháp vẫn không ngừng chống Pháp. Đọc tác giả bài viết tâng bốc công lao của thực dân Pháp qua việc xây dựng các công trình kiến trúc trong thời kỳ Pháp thuộc, ca tụng "phương Tây họ có chủ nghĩa nhân đạo, có danh dự, có tinh thần trách nhiệm" một cách ngu dốt và vô liêm sỉ, chúng tôi thực sự tội nghiệp cho con người vong bản, vong thân này vì chúng tôi là người đã ra đời ở miền Bắc, chạy giặc cộng sản vào Nam nhưng chưa bao giờ chúng tôi cảm thấy tự hào về những kiến trúc tầm thường do người Pháp xây dựng nhằm phục vụ cho công việc củng cố guồng máy cai trị, khai thác thuộc địa Đại Nam. Thực tế cho thấy không bọn thực dân nào xây dựng ở thuộc địa những cơ sở mang tầm vóc vĩ đại hơn mẫu quốc của chúng vì bọn thực dân Âu Tây xâm lược chỉ nhằm giết người, cướp của để làm giàu chứ không nhằm mục đích khai hóa các dân tộc bị trị.
Nói đến khai hóa có nghĩa là nói đến vấn đề giáo dục người ta phải hiểu rằng đó chỉ là một công việc bất khả kháng. Bọn thực dân phải xây dựng trường học, nhà thờ,  không phải nâng cao dân trí cho dân bi trị vì mục đích sau cùng của nền giáo dục đó là tạo ra những người thợ có tay nghề để làm ra sản phẩm tốt, đào tạo ra đám quan lại tay sai bản xứ cai trị giúp cho sự trường tồn của thực dân trên thuộc địa.
Trong hoàn cảnh và điều kiện triều đình không giữ nổi chủ quyền để giữ lại nhà cửa, mộ phần tổ tiên để thờ phượng, đất đai ruộng vườn để thâm canh nuôi sống những người đi chiến đấu nên người dân Việt Nam vẫn phải sống chung với kẻ thù và bọn phản quốc trên cùng một mảnh đất chờ thời khắc quyết định của lịch sử để quật khởi đánh đuổi bọn ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. 
Đã sinh ra là người Việt kể cả những những kẻ thất học không được đến trường cũng biết bốn câu thần thi.

Nam quốc sơn hà Nam Đế cư.
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Hơn ai hết chính chúng tôi là người hiểu rất rõ "chủ nghĩa nhân đạo, danh dự và trách nhiệm của phương Tây" chứ không phải  những người hoàn toàn mù tịt về những việc làm sâu kín của người Pháp hay người Mỹ.
Đích thân tôi đã dậy cho chính quyền Hoa Kỳ một bài học về danh dự và trách nhiệm, công lý và nhân đạo trước đây 23 năm vì họ đã bất nhân, vô trách nhiệm và cư xử mất danh dự khi đã bỏ mặc chúng tôi trong nhà tù cộng sản và hồ sơ tài liệu phim ảnh vẫn còn lưu lại trên websites www.chinhnghia.com
Đối với những chủ nghĩa, tín điều đã tàn hại dân tộc trong gần hai thế kỷ đã qua, dân tộc Việt Nam muôn đời không được phép tha thứ, không được phép quên. Hình ảnh thủ cấp của 13 liệt sĩ, nạn đói xảy ra trong năm 1945 cướp đi hơn hai triệu sinh mạng đồng bào của chúng ta mà thủ phạm là thực dân Pháp và phát xít Nhật, mỗi khi nhìn thấy hay nhắc đến là máu Việt lại sôi lên.
Chúng ta treo những tội ác của bọn xâm lược trong lịch sử cho hậu thế ghi nhớ soi sáng lương tri để đừng bao giờ đánh mất độc lập chủ quyền thêm một lần nữa. "Lịch sử đã chứng minh, không một đám ngoại nhân nào yêu thương đất  nước, dân tộc của chúng ta nếu chúng ta không biết yêu thương lấy đất nước và dân tộc của mình. Dân tộc Việt Nam phải tự quyết định lấy vận mệnh của mình chứ không thể vanna2i, cầu xin được trở thành quân cờ phục vụ cho lợi ích của ngoại bang và thế lực quốc tế." Kim Âu 
Chỉ những kẻ vô liêm sỉ, phi dân tộc, phản dân tộc, đánh mất phẩm giá làm người mới có thể ca ngợi bọn thực dân cướp nước hay ca tụng ơn đức của bọn gián điệp đội lốt truyền đạo trong việc tạo ra chữ quốc ngữ dùng ký tự Latin, ca tụng thực dân Pháp, chê bai dân tộc của mình qua những mẩu chuyện vu vơ, nhặt nhạnh nơi quán xá ven đường.
Thế hệ tuổi trẻ đương đại cần nhận thức sáng tỏ rằng: "Chúng ta học hỏi khoa học kỹ thuật tiến bộ, lĩnh hội văn minh của nhân loại để cải cách binh bị, canh tân kinh tế, sản xuất nhưng về mặt văn hóa không có một học thuyết, chủ nghĩa hay một tôn giáo ngoại lai nào tốt đẹp phù hợp với văn hóa dân tộc như những di sản tinh hoa trí tuệ của tiền nhân để lại. Dân tộc ta phải học hỏi để theo kịp với nếp sống, làm việc văn minh nhân loại nhưng không học để đánh mất nền ta3ng văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc".  Kim Âu
Vấn đề  mẫu tự quốc ngữ hiện nay như ván đã đóng thuyền nên chúng tôi không muốn lạm bàn nhưng thiết tưởng cũng nên nói rõ rằng “ký tự Latin chỉ là phương tiện tạo âm chứ không phải là nội dung, bản chất của ngôn ngữ ,văn hóa Việt Nam”.
Bản chất của văn hóa dân tộc rất khó thay đổi, thay thế nhưng phương tiện thì có thể tạo ra cái khác tốt hơn để thay thế dễ dàng.
Truyện Kiều bản nôm hay bản quốc ngữ vẫn là Truyện Kiều chứa đựng tải hoa ngôn ngữ ‘Lời lời châu ngọchàng hàng gấm thêu của Nguyễn Du xuất hiện vào thời Tây Sơn, chữ Nôm được thịnh hành. Chữ Nôm có gốc từ chữ Hán biến chế ra, chưa rõ.xuất hiện đầu tiên vào thời nào ở nước ta nhưng vào năm 1279-1293 thời Trần, sĩ phu đã dùng chữ Nôm làm thơ Đường luật, do Hàn Thuyên khởi xướng. Chữ Nôm từ đó được phổ biến, song cũng chỉ trong dân gian dùng mà thôi, còn các giấy tờ nơi cửa công đều dùng Hán tự. Đến đời nhà Hồ (1400-1407), chữ Nôm mới được các cơ quan chính quyền dùng vào việc thảo văn tự công, nhưng khi nhà Hồ mất, chữ Nôm cũng mất địa vị. Thời vua Quang Trung cho phục hồi lại chữ Nôm, coi đây là Quốc tự, Ngôn ngữ chính thức được sử dụng là tiếng Việt và  hệ thống chữ Nôm được sử dụng viết toàn bộ các văn kiện hành chính, trong các văn bản của quốc gia. Quang Trung quy định các bài hịch, chiếu chỉ phải soạn bằng chữ Nôm; đề thi viết bằng chữ Nôm, và các sĩ tử phải làm bài bằng chữ Nôm. Ông còn chủ trương thay toàn bộ sách học chữ Hán sang chữ Nôm nên năm 1791 đã cho lập “Sùng chính viện” để dịch kinh sách từ Hán sang Nôm. Việc Quang Trung loại bỏ vai trò chính thức của Hán tự thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của nước ta. Như vậy Chữ Nôm là chữ viết của thời kỳ độc lập và quốc ngữ mẫu tự Latin là của thời kỳ nô thuộc.
Đọc nhiều bài hô khẩu hiệu của những người nông nổi, dở điên, dở khùng kêu gọi không dùng chữ Hán Việt để chống  Hán hóa. Chúng tôi chán ngán cho sự đần độn của họ vì từ Hán Việt cũng viết bằng chữ quốc ngữ nào có dính dấp đường nét nào của Hán tự mà phải loại bỏ trong khi tự điển Hán Việt có đến hơn 70,000 từ. Một khi đã chống Hán hóa thì cũng phải chống luôn Âu hóa, chống luôn việc dùng chữ quốc ngữ đánh vần bằng mẫu tự Latin do bị thực dân Pháp cưỡng ép phải  dùng.
Người Việt Nam vì mất nước, bị đô hộ nên buộc phải tuân theo lệnh của thực dân Pháp sử dụng loại chữ do các nhà truyền giáo chế tác để giảng đạo. Nếu muốn loại bỏ mẫu tự Latin để không vướng mắc quá khứ nô thuộc chỉ cần những người cầm  quyền ký lệnh thay thế như thực dân Pháp đã loại bỏ chữ Hán và chữ Nôm khi họ đè đầu, cưỡi cổ, áp bức dân tộc ta là xong. Vài chục năm sau là hệ thống chữ quốc ngữ sẽ trở thành cổ tích. Tuy nhiên đó là phương tiện đơn giản dễ học chúng ta cứ sử dụng không cần câu nệ bởi vì không ai đòi bản quyền khỏi bàn tới chuyện ơn huệ vì trong quá khứ cả hai bên cùng có lợi.
Tiện đây chúng tôi cũng khai hoang não bộ cho những kẻ ngoa ngôn cũng như đám bồi bút ở RFA biết rằng, việc sử dụng chữ quốc ngữ hiện nay là bằng chứng về âm mưu đồng hóa tuyệt đối xóa trắng di sản chữ Nôm đã có từ 800 năm trước của bọn  thực dân và đám linh mục chỉ điểm. Nguyên nhân chính bởi  nhà Nguyễn đã biết hiểm họa sẽ đến từ bọn truyền giáo phương Tây nhưng chủ trương và chính sách cấm đạo dở dang, nửa vời, không tận diệt được những kẻ phi dân tộc, phản dân tộc và phản quốc để mất nước vào tay giặc Pháp và bọn linh mục thừa sai Thiên Chúa Gíao, nhà Nguyễn mất quyền cai trị mà còn gây ra đại họa đưa dân tộc vào vòng nô lệ ngoại bang cả thể xác lẫn tinh thần.
Lý luận cho rằng chữ quốc ngữ giúp cho dễ tiếp thu, hội nhập với văn minh phương Tây chỉ là thứ lý lẽ cùn vì Nhật Bản,Triếu Tiên, Trung Hoa, Đài Loan, Ấn Độ, Thái Lan, Ả Rập và hầu như toàn bộ các dân tộc và quốc gia khác không hề thay đổi chữ viết vẫn đứng trên Việt Nam nhiều bậc về khoa học, kỹ thuật cũng như nếp sống văn minh hiện đại. Ngày nay thiết tưởng dân tộc Việt Nam nên thức tỉnh để thấy rõ sở dĩ dân tộc ta chìm đắm trong đói nghèo, lạc hậu lâu dài suốt gần hai thế kỷ qua chính vì sự xâm lăng của chủ nghĩa thực dân Pháp, chủ nghĩa cơ đốc và chủ nghĩa cộng sản. Ba thứ chủ nghĩa ngoại lai này xâm nhập tàn hại xã hội, văn hóa, đời sống tinh  thần và vật chất, tài nguyên của dân tộc ta đến khánh kiệt.
Nhìn sang Nhật Bản chúng ta thấy rõ nhờ vào quyết định sáng suốt cấm truyền giảng Thiên Chúa Giáo của tướng Toyotomi Hideyoshi năm 1587. Sau khi chính quyền chuyển đổi về tay tướng quân Tokugawa Ieyasu thì ông ta đã nghiêng theo hướng cấm đạo, nhưng có lúc lợi nhuận khổng lồ từ hoạt động giao thương, mậu dịch với các tàu buôn Tây dương khiến Ieyasu đã bị mua chuộc để ngầm công nhận việc truyền giáo.Tuy nhiên, từ năm Keicho thứ 18 (1613), sau khi công bố công văn trục xuất các giáo sĩ do nhà sư Suden (Sùng Truyền), một cận thần soạn thảo thì ông đã quyết định cấm Thiên chúa giáo triệt để.
Văn bản trục xuất đó chính danh lý luận:“Nhật Bản vốn là Thần quốc” và cho rằng, cần phải cấm Thiên chúa giáo vì tôn giáo này sẽ phá hoại trật tự xã hội Nhật Bản vốn được coi là Phật quốc và Thần quốc. Như vậy, cuối cùng Thiên chúa giáo đã bị đào thải, không thâm nhập được vào trong trật tự của Thần Phật.
Nhiên hậu các thề hệ Mạc phủ nối tiếp đã triệt hạ tận gốc bọn phản quốc, phi dân tộc theo Thiên Chúa Giáo ở Nhật Bản, xóa bỏ ttình trạng thôn tính tôn giáo, trục xuất bọn đội lốt truyền giáo lén lút làm gián điệp cho Tây phương  nên nước Nhật tránh khỏi bị xâm chiếm và thực dân hóa, vẫn giữ được bản sắc dân tộc, chữ viết; đến khi Minh Trị Thiên Hoàng tiến hành cải cách binh bị, canh tân đất nước; chỉ trong vòng ba chục năm Nhật Bản trở thành một cường quốc kinh tế, quân sự đánh bại lục quân Nga ở  Mãn Châu, xóa sổ hai hạm đội Nga ở Lữ Thuận, Phụng Thiên, Đối Mã, từ đó được coi là một cường quốc hiện đại đầu tiên của châu Á sánh ngang các quốc gia Âu Tây..
Trong thời đại Thiên Hoàng Minh Trị, Phật giáo Nhật Bản cũng trải qua một cơn bão táp, bị trấn áp một cách dữ dội, bởi lẽ tôn giáo này là một yếu tố nền tảng của chính quyền Mạc phủ - một chế độ đã thao túng triều đình Thiên hoàng trong nhiều thế kỷ. Chính vì thế mà sau khi loại  bỏ được chế độ Mạc Phủ thu hồi quyền lực hoàng gia, Thiên hoàng Minh Trị đã tỏ thái độ kỳ thị, xem Phật giáo là một "tôn giáo ngoại lai". Minh Trị quyết định lấy Thần đạo làm tôn giáo chính thức của Nhật Bản, triều đình lấy hệ tư tưởng Nho giáo làm giềng mối cho nền chính trị, cho công cuộc phát triển kinh tế, khoa học-kỹ thuật theo cơ cấu các quốc gia phương Tây. Đối với Ki-tô giáo, Thiên hoàng chấm dứt việc trấn áp đối với các nhà truyền giáo cũng như tín đồ tôn giáo này.
Tháng tư năm 1871, niên hiệu Minh Trị thứ ba, theo lệnh của Thiên hoàng, mọi tăng ni bị ép buộc phải ăn mặn, không được cạo trọc đầu, lại còn phải kết hôn giống như người bình thường. Năm tháng sau, Thiên hoàng lại hạ lệnh không cho sư sãi lấy họ "Thích" như sư sãi ở các nước khác, mà phải dùng họ do cha mẹ đặt. Sau đó, nhận thấy những vụ trấn áp dữ dội đối với Phật giáo không đem lại một điều tốt lành gì mà chỉ làm cho đất nước rối bời, ông bèn làm nhân dân yên lòng bằng tuyên bố rằng Triều đình không có ý muốn triệt hạ Phật giáo, đó chỉ là ý muốn của giới lãnh đạo các địa phương và các tín đồ Thần đạo. Lúc đó hơn 1320 ngôi chùa đã bị hủy hoại.... sau đó các học giả thuộc những tông phái sang các quốc gia phương Tây, để học hỏi chính sách tôn giáo. Khi trở về, họ đã phản đối lại những chính sách phân biệt đối xử với Phật giáo của các lãnh đạo thời Minh Trị. Họ kiến nghị mong muốn được tự do tôn giáo và Phật giáo phải được bình đẳng. Năm 1872, triều đình Thiên hoàng thiết lập Bộ Tôn giáo.
Từ năm Minh Trị thứ 8 đến năm Minh Trị thứ 17, các cơ quan có vai trò hạn chế Phật giáo như "Sảnh Giáo Bộ" dần dần bị triều đình giải tán. Triều đình cũng bãi bỏ chức giáo đạo, Thần đạo và Phật giáo được phép hoạt động bình đẳng như xưa.
Đến năm Minh Trị thứ 22 (1889), Thiên hoàng ban hành Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản. Trong điều 28 của Hiến pháp này có quy định nhân dân Nhật Bản có quyền tự do tín ngưỡng.
Lịch  sử cho thấy Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo tại Nhật bản đều bị trừng phạt khi nuôi dưỡng, manh nha tư tưởng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo đội lốt tu hành xen vào lĩnh vực nội trị để lũng đoạn chính quyền thế tục.
Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo không cứu được nước Nhật nhưng nhờ có Thiên Hoàng Minh Trị có đường lối, chính sách cải cách, canh tân nên Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới. Điều đó chứng minh rằng muốn đất nước được hùng cường thì quyền lợi của tổ quốc, dân tộc phải được đặt lên bản vị tối thượng. Khi đất nước hưng thịnh, dân tộc độc lập  thì chùa chiền, thánh thất, giáo đường sẽ nguy nga lộng lẫy khi vận nước điêu linh thì Chúa cũng di cư, Phật cũng tỵ nạn.

Đối chiếu lịch sử Nhật Bản và Việt Nam chúng ta càng thấm thía nỗi đau của dân tộc khi những người cầm mệnh nước không đủ bản lĩnh và tinh tường để đưa ra chính sách canh tân, bảo quốc chặt chẽ nên để đất nước và dân tộc rơi vào vực thẳm nô lệ.
Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo ở Việt Nam đều là các tôn giáo ngoại lai nương nhờ vào lòng bao dung quảng đại của dân tộc Việt, mượn đất nước Việt Nam làm nơi truyền đạo, hoằng pháp nhưng có lúc sinh ra kiêu căng láo lếu như gia đình họ Ngô mưu toan đem cả dân tộc Việt Nam vào vòng nô  lệ giáo triều Vatican.
Phật giáo đến Việt Nam từ sớm, pháp môn bồ tát đại thừa tương hợp với văn hóa dân tộc Việt nên hòa nhập với triết lý Khổng Lão hình thành hệ thống triết lý Tam Giáo Đồng Nguyên góp phần vun đắp tình tự dân tộc, phụng thờ quốc tổ gia tiên, vun đắp đời sống văn hóa tâm linh cho dân tộc Việt Nam.
Sư sãi tham chính dưới các triều Đinh Lê Lý Trần đã góp công dựng và giữ nước phát triển văn hóa sang tới triều Trần nhưng bọn kiêu tăng thoái hóa khiến Phật giáo rơi vào thời mạt pháp, sau khi Lê Lợi đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi, Phật giáo không còn ảnh hưởng đến việc triều chính suy tàn dần. Năm 1963 Hoa Kỳ mượn lý do xã hội mất ổn định rối ren do nhà Ngô lạm dụng chính quyền kỳ thị tôn giáo làm sút giảm tinh thần quân đội đang đối diện với tình hình chiến sự gia tăng xúi giục gậy ra chính biến lật đổ thanh toán xong anh em Ngô Đình Diệm, Phật giáo được đối xử bình đẳng thì một số sư sãi đấu tranh lại sinh thói kiêu căng nuôi giấc mơ lãnh tụ, hợp tác với Việt Cộng tiếp tục gây rối ren, biểu tình bạo loạn ở miền Trung góp phần vào việc làm suy yếu lực lượng chống cộng. Điều đáng nói ngày 30/4/1975 các lãnh tụ Phật giáo công khai lộ diện là "Cộng Sản Chính Hiệu Bà Lang Trọc" "hồ hởi phấn khởi" kéo cả bầy đàn Vạn Hanh đi rước "bộ đội cụ hồ".
Chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa cơ đốc, chủ nghĩa cộng sản cội rễ ở phương Tây nối tiếp nhau tạo ra những lực lượng nhân danh khai hóa và cách mạng gây vô số tội ác tày trời đối với toàn thể nhân loại đều phải bị lên án và loại trừ. Nếu muốn buộc tội hay phê phán chế độ cộng sản đang nắm quyền cái trị đất nước hiện nay chỉ cần viết đúng hiện tình, không nhất thiết phải bày điều đặt chuyện  so sánh tốt xấu và lòng nhân từ giữa hai bọn ăn cướp, và hãy giữ lấy chút liêm sỉ rơi rớt trong lương tâm để tránh sử dụng ngôn từ biểu hiện tâm thức nô lệ vọng ngoại, vong bản, vong thân, và vong ân, xúc phạm đến anh linh của những  bậc anh hùng, nghĩa sĩ đã hàng hàng, lớp lớp tận hiến sinh mệnh cho cuộc chiến trường kỳ chống những lực lượng thực dân để vãn hồi độc lập, tự chủ cho đất nước và dân tộc.
Do biết vận dụng khát vọng độc lập, tự chủ của dân tộc; những người cộng sản Việt Nam đã thống nhất được đất nước, chiếm đoạt và thừa hưởng những hy sinh của dân tộc Việt Nam sau gần một trăm năm tranh đấu, chiến đấu dành lại quyền độc lập, tự chủ cho đất nước đã thi hành chính sách bất khả dung giáng những đòn trả thù hiểm độc lên toàn thể miền Nam  tạo ra hận thù sâu sắc làm tan vỡ tình tự dân tộc. Nhưng chủ nghĩa cộng sản đã tự tiêu vong khi đạt được chiến thắng như chúng ta đã thấy xảy ra ở Liên Xô kéo theo sự sụp đổ dây chuyền của cả Đông Âu. Hiện nay cả hai đảng Cộng Sản của Trung Cộng và Việt Nam hầu hết đảng viên đều là thành phần tư sản và tư bản, ngoài lớp vỏ đỏ không ai biết được trong tận đáy sâu tư tưởng từng đảng viên  đảng Cộng Sản Việt Nam đang nghĩ gì. Điều này có nghĩa là “chuyên chính vô sản” thực sự đã tiêu vong và trở thành công cụ của những bầy đàn Mafia cai trị dùng vào việc đàn áp “giai cấp vô sản” và những nông dân nghèo khó.
Đất nước và dân tộc Việt Nam là nạn nhân của các thế lực chính trị quốc tế và hệ thống tôn giáo hòan vũ đầy tội ác. Những hệ thống và thế lực này theo đuổi tư tưởng thống trị thế giới và nhân loại từ ngày hình thành trước đây hàng nghìn năm, bọn chúng đã hóa quỷ, thành tinh nên kế hoạch, âm mưu và hành động vô cùng hiểm độc đến nỗi những đế quốc rộng lớn như Ấn Độ, Trung Hoa cũng một thời trở thành nô lệ.
Bốn mươi ba năm đã qua, những tên thực dân xâm lược đã phải rút khỏi Việt Nam, lực lượng Bắc Việt đè bẹp Việt Nam Cộng Hòa một thiểu số cầm quyền và đám gia nô hèn hạ tháo chạy theo cuộc di tản của người Mỹ bỏ mặc dân tộc cho những người cộng sản cai trị đàn áp, làm tình làm tội hay giết hại chẳng chút áy náy. Nhưng đến nay chủ nghĩa cộng sản một thời đắc thắng đang trên đường tàn lụi, không cần đến một thế lực ngoại bang nào dân tộc Việt Nam đã tự cứu nước đồng thời đang tự giải phóng khỏi xích xiềng cộng sản mở đường đi tới tương lai. Tình hình Việt Nam hiện nay đã và đang thay da đổi thịt, biến chuyển theo chiều hướng tốt do đã ở dưới mức xấu quá lâu, không thể xấu hơn, tệ hơn nữa thì phải tốt lên và Việt Nam là một dân tộc có sức mạnh quật khởi phi thường nên không thể chết hay tiêu vong nhưng nọc độc ngoại giáo vẫn còn rơi rớt.
Vì thế nhiệm vụ những người ái quốc chân chính trong tình thế hiện nay phải bằng mọi cách vun bồi ý thức độc lập, tự chủ; tinh thần dân tộc để thúc đẩy nền chính trị và xã hội Việt Nam từng bước tiến lên, tới khi hoàn toàn thoát khỏi sự kiềm tỏa của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa cơ đốc, lúc đó đất nước Việt Nam mới thực sự bước vào thời kỳ hưng thịnh.
Đối diện với những tư tưởng nô lệ vọng ngoại, phi dân tộc xấc láo, ngu muội. Người còn yêu thương quốc gia dân tộc không thể im lặng để loại nọc độc vô loài, phi dân tộc tự do khuếch tán làm nhiễm độc tư tưởng lớp người trẻ tuổi ở bất cứ nơi đâu.



Kim Âu
May 30/2018



__._,_.___

Posted by: Gia Cat <

No comments:

Post a Comment

Thanks

Featured post

Lisa Pham Vấn Đáp official 8/6/2023

Popular Posts

Popular Posts