--
Kính
Chuyển
MG
Bốn
mươi mốt năm về trước,
Ngày
30-4-1975, Hoa Kỳ chạy khỏi VNCH
trên
mái nhà.
Mường
Giang
Thật ra việc Hoa Kỳ bán đứng hai đồng minh VNCH và Đài Loan, để đổi lấy sự liên kết và trao đổi thương mại với Trung Cộng qua chuyến công du của cặp Nixon-Kissinger từ năm 1972, đã bị ông Daniel Ellsberg tiết lộ cho The Washington Post, the Times, New York Times, và nhiều cơ quan truyền thông khác tạo một cú sốc trong quần chúng Hoa Kỳ hơn 44 năm về trước.
Vì không thể giấu giếm mãi một sự kiện lịch sữ đã bị phanh phui, do đó ngày
14/6/2011, Văn Khố Quốc Gia (National Archives) của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, bó buộc
đã phải cho giải mật (declassify) 7000 trang hồ sơ về những vấn đề của Việt Nam
và Đài Loan trước 30-4-1975.. Sau đó, National Security Archive tại George
Washington University công bố thêm 28,000 trang hồ sơ, trong đó có những mẫu đối
thoại chi tiết giữa hai Ngoại Trưởng Henry Kissinger và Chu Ân Lai, càng làm
cho hầu như cả thế giới (từng là đồng minh hay chiến hữu của Hoa Kỳ) nhìn ra sự
thật phũ phàng, qua việc siêu cường số 1 đứng đầu khối tự do, vì quyền lợi cá
nhân đã bán đứng Việt Nam Cộng Hòa và Đài Loan để đổi lấy sự hòa hoản và giao
thương với Trung Cộng. Xét cho cùng, việc làm trên chẳng qua cũng chỉ là để xác
nhận một cách chính thức những tài liệu ông Daniel Ellsberg tung ra trước đó là
chính xác, với hy vọng chấm dứt những thị phi bất lợi về chữ tín của Mỹ trên thế
giới, nhất là trong giai đoạn Hoa Kỳ rất cần nhiều đồng minh mới lẫn cũ, khi có
ý định trở lại Châu Á-Thái Bình Dương hiện nay, chắc là để cùng Trung Cộng tiếp
nối những giao kết bí mật còn dang dỡ của bốn mươi mươi năm về trước ?
Tài liệu trên đã làm lộ bộ mặt thật của Kissinger, qua nhiều hồi ký đã xuất bản
nay không còn giá trị vì nhiều điều viết đều sai với những chi tiết trong tài
liệu này. Tóm lại Henry Kissinger viết là để đánh bóng cá nhân và để chạy
tội cho bàn thân. Tài liệu lịch sử của Văn Khố cho thấy chính sách của Bộ Ngoại
Giao Hoa Kỳ là đặt quyền lợi nước Mỹ trên hết, bất chấp sự phản bội những đồng
minh cũng như đã giấu giếm và lừa đảo cả chính dân chúng và Quốc Hội Hoa Kỳ. Do
ác tâm trên, nên từ đầu thập niên 1970, Hoa Kỳ vì cần bắt tay với Trung Cộng đối
phó với Liên Xô, nên nhẫn tâm loại Đài Loan ra khỏi Liên Hiệp Quốc và đưa Tàu đỏ
vào thay thế vị trí này, đồng thời còn công nhận chỉ có một nước Tàu
và Đài Loan chỉ là một tỉnh của Trung Cộng cho đến ngày nay vẫn không thay đổi.
Tài liệu cũng cho thấy Hoa Kỳ quyết định bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa để mặc
cộng sản Bắc Việt chiếm trong lúc Mỹ-Việt đang liên minh quân sự chống kẻ thù
chung VC. Quan trọng nhất là Mỹ đã cam kết với Tàu đỏ sẽ phủi tay và bỏ ngõ Đông
Nam Á và Biển Đông cho Trung Cộng tạo ảnh hưởng trong vài thập niên. Tài liệu
còn ghi rõ vào dịp giáng sinh năm 1972, Bắc Việt rất hổn loạn và đang chuẩn bị
đầu hàng vì không chịu nổi B-52 bỏ bom ở Hà Nội, nếu Hoa Kỳ tiếp tục bỏ bom
thêm 2 tuần nữa thì VC đã đầu hàng. Nhưng vì đã thỏa thuận với Bắc Kinh nên
Henry Kissinger và Tổng Thống Richard Nixon ngưng bỏ bom trong lúc chiến thắng
đang gần kề, thay vào đó lại ký hiệp định ngưng bắn 28-1-1973 tại Ba Lê như một
văn kiện bán đứng Miền Nam VN cho cộng sản đệ tam quốc tế !
Vì biết chắc Mỹ đã bán đứng đồng minh cho mình, nên đầu tháng Giêng năm 1974,
Trung Cộng xua hải quân cưởng đoạt quần đảo Hoàng Sa của VNCH. Hải Quân Miền
Nam đã chiến đấu thật oanh liệt và kêu gọi Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ đang ở gần
đó tiếp cứu nhân đạo nhưng dù đã nhận đủ tín hiệu xin cấp cứu, hải quân Mỹ vẫn
làm ngơ để mặc cho các thương binh VNCH chết đau thương và oan nghiệt trên Biển
Đông.
Chính vì đã có ý định phủi tay bỏ Nam VN, nên cuối năm 1974, tòa đại sứ Mỹ tại
Sài Gòn, đã bắt đầu lập bản dự thảo kế hoạch rút số viên chức còn lại, cũng như
di tản những thành phần bản xứ có liên hệ với họ. Ðó là chiến dịch ‘ Talon Vice
‘, sau được đổi thành ‘ Frequent Wind ‘.Theo sử liệu bật mí mới đây, sở dĩ kế
hoạch trên vào phút chót, trở thành ‘ đầu gà đít vịt ‘, là do sự bất đồng ý kiến
giữa đại sứ Mỹ Martin và phái bộ quân sự Hoa Kỳ (Dao). Nhưng đây cũng chỉ là
cái cớ, để phần nào làm nhẹ bớt tội tắc trách của ông đại sứ. Cũng theo tài liệu,
sự thất bại còn có rất nhiều lý do khác, chẳng hạn do tướng Smith, trưởng cơ
quan Dao, đã tiết lộ kế hoạch chạy của Mỹ, trong bữa tiệc do Tổng Cục Tiếp Vận
tổ chức trong đêm giáng sinh 24-12-1974.
Tin này lập tức được loan truyền rộng rải, nên thay vì Mỹ di tản các
thành phần quan trọng có nguy hai tới tánh mạng khi VC vào, lại chỉ vớt toàn bọn
nhà giàu và đặc biệt là không ít tướng-tá ăn không ngồi chơi xơi nước tại các
cơ quan đầu não trung ương về quân sự cũng như hành chánh. Bọn này đa số đều
giàu có về tiền bạc cũng như quyền thế và phe cánh Mỹ, nên ra đi ngoài gia đình
nội ngoại ba đời, còn có cả con sen thằng ở. Sau rốt là do đại sứ Martin tới giờ
phút chót, vẫn còn ngu xuẩn, cả tin vào sự hẹn hứa của Bắc Việt, nên nuôi ảo vọng
thương thuyết, khi chấp nhận điều kiện ‘ đổi ngựa ‘ hết Nguyễn Văn Thiệu, tới
Trần Văn Hương và cuối cùng là Dương Văn Minh. Nhưng kết cuộc Mỹ đã
bị VC bịp xã láng, nên đã phải bỏ chạy nhục nhã trong đêm tối 29-4-1975, khắp
các mái nhà Sài Gòn, đến nỗi quên cả cuốn và vác cờ theo. Thật là một trò hề vô
cùng sĩ nhục của siêu cường Hoa Kỳ, lãnh tụ của phe thế giới tự do.
Theo bản dự thảo ban đầu, chiến dịch di tản gồm có bốn giải pháp, tùy theo hoàn
cảnh để thi hành như 1- Dùng hàng không dân sự để di tản người tại phi trường
Tân Sơn Nhất. 2- Sử dụng các vận tải cơ C123,130 và C5 để bốc người tại Sài Gòn
cũng như các tỉnh lân cận. 3- Sử dụng các loại thương thuyền có sẵn tại bến Bạch
Ðằng. 4- Dùng trực thăng bốc người từ Sài Gòn, đưa ra các chiến hạm.
Sau khi quân đoàn I và II tan rã, ngày 1-4-1975 Dao đã cho thành lập một cơ
quan điều hợp di tản, gọi tắt là DCC tại Tân Sơn Nhất và giải pháp (4) dùng trực
thăng bốc người được chọn, nếu phi trường Tân Sơn Nhất bất khiển dụng.
Ngày 3-4-1975, Dao lại thành lập thêm Toán Thiết Kế đặc biệt, có nhiệm vụ thanh
lọc, để xác nhận tổng số người VN cần di tản và tới ngày 7-4-1975, có 70.000
người được lên danh sách. Ngay sau đó, Dao đã tổ chức một đoàn xe Bus, chuyên
chở họ từ tư gia vào phi trường TSN. Vì hầu hết sân thượng tại Sài-Gòn, Chợ-Lớn
và Gia-Ðịnh không đủ tiêu chuẩn để cho các loại trực thăng H46 và H53 đáp, nên
Dao phải trưng dụng tất cả các trực thăng nhỏ của hãng Air American do CIA thuê
mướn, bốc người khắp nơi về Dao, sau đó trực thăng lớn mới chở ho ra chiến hạm.
Ngày 9-4-1975, Bắc Việt xua đại quân tấn công Xuân Lộc. Cơn phẫn nộ của QLVNCH
và dân chúng được bộc phát tại đây. Sư Ðoàn 18 BB, Lữ Ðoàn 1 Dù, Thiết đoàn 5 kỵ
binh, Biệt Ðộng Quân, Ðịa Phương Quân + Nghĩa Quân Long Khánh, chẳng những đã
chận đứng cộng quân tại chiến trường mà còn tiệu diệt cả vạn quân xâm lăng
phương bắc, khiến cho Hà Nội lại la làng là Mỹ bội tín đem bom nguyên tử vào thả
tại VN.
Do tình hình chiến trường biến động khắp nơi, báo hiệu nguy cơ miền Nam sắp mất,
nên Dao đã mướn nhà thầu sửa chữa các sân thượng tại đây, đồng thời yêu cầu toà
đại sứ cho đốn cây cổ thụ trước sân, để làm bãi đáp khi hữu sự nhưng đã bị
Martin phản đối và bác bỏ.
Ngày 16-4-1975, tướng Home Smith chỉ huy trưởng Dao, ra lệnh đóng cửa các PX, đồng
thời bắt buộc các quân nhân không cần thiết và tất cả nhân viên dân chính cùng
gia đình, đều phải hồi hương.
Ngày 24-4-1975 thời tổng thống Trần văn Hương, do tình hình chiến sự bùng nổ dữ
dội lhắp nơi, nên đại sứ Martin mới cho thi hành giải pháp (3) trong chiến dịch
Frequeent Wind, sử dụng tất cả các thương thuyền trống, sau khi đã giở hàng để
di tản. Trong lúc đó, vì tuân thủ theo lệnh của chính phủ VNCH, nên hầu hết các
máy bay quân sự của Mỹ khi rời Sài Gòn đều trống không, dù có rất nhiều người
đang sắp hàng ngày lại ngày, để chờ phương tiện xuất ngoại.
Ngoài việc di tản quân nhân, viên chức tòa đại sứ rời VN, ngày 4-4-1975, Dao lại
cho thực hiện chiến dịch ‘ Baby Lift ‘, di tản 250 em mồ côi VN tại các cô nhi
viện sang Hoa Kỳ, bằng vận tải cơ khổng lồ C5A-Galaxy. Tháp tùng trong chuyến
đi này, còn có 37 nữ thơ ký và phân tách viên của Dao, với nhiệm vụ giúp đỡ và
săn sóc các em trong suốt cuộc hành trình. Nhưng than ôi công tác đầy nhân đạo
này, đã bị bàn tay bí mật nào đó phá vỡ ngay. Bởi vậy máy bay vừa mới cất cánh,
thì đã rớt xuống ngay tại đầu phi đạo tan tành. Rốt cục chỉ còn sống sót 175
người. Tới nay sự việc trên vẫn chưa được soi sáng , nên đâu biết ai là thủ phạm
đã gây nên tai nạn thương tâm cho các em bé mồ côi khốn khổ trên.
Tại Subic Bay-Phi Luật Tân, ngày 17-4-1975, lực lượng đặc nhiệm 76 của Hải quân
Hoa Kỳ, vừa mới cặp bến để tu bổ và sửa chữa tàu bè, sau một thời gian dài đã
tham dự cuộc hành quân Eagle tại Ấn Ðộ Dương, thì lại nhận được lệnh rời bến, tới
chờ lệnh tại biển Nam Hải, ngoài hải phận Nam VN.
Những ngày cuối cùng của tháng 4-1975, tình hình chiến sự tại miền Nam vô cùng
sôi động. Khắp nơi, những đơn vị còn lại của QLVNCH gồm Sư đoàn Dù, Sư đoàn
TQLC, các Liên Ðoàn Kỵ Binh, Pháo Binh, Lực Lượng III Xung Kích, Sư đoàn 18, 5,
25, 22, các Sinh viên sĩ quan Trường Võ Bị QG.Ðà Lạt, Chiến Tranh Chính Trị, Thủ
Ðức, Học Viện Sĩ quan Cảnh sát, khóa sinh HSQ-Binh sĩ quân dịch các Trung tâm
Huấn luyện Vạn Kiếp, Quang Trung, Lực lượng Ðịa Phương Quâm-Nghĩa Quân, Cảnh
sát Dã chiến, Cán Bộ Xây Dựng Nông thôn cả Nhân Dân Tự vệ.. phối họp với Không
quân, Hải quân và Quân đoàn IV, gần như tử chiến với mấy trăm ngàn cán binh-bộ
đội cọng sản Bắc Việt, từng giây phút, suốt đêm ngày.. trong nổi đoạn trường
máu lệ. Tất cả đã lấy xương thịt và thân xác, thay súng đạn ngăn chận xe tăng,
đại pháo và biển giặc, vì người Mỹ đã cúp hết quân viện từ ngày 25-4-1975.
Ðêm 28-4-1975, Nguyễn Thành Trung hay Ðinh Thành Trung, con rớt của một cán bộ
tập kết ở Bến Tre, nằm vùng trong không quân VNCH. Thi hành theo lệnh của Văn
Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng quân đội VC, lái A37 giội bom phi trường Tân
Sơn Nhất. Theo Lê văn Trí, tư lệnh KQ cọng sản miền bắc, thì VC đã dùng các máy
bay của QLVNCH đã bỏ lại tại các phi trường Ðà Nẳng, Phù Cát để oanh tạc Sài
Gòn. Sáng 28-4-1975, sáu chiếc A37 được chuyển vào sân bay Thanh Sơn (Phan
Rang), do Trung làm phi đội trưởng, hợp với các phi công Băc Việt gồm Từ Ðể,
Nguyễn văn Lục, Hoàng Mai Vượng, Hàn Văn Quảng và một tên phi công phản tặc
khác của VNCH là Trần văn On. Vì các máy bay trên không mở đèn, hơn nửa lực lượng
phòng vệ ở dưới đất tưởng là bạn, nên chúng mới toàn mạng. Vụ oanh tạc trên đả
làm hư hại 3 chiếc Hỏa Long AC119, vài chiếc C47 nhưng quan trọng nhất là đã tạo
tình trạng hỗn loạn tại phi trường, đang có nhiều người đợi máy bay di tản.
Ngoài ra còn có nhiều đoạn phi đạo bị bom và đạn pháo kích làm hư hỏng, không
còn sử dụng được. Trước tình trạng hỗn loạn này, tướng Smith ra lệnh giới
nghiêm Dao 24/24, trong khi đó tại tòa đại sứ, Matin vẫn bất động.
Sau này qua các tài liệu báo chí, đọc được nhiều chuyện vui cười ra nước mắt,
liên quan tới sự người Mỹ tiếp tục quân viện cho VNCH, theo tinh thần hiệp định
Ba Lê 1973 và những lời hứa của Nixon, từ các tho riêng viết tay. Thật sự để có
lý do hạ cánh những vận tải cơ khổng lồ C5, người Mỹ giả bộ chở tới một vài khẩu
súng đại bác 105 ly thời Thế chiến 1, ít trăm bộ nón sắt cháo lòng không giống
ai. Tàn nhẫn nhất trong số những thứ rác phế thải này, có nhiều thùng băng cá
nhân đã xử dụng. Biết Hoa Kỳ đã tận tuyệt rồi nhưng chính phủ VNCH vẫn giả đò
tương kế tựu kế, họp báo đăng tin, để phần nào giữ lại chút niềm tin cho người
lính đang xả thân nơi chiến trường, trong giờ thứ 25 đối mặt với thù trong giặc
ngoài. Riêng Mỹ thì mục đích đến là để chuyển tải tất cả hồ sơ mật và những vật
dụng máy móc điện tử quý giá về nước.
Lạ lùng nhất là lúc 3 giờ sáng ngày 29-4-1975, tại Dao có 3 chiếc vận tải cơ
C130, thường trực chuyển người ra chiến hạm. Nhưng không biết vì lẽ gì, lại chở
từ biển vào Sài Gòn, ba quả bom con heo tiểu nguyên tử (Blue 82 Daisy Cutter),
loại bom 15.000 Lbs, mà QLVNCH đã sử dụng tại mặt trận Xuân Lộc-Long Khánh vừa
qua. Khôi hài hơn là trong lúc các chuyên viên Mỹ-Việt đang hì hục tháo gỡ đem
bom vào kho, thì một phi công Hoa Kỳ lại bạch thoại trên vô tuyến, khiến cho CS
Bắc Việt bắt được tần số và nã ngay hỏa tiễn 122 ly vào phi trường, làm cháy một
vận tải cơ C130 đang bốc người. Thế là Dao chấm dứt kế hoạch di tản bằng máy
bay lớn ra hạm, vì phi trường đã bất khiển dụng.
Trong lúc những lãnh đạo chính trị của Miền Nam đang trầm kha trong ảo vọng
thương thuyết hòa hợp để kết thúc cuộc chiến, thì đúng nửa đêm 29-4-1975 cũng
là giờ mà cọng sản đệ tam quốc tế Hà Nội, chọn là giờ ‘ G’ ngày ‘ N’ tổng tấn
công dứt điểm VNCH. Sài Gòn đã rối loạn vì hơn mấy chục sư đoàn cọng sản Bắc Việt
đã áp sát thủ đô. Một số đại pháo được tập trung nã vào các khu vực đông dân cư
trong nội thành. Phần khác là do đám quan quyền, ngày thường ngồi trên ăn đủ,
cùng với bọn nhà giàu,. tới tấp ra đi, khiến cho lòng người càng thêm tơi tả,
không biết đâu mà mò. Tuy rằng trung ương không còn đại bàng nhớn nhưng khắp bốn
hướng, quân lực VNCH vẫn chiến đấu dũng mãnh, gần như lấy máu xương của chính
mình để ngăn cản bước tiến của giặc. Lữ đoàn 4 Nhảy Dù, Sư Ðoàn TQLC, Sư đoàn
18 BB, Lực lượng III Xung Kích, Liên đoàn 4 Biệt Ðộng Quân, Sư đoàn 22 BB,
Giang Ðoàn 54 Tuần Thám, Lực Lượng Ðịa Phương Quân + Nghĩa Quân.. và đặc biệt
là Chiến Ðoàn 3, thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, từ ngày 26-4-1975, đã được lệnh
về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu.
Nhưng giữa lúc người lính bộ đang lội trong biển máu thù, thì trên trời gần hết
những phi công anh hùng của QLVNCH đã ngoảnh mặt phủi tay ra đi không trở lại,
hoặc bay về đất Thái hay hướng thẳng biển đông. Khiến cho phi trường Tân Sơn Nhất
thêm hiu quạnh thảm thê với xác người nằm bất động, lẫn lộn với quân trang quân
dụng , cơ phận máy bay, vũ khí và những lính quèn hèn mọn, giờ phút cuối vẫn ở
lại tử thủ với phi trường.
Nhưng không phải ai cũng tham sống sợ chết, chỉ muốn hưởng vinh hoa phú quý mà
người Mỹ hứa hẹn. Vẫn còn vài chiếc Hoả Long AC119 K, cùng với hai khu trục A1
Skyraider, đã không ngừng lên xuống, nã đạn pháo, thả hỏa châu, soi sáng giúp
quân bạn đang chiến đấu dưới đất. Kiên cường nhất là Trung Úy Phi Công Nguyễn
Văn Thành, xuất thân từ Thiếu Sinh Quân. Ông đã lái AC119 bắn phá những vị trí
pháo của VC quanh phi trường, nhờ vậy nhiều người trong số này có tướng Nguyễn
Cao Kỳ, cựu tư lệnh KQ, cựu chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, cựu phó tổng
thống VNCH.. mới bay được trực thăng riêng từ tư gia ở Tân Sơn Nhất, ra chiến hạm
đi Mỹ. Thương thay người hiền không bao giờ sống lâu, nên Trung Uý Thành đã gãy
cánh vào lúc 6 giờ 46 phút, sáng ngày 29-4-1975, khi chíếc hỏa long của ông bị
một hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 chém đứt cánh máy bay và bốc cháy trên bầu trời.
9 giờ 30 sáng ngày 29-4-1975, Sài Gòn đã hỗn loạn khắp nơi. Do trên tướng Smith
yêu cầu đại sứ Martin cho thi hành giải pháp ‘ 4’ trong chiến dịch di tản,
nhưng đã bị từ chối. Nguyên do vì đại sứ Mỹ lúc đó vẫn còn ngây thơ tin rằng tổng
thống VNCH Dương văn Minh, có khả năng hoà hợp, hòa giải với VC để vãn hồi hòa
bình cho VN. Cùng ngày, từ thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, Kissinger đã gọi điện khẩn cấp
sang Sài Gòn, ra lệnh cho đại sứ Martin phải di tản gấp. Từ đó, Martin mới cho
lệnh đốn cây đa cổ thụ trước sân toà đại sứ vào lúc 11 giờ 01 phút, để làm bãi
đáp cho trực thăng. Ðây cũng là thời gian, Martin gơi ý nhờ TT. Dương văn Minh
giả bộ đuổi Mỹ trên đài phát thanh Sài Gòn. Có như vậy siêu cường Hoa Kỳ mới chạy
khỏi VN trong danh dự, đồng thời giúp TT Minh có chính nghĩa.
Nhờ bài bản xuất sắc, diễn viên ăn khớp, Martin đã cứu nước Mỹ phần nào bớt mất
mặt trước đồng minh thuộc phe thế giới tự do, cũng như đàn em kẻ thù Liên
Xô-Trung Cộng. Nhưng đồng thời Martin chính là người đã phá hỏng kế hoạch di tản,
vì lúc chịu thi hành thì trời đã tối, nên các tài xế xe bus đều nghĩ việc, khiến
cho nhiều người có tên trong danh sách di tản không được đón. Ðể cứu vãn tình
thế nguy cấp tồi tệ trên, tướng Smith đã cho các loại trực thăng nhỏ của hãng
Air American đi bốc người thế xe bus.. nhưng đã quá trễ.
Bốn mươi mốt năm về trước, người Sài Gòn làm sao quên được cảnh tượng hai ngày
29 và 30-4-1975, nếu có dịp đi ngang qua tòa đại sứ Hoa kỳ, kế toà đại sứ Pháp
và nhà thờ Tin Lành, nằm trong chu vi các đường Hồng Thập Tự, Hai Bà Trưng và đại
lộ Thống Nhất. Có thể gọi được là một biển người, đã tụ tập trước hai cánh cổng
sắt vô tri của tòa đại sứ. Lúc đó hầu như người nào cũng giơ hai tay lên cao,
trong đó ngoài các giấy tờ còn có những nắm đô la dầy cộm, với những tiếng gào
thét, van nài nghe thật là bi thiết não nuột, trước những cặp mắt gần như lạc
thần lạnh lẽo của lính thủy quân lục chiến Mỹ. Ai cũng lăm lăm tay súng có gắn
lưỡi lê, làm như đã sẵn sàng phanh thây bầm xác bất cứ ai, muốn xé rào vượt cổng.
Cùng lúc quang cảnh phía bên trong khuông viên của tòa đại sứ cũng đâu có khác
gì bên ngoài. Sóng người đang đùn ép, xô lấn, cấu xé với nhau để tới cho được
chân tường, dẫn vào cầu thang lên sân thượng, nơi đoàn trực thăng dùng làm bãi
đáp lên xuống, để bốc người ra chiến hạm. Màn đêm lúc đó như được Thượng Ðế ban
thêm ân huệ, nên cứ kéo dài hơn, để cho những kẻ chờ đợi nuôi chút hy vọng mỏng
manh trong cơn tuyệt vọng. Tóm lại đến giờ phút hỗn loạn đó, thì không ai còn cần
chú ý làm gì tới danh sách nửa. Bốc người tại chỗ, có nghĩa là ai mạnh chen được
tới trước thì đi, khiến cho hằng vạn người từng giúp Mỹ rất đắc lực như thơ ký,
thông dịch viên, nhân viên tình báo, cảnh sát chìm.. cứ ngóng cổ chờ di tản, rốt
cục sáng ra mới biết Mỹ đã đi hết rồi.
Ðể thi hành chiến dịch di tản bằng trực thăng, tướng tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến
Mỹ là Carey từ chiến hạm bay vào tòa đại sứ lúc 13 giờ 15 ‘ chiều 29-4-1975 và
hạ cánh tại Dao. Cùng lúc có một Toán Không Lưu do thiếu tá KQ Dave Cox chỉ
huy. Họ dọn dẹp sân thượng và chỉ dẫn đoàn trực thăng từ biển vào bốc người.
Trong lúc đó súng cối và đại bác của VC quanh Sài Gòn nổ tới tắp.
15 giờ 06 phút chiều 29-4-1975, một đoàn 12 chiếc trực thăng Mỹ, chở TQLC do
trung tá J.L Bowltan chỉ huy, thuộc Lực Lượng Ðặc Nhiệm 76 tới bố trí quanh Dao
để giữ an ninh. Ðoàn trực thăng lên xuống bốc người không ngớt, mỗi chiếc chở một
lần từ 50-60 người.
Nhưng cuộc di tản đã gặp trở ngại vì bãi đáp trực thăng trúng đạn pháo kích của
VC bốc cháy. Trong lúc sự liên lạc giữa toán không lưu và các phi công cũng bi
trục trặc vì máy truyền tin bị hỏng, còn trung tâm tiếp vận đài tại Sài Gòn
hoàn toàn tê liệt.
Những giờ phút cuối, để giải quyết số người còn ứ đọng, Mỹ phải dùng các loại
trực thăng lớn CH6 và H53 đáp ngay tại bãi đậu xe trước tòa đại sứ. Song song với
trực thăng Mỹ, trực thăng của KQ.VNCH cũng bốc người ra đi từng đoàn. Thành phố
đã bị cúp điện hoàn toàn từ 6 giờ 30 tốì 29-4-1975. Khắp nơi trời đất tối thui,
dân đen thì run rẩy núp kín trong nhà để giữ mạng, phần lính tráng còn lại, từ
quan tới thuộc cấp, ai củng cố chóng con mắt chờ sáng trong các giao thông hào,
đợi phép lạ mà tổng thống Dương văn Minh đã hứa là sẽ tới vào sáng ngày
30-4-1975.
Sài Gòn đã chết từ đó, chỉ còn có tiếng quạt của các loại trực thăng gầm thét
đinh tai điếc óc, nơi khoảng không gian mà Mỹ còn làm chủ, nhờ sự bảo vệ của
QLVNCH trong giờ thứ 25 dưới đất. Ðây cũng là những lời thóa mạ cuối cùng của
người Mỹ trước khi về nước, để lại nghìn đời trên xác chết chưa chôn của miền
nam VN trong thế kỷ XX.
Cũng lúc đó, nơi các nẻo đường vắng ngắt dẫn về thương cảng, bến tàu Sài Gòn, từng
chặp từng chặp lai xao động bởi tiếng máy nổ ròn của đủ loại xe dân, lính.. xen
lẫn đâu đó là các tràng súng ngắn. Lúc này bọn sĩ quan đào ngủ, bọn nhà giàu bất
lương, bọn trí thức cà chớn một thời phá nát miền Nam.. cũng ôm đầu chạy trối
chết, tới các bến tàu, để tìm đường vượt thoát cọng sản, trên các chiến hạm Hải
quân và Thương thuyền đang hối hả nhổ neo ra khơi. Súng nổ, đạn cối rơi, hỏa tiễn
xuyên phá, tiếng trực thăng gào thét.. như những giọt nước mắt trước cơn mưa thống
hận VN, ba mươi tám năm qua cũng vẫn là những hình ảnh và âm thanh , mà người
Sài Gòn đã cảm nhận trước vài giờ, khi toàn thể non sông Hồng Lạc bị đắm chìm
trong vũng bùn ô uế của xã nghĩa thiên đàng, mà thực chất là chốn địa ngục có
thật, do quỹ vương Hồ Chí Minh mang từ Nga Tàu về đày đọa đồng bào.
Ðúng 9 giờ tối đêm 29-4-1975 cuộc di tản tại Dao kết thúc. Người Mỹ vội cho
thiêu hủy toàn bộ những gì còn lại trong toà nhà này, mà một thời được coi như
một tiểu bạch ốc ở phương đông. Chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh lúc 12 giờ
đêm, bỏ lại đằng sau cảnh đời trong biển lửa.
Riêng tại tòa đại sứ Mỹ, sự di tản đã gặp rất nhiều khó khăn vì đen không đủ
soi sáng hiện trường, còn bãi đáp thì quá nhỏ không thích hợp cho các loại trực
thăng lớn, Tuy nhiên việc bốc người vẫn được tiếp tục, từ 11 giờ đêm 29-4-1975
cho tới 3 giờ sáng ngày 30-4-1975. Sự liên lạc bằng vô tuyến giữa Sài Gòn và
Hoa thịnh Ðốn cũng chấm dứt lúc 1 giờ 06 phút, khi trạm liên lạc vệ tinh tại
Dao đã bị phá hủy. Ðể nối liên lạc giữa Mỹ và toà đại sứ, Không quân Hoa Kỳ phải
thiết lập một trạm liên viễn thông vệ tinh trên chiếc C130, nhưng vẫn không mấy
hiệu quả.
3 giờ sáng ngày 30-4-1975, bộ ngoại giao Mỹ ra lệnh cho tòa đại sứ Sài Gòn chấm
dứt di tản nhưng Martin không chịu thi hành, vì lúc đó tại chỗ vẫn còn hơn
12.000 người chờ bốc ra chiến hạm. Tới 4 giờ 56’ sàng, chính Tổng thống Ford ra
lệnh bằng điện thoại, bắt buộc ông đại sứ phải rời VN. Do không còn cách nào lựa
chọn, Martin đành phải bỏ lại 420 người đang đợi, trong số người này có cả nhân
viên của toà đại sứ Nam Hàn. Martin ra đi đơn độc với con chó nhỏ tên Nitnoy,
trên chiếc trực thăng CH46, do Ðại Uý Thủy Quân Lục Chiến tên G.Berry lái.
Tù phút đó, chỉ còn lại toán lính TQLC Mỹ giữ an ninh tòa đại sứ. Họ rút hết
vào bên trong tòa nhà, đóng cửa sắt và lên trên sân thượng đợi. Ðúng 7 giờ 30
sáng ngày 30-4-1975, trực thăng ngoài biển bay vào đón họ, chấm dứt sự hiện hữu
lần thứ ba của người Mỹ trên nước VN, tính tròn 21 năm , từ lúc tướng Edward
Landale của CIA đặt chân tới Sài Gòn. Tình đồng minh, đồng hướng và chiến hữu
giữa VNCH cùng Hoa Kỳ, cũng chấm dứt từ đó.
Theo tài liệu được Mỹ công bố, thì tòa đại sứ và Dao ngày 29 rạng 30-4-1975 chỉ
di tản được 7014 người, phần lớn không có tên trong danh sách được lập lúc ban
đầu. Ðể hoàn thành công tác trên, người Mỹ đã sử dung trực thăng của Sư đoàn 7
Không quân và Hạm Ðội 7 tại Thái Bình Dương. Suốt thời gian chiến dịch, chỉ có
một A6 bị mất tích, một trực thăng AH1J. Cobra rớt xuống biển và 2 lính TQLC Mỹ
bị tử thương khi VC pháo kích vào Dao tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Tuy người Mỹ đả chính thức rời Sài Gòn vào lúc 7 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975
nhưng trọn ngày đó cho tới hôm sau 1-5-1975, nhiều trực thăng của Không quân
VNCH khắp nơi bay tới Hàng Không Mẫu Hạm Midway, đang bỏ neo ngoài khơi Vũng
Tàu để xin đáp. Vì có quá nhiều người, nên Mỹ đã phải xô nhiều trực thăng xuống
biển, để làm bãi đáp cho các trực thăng tị nạn. Dù việc làm trên có thiệt hại hằng
triệu mỹ kim nhưng cũng đã cứu vớt đươc nhiều chiến binh trong giờ phút cuối
cùng, không còn một lựa chọn nào khác hơn, trong khi nước đã mất.
Bốn mươi mốt năm qua rồi, ngày nay chắc gì còn ai nhớ tới chuyện cũ, kể cả những
đắng cay đoạn trường mà tất cả quân cán chính VNCH và đồng bào Miền Nam hứng
lãnh trong địa ngục Cộng Sản có thật trên quê hương mình.
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2016.
Mường Giang
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks