Nhìn lại nền Giáo dục thân
thương cũa VNCH: Một
sự tiếc nuối vô bờ bến zâng lên!!
From: "16 tranmuois
Bài
đọc suy gẫm: Sự Tiếc Nuối Vô Bờ Bến
– Huỳnh Minh Tú (biên tập và sưu tầm hình ảnh từ internet).
Nhìn lại nền Giáo dục thân thương cũa VNCH:
Một sự tiếc nuối vô bờ bến zâng lên!!
Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa.
Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai
phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền
tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục
cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả
năngmà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”. Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại
học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở
cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa
phương.
Phòng thí nghiệm ở Viện
Pasteur Sài Gòn (Internet)
Tổng quan
Từ năm 1917, chính
quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống
nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống
giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương
trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ
sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ
là ngôn ngữ phụ.
Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình
học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban
hành thời chính phủ Trần Trọng Kim – được đem ra áp dụng ở miền Trung và
miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người
Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến
thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay
thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới
có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.
Một buổi lễ ở trường
Petrus Ký ( trường Lê Hồng Phong ngày nay )
Ngay từ những ngày đầu
hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công
tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục
quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó
là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa
và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị
trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị. Nhìn chung, người ta
thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm
1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít
phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận
mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học
1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh
viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454
sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số.
Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở
các trường đại học cộng đồng).
Cảnh giờ rước học sinh
tan trường.
Mặc dù tồn tại chỉ trong
20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh vànhững
bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách
quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành
cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt
bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một
lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc
gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển.
Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo cóý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục,
có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường
để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công
sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục
đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục
ở Miền Nam Việt Nam.
Thầy cô giáo ( Giáo sư )
thời VNCH
Triết lý giáo dục
Năm 1958, dưới thời Bộ
trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm
họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ
huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền
và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu
họcđến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản”
(humanistic), “dân tộc” (nationalistic),
và “khai phóng” được chính thức hóa ởhội nghị này. Đây là
những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được
ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do
Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
Khóa Hội Thảo Cải Tổ
Chương Trình Sư Phạm.
1. Giáo
dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.
Triết lý nhân bản chủ
trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy
con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc
đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một
phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay
tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa
cáccá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá
conngười, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương,
tôngiáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá
trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
2. Giáo
dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.
Giáo dục tôn trọng giá
trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề
nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay
những truyền thốngtốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần
phải được các thếhệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan
biến trong nhữngnền văn hóa khác.
Sinh viên đại học Dược
Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn
1964.
3. Giáo
dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.
Tinh thần dân tộc không
nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục
phải mở rộng, tiếpnhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế
giới, tiếp nhận tinhthần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại
để góp phần vào việchiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ
tiếp cận với văn minhthế giới.
Từ những nguyên tắc căn
bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu chính
sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để
nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ
trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã
hội, và nhân loại.
Mục tiêu giáo dục thời
VNCH:
Bích chương của Bộ Y Tế
VNCH
1. Phát
triển toàn diện mỗi cá nhân.
Trong tinh thần tôn
trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát
triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những
quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng
riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin
và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ
cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng
đi định sẵn nào.
Thanh nữ VNCH
2. Phát
triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều này thực hiện bằng
cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống
của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình,
ca ngợi tinh thần đoàn kết,tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm
bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một
cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những
tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc;
giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc
gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
Người dân miền Nam biểu
tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974
3. Phát
triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều này thực hiện bằng
cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh
thần cộng đồng và ýthức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với
tinh thần trách nhiệmvà kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học;
giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.
Mặt tiền của Viện Đại
Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường
chiến sĩ)
Giáo dục tiểu học:
Một lớp tiểu học ở miền
Nam vào năm 1961.
Bậc tiểu học thời Việt
Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất
Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo
quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ
thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba
năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học
“đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn
miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Số liệu giáo dục bậc tiểu
học[8]
|
||
Niên học
|
Số học sinh
|
Số lớp học
|
1955
|
400.865
|
8.191
|
1957
|
717.198[9]
|
|
1960
|
1.230.000[9]
|
|
1963
|
1.450.679
|
30.123
|
1964
|
1.554.063[10]
|
|
1970
|
2.556.000
|
44.104
|
Học sinh tiểu học chỉ
học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định,
một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào
đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn
80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học(chưa kể các cơ
sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
Học sinh lớp Nhất, lớp
Nhì hồi xưa. ( Lớp Bốn lớp Năm bây giờ. )
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi
đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa
cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lậphay
tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục. Lớp 1 (trước
năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ
môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng
thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử
địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.
Giờ sinh hoạt của toàn
trường thời bấy giờ.
Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có
khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).
Thẻ căn cước học sinh
trường Võ Trường Toản
Giáo dục trung
học:
Các vị Giáo Sư trường Hồ
Ngọc Cẩn
Tính đến đầu những năm
1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổngsố
thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa kể các
cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc). Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ởcác
trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản,
Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền
thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu
Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các
khoản lệ phí khác.
Tên gọi năm lớp bậc tiểu
học
|
|
trước 1971
|
sau 1971
|
lớp
năm
|
lớp
một
|
lớp
tư
|
lớp
hai
|
lớp
ba
|
lớp
ba
|
lớp
nhì
|
lớp
tư
|
lớp
nhất
|
lớp
năm
|
Tên các lớp bậc trung học
đệ nhất cấp
|
|
lớp
đệ thất
|
lớp
sáu
|
lớp
đệ lục
|
lớp
bảy
|
lớp
đệ ngũ
|
lớp
tám
|
lớp
đệ tứ
|
lớp
chín
|
Tên các lớp trung học đệ
nhị cấp
|
|
lớp
đệ tam
|
lớp
mười
|
lớp
đệ nhị
|
lớp
11
|
lớp
đệ nhất
|
lớp
12
|
Một lớp thử nghiệm hoá
chất tại trường Petrus Ký
Bài sưu khảo có nhiều
hình ảnh xưa đính kèm, nên khá dài cho khuôn khổ email,
xin vui lòng theo dõi
tiếp trong blog 16.
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California,
Hoa Kỳ.
From: 'Mike Duong' via 1 DĐKT <
Sent: Sunday, July 3, 2016 7:00 PM
Subject: 1 DĐKTTG Fw: Con gái Úc gốc Việt thật xinh đẹp, dễ thương, và giỏi võ nữa.
Sent: Sunday, July 3, 2016 7:00 PM
Subject: 1 DĐKTTG Fw: Con gái Úc gốc Việt thật xinh đẹp, dễ thương, và giỏi võ nữa.
Con gái Úc gốc
Việt thật xinh đẹp, dễ thương, và giỏi võ nữa.
Trong buổi tiệc gây quỹ
cho quốc nội của cơ sở Việt Tân tại Sydney, các thiếu nữ VN đã làm khán giả
ngạc nhiên với màn trình diễn độc đáo.
https://www.facebook.com/viettan/videos/10155121902400620/
https://www.facebook.com/viettan/videos/10155121902400620/
Con gái VN tại Úc
... quá dữ! :-) Trong buổi tiệc gây quỹ cho quốc nội của cơ sở Việt Tân tại
Sydney, các thiếu nữ VN đã làm khán giả ngạc nhiên với màn...
|
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks