HỞI NHÀ TRÍ THỨC VÀ THANH NIÊN VIỆT NAM CẦN SÁNG SUỐT !
Xin lỗi,
cho là CSVN vì “sợ” áp lực quốc tế, theo như nhóm chủ trương đòi csVN nên thả hết các
nhà tranh đấu. Rồi sau đó chúng tìm mọi lý do để bắt họ lại thì
chúng ta lại rủ nhau gom góp ký “Thỉnh Nguyện” thư khác chăng?
Đó là ví dụ “Thành Công”. Tuy nhiên, nào là Tổ Chức Phóng Viên Không
Biên Giới, Human Rights..v…v..xem trong các ngày xử nói chung các nhà đấu
tranh trong quốc nội , dù tòa Đại Sứ Mỹ tại VN đã ra tuyên bố kêu gọi
phóng thích. Nhưng kết qủa ra sao ai cũng biết.
Thưa qúi
vị và các bạn!
Công việc
đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ và hổ trợ những nhà đấu tranh trong nước
để giải thể chế độ Cộng Sản tại Việt Nam không những cần, mà phải
là ưu tiên hàng đầu của chúng ta, những người Việt yêu nước. Tuy
nhiên, phải có phương pháp thích ứng, chứ không thể nhắm mắt làm
càn. Ngay như việc kêu gọi “Ký Thỉnh Nguyện
Thư”. Tuy có vẻ rầm rộ. Nhưng kết qủa thế nào? Nếu không nói là
“lại tạo cơ hội” cho Việt Cộng vòi tiền hay đòi hỏi QT thêm quyền
lợi? Vì những nhà ngoại giao hay những vị dân cử, dù quyền hạn thế
nào, cũng không thể trực tiếp can thiệp vào NỘI BỘ của 1 nước. Họ
chỉ có thể “kêu gọi” và chỉ “kêu gọi” mà thôi. Nếu chúng ta “kêu gào” tạo áp lực, thì họ,
những nhà Dân Cử, những vị Chính khách “đành phải” thoả hiệp hay
tương nhượng cho VC vài quyền lợi, chúng mới chấp nhận. Huống
gì chúng vẫn toàn quyền “tha hay bắt” những người trong nước theo thủ
đoạn bất lương của chúng, nơi mà người truy nã, kẻ xử án đều là
đồng bọn với nhau: Đều là đảng viên Cộng Sản.
Dù rằng,
việc dấy lên 1 phong trào yêu nước là cần thiết, là phải làm để nâng
cao khí thế đấu tranh của toàn dân. Nhưng cũng phải tinh mắt để nhìn
ra những PHONG TRÀO GIẢ, có VC là kẻ giật dây hay tìm ra chủ chốt
rất quan trọng. Trong qúa khứ, từ thời chống thực dân Pháp, vì uất
ức nên dân ta can đảm vùng lên biểu tình chống đối. Nhưng vì đảng viên
VC núp sau lưng, đã lèo lái các phong trào yêu nước đó trỡ thành cơ
hội cho thực dân Pháp tiêu diệt những nhà ái quốc và giúp cho VC tuyển
lựa cán bộ gia nhập đảng CS.
Nhìn vào
phong trào “Ký Thỉnh Nguyện Thư” với nhân vật chính là Trúc
Hồ (TH) này, có ai dám khẳng định là người chủ chốt hay
chủ động không? Nếu không phải thì ai? Nhóm nào đứng sau lưng? Nếu là
VC thì sao? Còn như TH là chủ chốt và hành động này thật sự xuất
phát vì chính nghhĩa, vì máu chảy ruột mền, vì xúc động trước sự
tàn ác của chế độ CS thì sao? Chúng ta phải làm gì để phụ giúp cho
thành công, chứ không để bị lợi dụng hay có ý đồ xấu xa khác. Vì
dù sao, TH cũng không phải là 1 gương mặt hy sinh đấu tranh có thành
tích hay có qúa khứ chứng minh. Thêm vào đó, trung tâm Asia do TH và
vợ cùng gia đình bên vợ là chủ chốt. Tuy cũng có những chương trình
ca nhạc đề cao QLVNCH. Nhưng họ cũng từng xin giấy phép về VN để hoạt
động quay phim, phổ biến băng nhạc và tuyển lựa ca sĩ trong nước. Theo
cái nhìn bình thường thì TH không dại gì chống Cộng thật để công
việc làm ăn của mình bị trỡ ngại hay bị VC gây khó khăn? Thêm vào
đó, những người hợp tác kêu gọi “Ký Thỉnh Nguyện Thư” cũng không có
qúa khứ minh bạch. Như “Dr” Nguyễn Thị Xuân,“ ..v..v.. Hay như Đỗ Xuân
Sơn là những người còn trong “bí mật” chưa xuất đầu lộ diện. Thậm
chí có người còn điều hành các thương vụ làm ăn tại VN, và cũng có
dịch vụ tại Nam Cali, chuyên làm di trú đưa những người từ VN, mà đa
số là con cháu cán bộ VC, qua Mỹ v.v... càng làm cho dư luận thêm hồ
nghi.
May mắn thay những sự kiện nêu trên có
người con của ký giả Đạm Phong là anh Nguyễn Thanh Tú, can đảm sẽ đưa ra ánh
sáng tất cả những các tổ chức đấu tranh cuội VGVC hải ngoại này trước tòa án
hình sự QT nay mai !.
Nhưng biết
đâu những người này vì yêu nước mà cao cả hy sinh quyền lợi của cá
nhân hay gia đình thì sao? Dù là vậy, nhưng cộng đồng người Việt đâu
có muốn chuyện đã rồi hay lỡ “Trao trứng cho ác”?
Nhất là trong hiện tại, khi đã có sự hiện diện của Chính Phủ
Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời, mà dù có bầu hay không bầu với hàng nghìn
người đồng bào tại trung tâm tị nạn cộng sản tại CALI mời xem :
Ngày 23/06/1991 cả hàng ngàn đồng bào
tại Cali nghênh đón Thủ Tướng Đào Minh Quân.
Cơ duyên xem qua hình ảnh này
ai cũng dần nhận ra tầm vóc công khai Chính Nghĩa để trở thành đối thủ
duy nhất có thể triệt
hạ CSVN khi cơ chế Chính Phủ này được đồng bào mạnh mẽ hổ trợ. Dù gì
thì cơ chế này cũng do một số Nhân Sĩ trong 3 thế hệ Việt Nam bầu
lên từ thập niên 1990, là yếu tố “DÂN BẦU”, khác
với VC là “đảng cử”. Vả lại, cơ chế Chính Phủ này cũng đã trãi qua
3 đời Tổng Thống Hoa Kỳ giúp đỡ, 28 QG
Liên Minh Châu Âu công nhận có Công
Hàm trao đỗi , nếu không nói là 1 hình thức
gián tiếp thừa nhận. Chính Phủ này cũng đang kêu gọi dân chúng ủng
hộ bằng một chữ ký TCDY ngồi tại nhà ký, xem đó là cách đấu tranh bất bạo động và
khoa học, không cần đi biểu tình hay theo kế sách 3 sạch đốt phá gì gì để rồi bị cs bắt tù tội. Cuộc TCDY khi đủ số phiếu tối thiểu
ngang với số đảng viên cs hiện hữu, thì việc giải thể cái
gọi là “Nhà Nước CHXHCNVN” mà dân ta đang chê chán, muốn vứt bỏ
đám VC tàn hại này không khó khăn nào cản trở cả !. Do đó, khi Chính Phủ này đang
ra sức kêu gọi toàn dân dẹp bỏ CSVN bằng phương pháp lật tẩy lý lịch
giả mạo của Hồ Chí Minh, không chấp nhận vai trò đại diện Việt Nam
của CSVN trước Liên Hiệp Quốc, khiến cho VC đang lúng túng tháo gỡ
trong lúc này, làm sao “gỡ bí” cho Việt Cộng ?.
Để hổ
trợ việc “Ký TCDY” có kết
qủa lâu dài, thay vì ký 1 là thư “Thỉnh Nguyện dài ngoằn” vừa chưa
chắc có kết qủa, lại có tính chất yếu ớt nhu nhược, vừa ỷ lại
vào ngoại bang, mà thường những vị lãnh đạo cao cấp của các nước
không có thì giờ đọc qua và phải ký nhiều lần, thì chúng ta nên can
đảm hãnh diện ký 1 lần
TCDY ngắn (đính kèm), vừa nói lên khí thế và tính chất can đảm,
kiên cường của nòi giống Việt, vừa là tiếng nói mạnh mẽ khẳng định
với quốc tế là người Việt KHÔNG CHẤP NHẬN chế độ Cộng Sản, chắn
chắn có kết qủa và chỉ ký 1 lần, mà có thể xử dụng mãi cho đến
ngày giải thể được chế độ Cộng Sản tại Việt Nam. Hay ít ra, có thể
cùng ký 2 bản “Thỉnh Nguyện” 1 lần, để có giá trị hơn và thêm nhiều
người đồng thuận. Đó mới là “TRIỆU CON TIM 1 TIẾNG NÓI”. Toàn đồng bào nghĩ sao?
Chắc chắn
qúi vị và các bạn là những nhà ái quốc chân chính, là những người
làm việc vì công đạo, chứ không phải là tay sai của VC hay đang bị
“Lệnh Trên” của CSVN núp sau lưng giật dây điều khiển chứ? và nên nhớ:
NHỮNG NHÀ
TRÍ THỨC VÀ THANH NIÊN VIỆT NAM CẦN SÁNG SUỐT BẰNG TRÍ
TUỆ CỦA MÌNH MÀ ĐỨNG LÊN MẠNH MẼ SÁT CÁNH CÙNG CHUNG
LƯNG ĐẤU CẬT VỚI CPQGVNLT, HẦU CỨU NGUY DÂN TỘC SẮP HAY sẻ RƠI VÀO
BẮC THUỘC TÀU CỘNG NĂM 2020 KHÔNG CÒN XA NỮA !
( HTN )
2017-09-19
10:44 GMT+02:00 King <
From: mailto:lhvbac
Sent: Tuesday, September 19,
2017 6:42 AM
To: lhvbac
Subject: [lhvbac] EM TÔI - Phan
Nhật Nam
Nghe nói cha của Phan Nhật Nam là 1 ông Tướng Bắc việt, trong tù cũng nghe nói
ông ta gặp PNN và vẫn câu nói (như vẹt) “Học tập tốt, lao động tốt, Đảng sẽ
khoan hồng”..........tin đồn cũng nói sẽ bảo đảm cho PNN sớm được tha về, nhưng
PNN từ chối......
qdtran26
-------
EM TÔI - Phan Nhật Nam
Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ lên đường tập kết ra Bắc. Tôi hơn em sáu tuổi. Chín tuổi con nhà nghèo khôn lắm, tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những tiếng thở dài và những giọt nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín tuổi, tôi đã biết mình là người nam độc nhất trong gia đình, đã biết ẩm bồng đút cơm cho em và vỗ về em mỗi khi em khóc. Chín tuổi, tôi đã biết tắm rửa, thay áo thay quần cho em, cõng em đi chơi và dỗ cho em ngủ. Mỗi ngày, trời sập tối mẹ mới gánh hàng về, ba mẹ con ngôì ăn cơm bên ngọn đèn dầu , tôi và em hỏi han, an ủi mẹ. Mẹ kể cho chúng tôi nghe chuyện chợ búa như đang nói chuyện với người lớn, tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai gầy của mẹ, nhìn mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô cùng.
Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để trông chừng em. Mẹ có một sạp
bán rau cải ở chợ Cồn. Gọi là sạp chứ thực ra chỉ là một ô đất nhỏ, sáng mẹ ra
đi thật sớm, lúc trời còn mờ sương, buổi trưa mẹ về nhà lo cho chúng tôi ăn, nằm
nghỉ ít phút rồi trở dậy sửa soạn cho chuyến chợ chiều. Một tuần bảy ngày, mẹ
đi đi về về trong nỗi cô đơn. Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho em vào mẫu
giáo, tôi cũng trở lại trường, đám bạn cũ của tôi nay đã hơn tôi hai lớp, ngồi
xung quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi hai, ba tuổi. Tôi là học
trò lớn nhất và học khá nên được làm trưởng lớp. Gần cuối năm học lớp nhì, tôi
nói với mẹ lên xin thầy Hiệu trưởng cho tôi được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng
lòng. Tôi cắm cúi học luyện thi và kết qủa là tôi đã đỗ được bằng tiểu học năm
đó.
Vào lớp đệ thất trường Trần quốc
Tuấn, tôi tiếp tục học ngày, học đêm, năm đệ ngũ tôi thi nhảy một lần nữa lấy bằng
Trung học. Đến niên học đệ tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn cũ, tôi hân hoan nhập
bầy chung với đám bạn ngày xưa. Đây là giai đoạn mà tôi cần tiền để mua sách học
và may thêm quần áo, thời tiểu học và trung học đệ nhất cấp thì mặc sao cũng được,
nhưng bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã bắt đầu biết đỏ mặt khi nhìn những đứa
con gái trường nữ, thỉnh thoảng đã biết theo bạn tập uống cafe, phì phà điếu
thuốc. Tiền mẹ cho không đủ, tôi bắt đầu công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm
tiền. Học trò của tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghĩa là cũng chỉ bé thua
tôi vài tuổi . Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về căn nhà nhỏ, căn nhà vẫn không
thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy mẹ con để ra đi. Hết năm đệ tam, tôi nộp
đơn thi Tú Tài phần nhất. Tôi đậu bình thứ. Một lần nữa, mọi người ngạc nhiên,
nhưng tôi biết sức học của mình, tôi biết mẹ buôn bán tảo tần, tôi thấy những
năm tháng gần đây mẹ trở bệnh hoài, mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật sớm nấu cơm để
dành cho anh em tôi, rồi lặng lẽ mang đôi quang gánh lên vai, những tối ngồi
trâm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn anh em tôi học bài và những đêm khuya mẹ trở
mình húng hắng ho. Tôi thương mẹ và em đến ứa nước mắt, và càng thương mẹ
thương em, tôi càng học như điên, như cuồng. Tôi ước gì Bộ Giáo dục cho tôi thi
hai bằng tú tài cùng một lúc. Nhìn mái tóc mẹ đã lớm chớm sợi bạc, nhìn lưng mẹ
mỗi ngày mỗi như còng xuống, nhìn hai vai gầy của mẹ mà lòng quặn đau, và cứ thế,
tôi vùi đầu vào sách vở...
Em đã bắt đầu tuổi lớn, đã bắt đầu
tuổi mộng mơ con gái, đã bắt đầu bước vào "tuổi ngọc", nhưng tội nghiệp,
biết nhà mình nghèo, biết mẹ mình buôn thúng bán bưng, biết anh mình vẫn chiều
chiều đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và cặm cụi học đốt giai đoạn cho chóng thành
tài. Biết thế nên em ít khi nào xin mẹ, xin anh tiền may áo mới, hai chiếc áo
dài trắng đủ cho em thay đổi. Em lớn lên thiếu tình của bố, nên tôi "quyền
huynh thế phụ". Nhiều lúc nhìn mẹ , nhìn em, tôi vẫn không hiểu tại sao bố
lại đành đoạn dứt áo ra đi. Tôi thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế
học Đại học Văn khoa. Mẹ ở một mình với em ở Đà nẳng. Mỗi cuối tuần, tôi theo
xe đò về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường. Ở Huế, tôi tiếp tục
công việc kèm trẻ tư gia. Với số tiền nhỏ nhoi kiếm đuợc, tôi phụ mẹ một ít
nuôi em.
Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy
tháng, một chiều mẹ bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ, mẹ sai
em cạo gió và nấu cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói
mê, sáng hôm sau em nghỉ học chở mẹ vào nhà thương và nhờ người nhắn tin ra cho
tôi ở Huế. Lật đật trở vào Đà nẳng bằng chuyến xe đò chót. Trời tối đã lâu,
không kịp ăn uống, từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh viện. Trong căn phòng nhỏ,
dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, còn em đang ngồi
ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Đứng yên lặng nhìn mẹ xanh xao bất động, và khuôn mặt
thơ dại của em, trong giấc ngủ hai khoé mắt vẫn còn long lanh giọt lệ, tôi nghe
lòng mình quặn thắt .
Đánh thức em dậy, em ngơ ngác dụi
mắt vài giây. Nhận ra tôi, em nhào tới ôm chầm và oà lên khóc, em cho hay là từ
lúc đưa mẹ vào đây, mẹ chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau đó mẹ
hôn mê trở lại. Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện. Cô y tá trực
cho hay mẹ bị đứt một tỉnh mach ở đầu. Tôi bàng hoàng như bị ai nện một nhát
búa vào ngực. Cô y tá bùi ngùi nhìn em, đôi mắt xót xa ... Tối đó, anh em tôi
cùng ở lại với mẹ, em mệt mỏi, nên chỉ một thoáng là đã ngủ say. Trong giấc ngủ
mệt nhọc, thỉnh thoảng em ú ớ mẹ ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như
dao cắt trong lòng. Suốt đêm không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên
chân mẹ em ngủ chập chờn. Tôi tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc ...
nhưng sao nước mắt vẫn cứ trào ra, một tay ve vuốt bàn tay xanh xao của mẹ, một
tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của em, tôi để mặc cho hai giòng nước mắt chảy nhạt
nhoà trên má.
Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ
sáng, mẹ không tỉnh lại để trăn trối với hai con một lời gì. Mẹ đi trong yên lặng.
Tôi nắm bàn tay mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy. Hai anh em
hôn lên trán mẹ gỉa từ. Em vuốt mắt mẹ. Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm chặt hai tay mẹ, ủ
vào lòng mình miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi... Em khóc lặng lẽ, áp mình
vào ngực mẹ nước mắt em tuôn ràn rụa làm ướt đẩm cả vạt áo me bạc màu . Những
tiếng kêu nghẹn ngào của em như những viên đạn bắn thẳng vào tim, tôi ngồi bất
động nhìn mẹ, nhìn em, lòng đau như muối xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em
tôi. Em mới mười ba tuổi ...
Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn
lòng dạ nào mà học nữa. Nhưng em thì phải trở lại trường. Bán đi căn nhà nhỏ
xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn liếng của mẹ để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ
của Minh, một người bạn thân tôi. Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi , cùng lớp với
em. Tôi gửi em đến đó ở và đi học với Hân, cũng may, bố mẹ Minh coi anh em tôi
như con. Tôi dặn dò em đủ điều . Số tiền tôi gởi cho mẹ Minh đủ để trả tiền ăn ở
của em trong hai ba năm. Tôi còn đưa thêm cho em một ít để em mua sách vở, may
áo quần, tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa với lòng, hứa với vong hồn mẹ là sẽ lo lắng,
sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời .
Tôi vào trường Võ bị Đà Lạt năm
20 tuổi, lương sinh viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài nhiều, để
dành gởi về cho em mỗi tháng. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể cho tôi nghe chuyện
học hành. Tôi bắt em hứa là không bao gi dấu tôi một điều gì dù nhỏ bé. Em
ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi năm tôi được về phép một lần, hai anh em quấn quýt
không rời. Tôi đưa em đi thăm mẹ. Chúng tôi lặng yên cầm tay nhau quỳ bên mộ mẹ,
nước mắt lưng tròng.
Em lớn lên và ngày càng giống mẹ.
Cũng khuôn mặt và cái nhìn nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt. Bình
thường em rất ít nói, có lẽ không cha, mồ côi mẹ qúa sớm và anh lại ở xa đã làm
em rụt rè. Cũng may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khoá của tôi, em và Hân
cùng lên tham dự, lúc này, em đã thi đổ vào trường Sư phạm Qui Nhơn, hai năm nửa
em sẽ trở thành cô giáo, tôi hãnh diện giới thiệu em và Hân với các bạn mình.
Nhìn dáng em thẹn thùng e ấp, tôi thấy lòng mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi
mẹ, mẹ ơi, hai con của mẹ đã trưởng thành và đã nên người .
Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy
dù, có lẽ cũng chỉ vì tôi thích màu mũ đỏ. Em vào học và ở nội trú trong trường
sư phạm. Tôi thấy mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một nửa tiền
lương lính của mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con gái cần nhiều thứ
hơn con trai, như áo quần, son phấn... Em vẫn viết thư cho tôi mỗi tuần như em
đã làm trong mấy năm qua. Em kể chuyện học hành, chuyện bạn bè, em lo sợ là tôi
đi tác chiến nhở có ngày bố con gặp nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra nhau,
em không nói thêm, nhưng tôi cũng hiểu, tên đạn vô tình, nếu nhỡ....
Hai năm em học Sư Phạm trôi qua
thật nhanh. Em bây giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một trường
tiểu học gần thị xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo khác. Mỗi ngày
ba cô giáo ngồi xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng quây quần nấu nướng . Em
viết thư cho tôi và khoe có quen với Tuấn, một Sĩ quan Hải quân đồn trú ở Phan
rang. Em khen Tuấn hiền lành, ít nói. Em kể thêm là Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ
già.
Chiến tranh ngày thêm khốc liệt,
đơn vị tôi hành quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới được về hậu cứ một
lần. Tôi bị thương hai lần trong cùng một năm. Tôi dấu em, không cho em biết sợ
em lo lắng. Trong những tuần lể nằm bệnh viện và ở hậu cứ dưỡng thương, tôi bắt
đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những trận đụng độ kinh
hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những "kỳ tích" của bạn
tôi, của Mễ, của Lô ....
Sau một lần bị thương nhẹ ở tay,
tôi lấy mấy ngày phép ra Phan Rang thăm em. Em mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy
cánh tay băng bột em xót xa bật khóc. Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị
thương này tôi sẽ được về làm việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn đến
thăm . Thoạt nhìn, tôi đã có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn trông rất
hiền lành. Trong suốt tuần lể ở Phan rang, em vẫn phải đi dạy, nhưng may là có
Tuấn, mỗi ngày Tuấn tới chở tôi đi ăn sáng , trưa Tuấn và tôi lang thang ra chợ
bạ gì ăn đó đợi giờ ba cô giáo đi dạy học về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi
lại nói chuyện với tôi cho tới khuya. Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện
của mình. Những hình ảnh yêu dấu, xót xa như một cuộn phim củ quay chầm chậm.
Tôi rưng rưng kể lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm tối, tôi thấy
mắt Tuấn long lanh ...
Bảy ngày phép cũng trôi nhanh.
Tôi trở về Saigòn, lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi
tin Tuấn sẽ không làm khổ em. Ba tuần sau, tôi nhận được thư Tuấn, trong thư Tuấn
kể về gia đình (mặc dù tôi đã nghe em kể trong các lá thư). Tuấn muốn tiến tới
với em. Tuấn xin phép được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi. Tuấn hứa là sẽ săn sóc và
thương yêu em. Đọc thư Tuấn tôi ứa nước mắt vì mừng. Mừng cho em may mắn không
gặp những trắc trở trên đường tình ái, mừng cho em gặp được một người chồng hiền
hậu. Tôi viết thư cho em và Tuấn, bảo hai em lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm
sao cho giản đơn vì cả hai đứa cùng nghèo .
Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám
cưới, nhà gái ngoài tôi còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng,
thầy cô giáo và rất đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh chị
họ còn thêm một số bạn bè Hải quân cùng đơn vị. Nhìn em súng sính trong bộ đồ
cưới , tươi cười đứng bên cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi, mẹ ơi, về đây dự đám
cưới của em.
Tôi theo đơn vị lội thêm hai năm
nửa ở vùng giới tuyến, thì "tai nạn" xảy ra. Trong một lúc nóng giận
vì thấy ông xếp của mình sao ngu và bẩn quá, tôi không giữ được lời và đã xúc
phạm đến ông, kết quả là tôi bị đưa ra hội đồng kỷ luật và tống ra khỏi binh chủng
nhảy dù. Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi đổi về cục Tâm lý Chiến, thời
gian này tôi đã khá nổi tiếng , những bút ký chiến trường về Tết Mậu Thân, Bình
Long. An Lộc ... đã làm vinh danh binh chủng cũ của tôi. Tôi được giải thưởng
văn học với bút ký "Mùa hè đỏ lửa". Tiền thưởng và tiền bán sách tôi
gửi hết cho em. Tuấn và em dùng tiền này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô
Phan rang, gần trường em dạy.
Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp
bên vai Tuấn mà bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rãnh rỗi tôi lại ra Phan Rang ở
chơi với em, với cháu. Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính, hít vào phổi
mùi thơm của trẻ thơ mà thấy lòng mình dịu lại, những cay đắng, cực nhọc của đời
theo tiếng cười lanh lãnh dòn tan của cháu mà bay xa, bay xa. Tôi nhìn hai vợ
chồng em, nhìn bầy cháu nhỏ lẫm chẫm quây quần bên chân mẹ mà lòng vừa vui mừng
vừa hãnh diện. Tôi ao uớc mẹ tôi nhìn thấy được cảnh này.
Biến cố tháng 4/75 tới như một định mệnh oan nghiệt, cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo. Em ở lại một mình với một bầy con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ. Trong trại, tôi cứ đứt ruột nghĩ về em và bầy cháu nhỏ. Mẹ của Tuấn đã qúa già, làm sao lo phụ với em đây. Rồi em còn phải lo lắng về số phận chồng, số phận anh. Tôi quay quắt như như ngồi trên đống lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn mẹ hôm nào mà lòng đau như xé, con đã thất hứa với mẹ, mẹ ơi, con đang ở đây tù tội thì làm sao lo được cho em ...
Năm 76 tôi bị đưa ra Bắc. Tôi mất
liên lạc với em và Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết tôi ở đâu mà thư từ thăm
gửi. Không biết em có biết Tuấn ở đâu không, trại tù mọc lên như nấm từ Nam ra
Bắc. Hồi còn ở trong Nam, từ Trảng lớn, qua Suối máu , đâu đâu tôi cũng cố dò hỏi
tin Tuấn nhưng vô hiệu. Tù nhân đông qúa ...
Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho
viết thư về gia đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em.Thư em đến tay
tôi vào giữa năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ của em. Run run
bóc thư, mắt tôi cay nồng, nhạt nhoà. Em cho hay là Tuấn đang cải tạo ở Long
Thành, Tuấn có thư về và cho biết vẫn bình an, mẹ Tuấn dạo này yếu lắm vì cụ đã
quá già, em vẫn đi dạy, hai cháu nhỏ ở nhà với bà nội, hai cháu lớn theo mẹ vào
trường, em cho hay đứa con gái út em đặt tên Tâm, Trần thị Minh Tâm, cháu sinh
ngày 12 tháng 9 năm 75, gần 4 tháng sau ngày bố cháu và bác cháu vào tù.
Gần cuối thư, em báo tin là bố
còn sống và hồi đầu năm 76 có tìm đến gặp em, làm sao bố tìm ra địa chỉ thì em
không biết, nhưng hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu tên mình. Em ngỡ ngàng, ngày
bố ra đi em mới tròn ba tuổi, hơn hai mươi năm sau gặp lại làm sao em nhận được
, bố xoa đầu đám cháu ngoại đang trố mắt nhìn nguời đàn ông lạ, bố hỏi về anh,
về Tuấn, khi em hỏi lại bố là làm sao để biết anh và Tuấn đang bị giam giữ ở trại
cải tạo nào, bố lắc đầu không nói gì. Bố cho hay là bố đang có gia đình ở Bắc,
ngoài ấy bố có thêm hai trai và hai gái. Đứa trai lớn nhất thua em bốn tuổi.
Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo
và một chục cam. Bố ở chơi một ngày rồi bố trở về Hà nội. Lúc bố về em có tặng
bố cái radio-cassette của anh cho ngày nào. Bố thích lắm, bố hưá sẽ đến thăm
anh trong trại tù. Từ hồi trở ra Bắc dến giờ bố chưa liên lạc lại với em, và em
cũng không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy.
Tôi đọc thư lòng thấy phân vân,
tôi cũng như em, không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mủi ra sao, hai
mươi mấy năm, tôi tưởng bố tôi đã chết. Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn
La, bố đến thăm tôi . Đứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một người
đàn ông trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần dân sự khá thẳng
thớm, và sự lễ phép của viên đại úy truởng trại tiết lộ về điạ vị không nhỏ của
người này. Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay qua nói nhỏ một câu gì đó rồi bước
ra ngoài. Tôi im lặng đứng nhìn người đàn ông xa lạ .
Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên
mình, bố gọi tôi bằng anh, bố kể là đã gặp em ở Phan Rang, bố hỏi tôi học tập
thế nào, bố không hề nhắc đến mẹ, có lẽ ông đã biết về cái chết của mẹ. Bố nói
là có đọc văn tôi. Tôi ngồi yên nghe bố nói, sau cùng , bố đứng dậy, móc trong
xách ra một gói nhỏ bảo đó là đường và thuốc lá, trao cho tôi, khuyên tôi cố gắng
học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt bố, lòng thấy dững dưng.
Tôi bắt tay bố rồi về lại lán mình.
Đó, cuộc hội ngộ của bố con tôi
sau hơn hai mươi năm là thế đấy. Chắc cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt
như thế. Có cái gì đó ngăn cách, có cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không
hiểu và không diễn tả được. Bây gi tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng đến thế
mà em lại chỉ đề cập một cách ngắn ngủi ở cuối thư. Lần đó là lần đầu và cũng
là lần duy nhất tôi gặp bố trong suốt 13 năm lang thang trong các trại tù biệt
giam miền Bắc. Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm được hai lá
thư của em, trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78. Em cho hay tình trạng
rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ già và bốn con thơ, em đã bán
lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả những đồ vật trong nhà. Em vẫn chưa
đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào. Không thể để bốn cháu nhỏ ở nhà cho bà nội
vì cụ bây giờđã quá yếu, mỗi buổi ăn, Uyên, cháu lớn phải đút cho bà. Ngoài ra,
mỗi tối, từ lúc chạng vạng em và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu ngõ, ngồi bán bắp
nướng đến khuya để kiếm thêm tiền đong gạo. Em than là dạo này mất ngủ, sức khoẻ
yếu lắm, em sợ nhở có mệnh hệ nào ...
Tôi thẩn thờ cả buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi chỉ lo cho có mỗi
mình em, còn bây giờ em phải lo cho bốn đứa con thơ và một mẹ già, kể luôn người
chồng và ông anh đang tù tội là bảy, bảy cây thập giá đời đang đè nặng lên đôi
vai gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết thư về an ủi , khuyên em cố gắng, tôi vỗ
về em là có thể Tuấn sẽ được tha về sớm với em, với cháu, vì Tuấn đi hải quân
và lon còn thấp, không có tội với cách mạng nhiều. Rồi tôi viết thêm cho em hai
ba lá thư nữa mà vẫn không thấy hồi âm. Lòng tôi cồn cào, nóng như lửa đốt, những
ngày dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái khổ của mình mà chỉ nghĩ đến
em và mấy cháu, không biết giờ này, em và bốn cháu thơ dại đang có gì ăn ?
Tháng 6/79, một sáng trên đường lên rừng đốn nứa, tôi nghe loáng
thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe từ các bà vợ đi thăm nuôi kể lại, rằng
ở Phan Rang có một chị có chồng đang đi cải tạo, chị chết đi, để lại bốn con
thơ, đứa bé nhất mới lên ba, còn đứa lớn nhất chưa đầy chín tuổi. Tội nghiệp, họ
hàng nội ngoại không có một ai. Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống lưng, lại
gần hỏi thêm thì người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô giáo, có
chồng sĩ quan hải quân đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Nguời chồng,
trung úy hải quân trước cũng đóng ở Phan Rang. Trần Nguyên Tuấn, hải quân trung
uý Trần nguyên Tuấn .
Tôi thấy đất trời đảo lộn, tôi thấy mặt trời nổ tung trong óc,
tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi rừng Yên Bái, bên cạnh
tôi tiếng nguời nói lao xao. Tôi không nghe gì hết, tai tôi lùng bùng, mắt tôi
mờ đi, tôi đang nhìn thấy xác em nằm co quắp trên manh chiếu, bốn đứa cháu của
tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba tuổi đang lấy tay lay lay xác mẹ, cháu lớn Thu
Uyên chưa đủ chín tuổi đang ôm chân mẹ khóc lóc ủ ê, hai đứa kia, Hoàng và Châu
ngơ ngác đứng nhìn. Trời tháng 6 mùa hè Yên bái mà sao tôi thấy thân mình lạnh
buốt. Tôi tê dại, tôi hoá đá, tôi không còn cảm xúc, tôi muốn hét lên cho tan vỡ
cả vũ trụ này. Trong lung linh màu nắng vàng buổi trưa Yên Bái, tôi thấy bóng
em nhập nhoà, chập chờn. Em của tôi, đứa em côi cút của tôi ....
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc
nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt
nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài
trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
-------
Garanti sans virus. www.avast.com
|
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks