From:
Mời đọc một tài liệu hayvề bí ẩn của Hiệp định
Paris
AI CUNG BIET CHINH
NIXON VA KISSINGER LA 2 NGUOI DA BAN DUNG VNCH CHO CONG SAN DE LAY LONG
TRUNG CONG
Là một quốc gia có diện tích không nhỏ, dân số
cũng đông có hạng và chiếm ngữ một địa thế đắc địa ở Đông nam á thay vì nếu ở
xa thằng Tàu thì dân tộc chúng ta đã có được một đời sống tương đối tốt đẹp hơn
trăm vạn lần.
Đọc xong
bài này tôi cứ nghĩ mọi cơ hội tốt đẹp cho VN té ra lại chỉ bị một anh H Kiss
xoay như xoay váy, sau khi qua Liên Xô xin họ giảm quân viện cho VN(điều này
thực ra LX lại tăng thêm cho HN để dứt điểm Nam Việt), rồi qua Tàu ăn óc khỉ và
tay gấu bàn giao Đông Dương và Biển Đông cho Tàu, hắn vào Nam ép TT Thiệu ký văn
bản hiệp ước hòa bình vô điều kiện, lại nhãy ra Hà Nội dự ký bản mật ước bồi hoàn
sau hậu chiến 4,3 tỹ đô...
ĐẰNG SAU HIỆP ĐỊNH PARIS, MẬT ƯỚC NIXON & PHẠM
VĂN ĐỒNG
Bùi Anh Trinh
Năm 1973, ngày 7.2, mười
một ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris, Kissinger lên đường đi Hà Nội. Tại Hà
Nội Kissinger trao cho Phạm văn Đồng một công hàm của Tổng Thống Nixon, trong
đó quy định thể thức thanh toán số tiền bồi thường chiến tranh cho Hà Nội là
4,75 tỷ USD. Sau đó Thủ Tướng cộng sản Việt Nam Phạm văn Đồng giao cho
Kissinger mang về cho Tổng Thống Hoa Kỳ một công hàm hoan nghênh tinh thần Mật
ước của Nixon và hứa sẽ thi hành nghiêm chỉnh Mật ước này. Như vậy là Mật ước
đã có đủ chữ ký của cả hai người cầm đầu chính phủ. (Lưu văn Lợi, Các Cuộc
Thương Lượng Lê đức Thọ & Kissinger tại Paris)
Nguyên
văn Mật ước:
Ngày
1 tháng 2 năm 1973.
Tổng
Thống thông báo cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa những nguyên tắc sẽ chỉ đạo sự
tham gia của Hoa Kỳ về việc xây dựng lại sau chiến tranh ở Bắc Việt Nam. Như đã
nêu trong Điều 21 của Hiệp Định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam được ký kết tại Paris ngày 27 tháng giêng năm 1973, Hoa Kỳ thực hiện
sự tham gia này theo chính sách truyền thống của mình.
Những
nguyên tắc đó là:
1.-
Hoa Kỳ sẽ đóng góp xây dựng lại Bắc Việt sau chiến tranh mà không cần một đòi
hỏi chính trị nào.
2.-
Con số cam kết sơ khởi là 3,25 tỷ Dollars viện trợ không hoàn lại
trong vòng 5 năm. Những hình thức viện trợ khác (viện trợ phát triển kinh tế) sẽ
được nghiên cứu sau.
3.-
Công việc điều hành kế hoạch viện trợ sẽ do một Ủy Ban được đặt tên là Ủy ban
hỗn hợp kinh tế Hoa Kỳ-Bắc Việt. Ủy ban sẽ được hình thành trong vòng 30 ngày
sau khi ký Hiệp Định.
4.-
Chức năng của Ủy ban này sẽ là đề ra các chương trình cho việc đóng góp của Hoa
Kỳ vào công cuộc xây dựng lại ở Bắc Việt Nam. Sự đóng góp của Hoa Kỳ sẽ tiến
hành trên cơ sở những yếu tố sau đây:
a/
Các nhu cầu của Bắc Việt Nam do những tàn phá của chiến tranh gây
nên.
b/
Các yêu cầu của công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh trong các lĩnh vực nông
nghiệp và công nghiệp của nền kinh tế Bắc Việt Nam.
5.-)
Ủy ban hỗn hợp kinh tế sẽ gồm những đại diện ngang nhau của mỗi bên. Ủy
ban sẽ thỏa thuận về một bộ máy để quản lý chương trình đóng góp của Hoa
Kỳ vào công cuộc xây dựng lại Bắc Việt Nam. Ủy ban sẽ cố gắng hoàn thành
sự thỏa thuận này trong vòng 60 ngày sau khi được thành lập.
6.-
Hai thành viên của Ủy ban sẽ hoạt động trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Những trụ sở của Ủy ban sẽ đặt tại một nơi sẽ được thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
7.-
Hoa Kỳ cho rằng việc thực hiện những nguyên tắc nói trên sẽ thúc đẩy những quan
hệ kinh tế thương mại và các quan hệ khác giữa Hoa Kỳ và Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa và sẽ góp phần vào việc bảo đảm một nền hòa bình vững chắc
và lâu dài ở Đông Dương. Những nguyên tắc này phù hợp với tinh thần của Chương
VIII của Hiệp Định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam ký tại
Paris ngày 27 tháng giêng năm 1973.
Điều
ghi chú về những hình thức viện trợ khác:
Về
những hình thức viện trợ khác, việc nghiên cứu của Hoa Kỳ cho thấy rằng những
chương trình thích hợp có thể là vào khoảng 1 đến 1,5 tỷ đô la tùy theo
nhu cầu của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về lương thực và hàng hóa khác.
Hiểu
biết về Chương trình xây dựng lại kinh tế:
Có
sự hiểu biết là những đề nghị của ủy ban hỗn hợp kinh tế nói trong công hàm của
Tổng Thống gửi Thủ Tướng sẽ do mỗi thành viên thực hiện theo những quy định của
Hiến Pháp của mình’’ (Lưu văn Lợi, Các Cuộc Thương Lượng Lê đức Thọ-Kissinger
Tại Paris).
Tại
sao cả hai bên đều không thi hành mật ước ?
Như vậy những gì hai bên
thương lượng với nhau suốt 4 năm không nằm trong Hiệp Định, mà nằm trong Mật
ước. Và hai bên ký với nhau Hiệp Định Paris chỉ là che mắt thế gian, còn Mật
ước mới là kết quả thương lượng thực giữa hai bên.
Khoan nói tới hai bên đã
mật cam kết với nhau những gì, nhưng tại sao lại không giữ lời giao ước ? Đây
là một giao ước mật chứ không phải là giao ước công khai. Một khi giao ước mật
được ký kết thì phải được tôn trọng tuyệt đối, gần như là lời thề thiêng liêng.
Nếu có một bên phản bội thì bên kia chỉ cần tung mật ước ra trước ánh sáng thì
bên vi phạm sẽ trở thành kẻ lừa đảo.
Mãi đến ngày 19.5.1977
Tổng Thống Hoa Kỳ Cater mới loan báo rằng sau khi ký Hiệp Định Paris 1973, Tổng
Thống Nixon đã có ký với Hà Nội một mật ước riêng. Trong đó cam kết bồi thường
4,75 tỷ USD cho Hà Nội.
Sau loan báo của Tổng
Thống, Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên bố đó chỉ là lời hứa của người đứng đầu cơ quan
hành pháp Hoa Kỳ, cho nên quốc gia Hoa Kỳ không có trách nhiệm phải thi hành
cam kết đó. Vì vậy dư luận hiểu rằng chính phía Hoa Kỳ đã không thi hành đúng
như cam kết, nghĩa là sau
Hiệp Định Paris Hoa Kỳ không chung cho Hà Nội một đồng nào trong số 4,75 tỷ.
Vấn đề được đặt ra là
tại sao Nixon lại không thi hành những điều mà ông nhân danh Tổng Thống Hoa Kỳ
để viết ra ? Trong khi đó Hà Nội cũng không đưa mật ước ra để tố cáo Nixon thất
hứa ? Nhất là khi Nixon còn tại chức ? Đặc biệt theo như nhân dân Hoa Kỳ được
biết một cách không chính thức thì Hoa Kỳ chỉ phải chung cho Hà Nội 3,25 tỷ đô
la mà thôi, tại sao giờ đây chính phủ Cater lại loan báo là 4,75 tỷ.
Còn về phía Hà Nội tại
sao họ cứ một mực tố cáo Nguyễn Văn Thiệu vi phạm Hiệp Định mà không công khai
hay bán công khai tố cáo Nixon không giữ lời hứa về số tiền tái thiết Bắc Việt
? Nhất là khi Nixon còn tại chức ?
Chìa
khóa giải mã
Năm 1998 chính phủ cộng
sản Việt Nam (Phan văn Khải) đã cho công bố toàn bộ biên bản các cuộc mật đàm
giữa Lê đức Thọ và Kissinger bằng một cuốn sách của Đại Tá cộng sản Việt Nam
Lưu văn Lợi, ông là chuyên gia thương thuyết trong phái đoàn Hà Nội tại Paris.
Cuốn sách có tựa đề là ‘’Các Cuộc Thương Lượng Lê đức Thọ & Kissinger tại
Paris’’, sách xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1998 nhưng phổ biến hạn chế, đặc biệt
không cho lưu hành trong nước.
Đến tháng 10 năm 2002
nhà xuất bản ‘’Công an Nhân dân’’ mới in lại và xuất bản trong nước. Trong
chương cuối có đăng nguyên văn bản mật ước Nixon-Phạm văn Đồng, được Nixon ký
ngày 1.2.1973, nghĩa là 4 ngày sau khi hai bên ký kết Hiệp Định Paris.
Bản mật ước gồm có 7
mục, trong đó 3 mục đầu quy định thể thức chi trả 3,25 tiền bồi thường chiến
tranh và 4 mục sau quy định thể thức viện trợ kinh tế dài hạn cho Hà Nội, bước
đầu là 1,5 tỷ hàng hóa và lương thực (viện trợ với lãi xuất ưu đãi). Cơ quan
điều hành hệ thống viện trợ bồi thường chiến tranh của Hoa Kỳ tại Hà Nội sẽ được
thành lập xong trong vòng 30 ngày sau khi Hiệp Định Paris được ký kết. Và hệ
thống sẽ đi vào hoạt động trong vòng 60 ngày sau khi được thành lập, nghĩa là
đồng đô la viện trợ đầu tiên sẽ đến Hà Nội 1 tháng sau khi người tù binh Hoa Kỳ
cuối cùng đã được thả (Tù binh được thả trong vòng 60 ngày).
So sánh thời gian trao
trả tù binh và thời gian bắt đầu chung viện trợ thì có thể kết luận được rằng ‘’Nếu Hà Nội thả hết 391 tù binh Hoa
Kỳ xong rồi thì Hoa Kỳ mới thưởng bằng tiền viện trợ’’ Đây là
lời hứa của bên chiến thắng: Hà Nội phải thả hết tù binh vô điều kiện, thả xong
tới người cuối cùng một cách vui vẻ thì mới được chung 4,75 tỷ. (Thường thì
giao ước bồi thường và trao trả tù binh được thực hiện trên nguyên tắc: Đồng
tiền đầu tiên được đưa ra cùng với người tù đầu tiên được thả, và đồng tiền
cuối cùng được đưa ra cùng với ngày người tù binh cuối cùng được thả. Thêm một
bằng chứng chứng minh Hà Nội đã đầu hàng sau cuộc dội bom).
Vậy
thì ai đánh lừa ai ?
Sự kiện tù binh phải
được thả hết trước khi Hà Nội nhận được viện trợ chứng tỏ Hoa Kỳ không có lý do
gì để sợ Hà Nội phản bội mật ước. Có chăng là Hà Nội sợ Hoa Kỳ lấy xong tù binh
rồi quỵt nợ không chung tiền. Và thực tế xảy ra đúng như vậy, Nixon lấy được
toàn bộ tù binh nhưng không chung được 1 đồng như đã hứa. Cái gì khiến cho
Nixon và Kissinger trở thành những tay lừa đảo hạng bét ?
Người ta xem lại biên
bản từng cuộc mật đàm để truy nguyên hoàn cảnh phát sinh ra bản mật ước
Nixon-Phạm văn Đồng. Hóa ra ban đầu, trước trận thả bom 12 ngày đêm thì mật ước
đã được soạn trước nhưng chỉ có 3 mục đầu, nghĩa là bồi thường 3,25 tỷ. Số tiền
này đã được thông báo cho Quốc Hội Hoa Kỳ.
Nhưng sau khi Hà Nội
thiếu điều kéo cờ trắng trong cuộc dội bom 12 ngày đêm thì hai bên mới ngồi lại
và thêm vào 4 mục sau, có thêm 1,5 tỷ viện trợ lương thực và hàng hóa (Đây là
số tiền cho vay để phát triển kinh tế chứ không phải là viện trợ nhân đạo không
hoàn lại). Đồng thời có thêm một kế hoạch viện trợ phát triển kinh tế về lâu về
dài cho Bắc Việt.
So sánh mật ước 3 mục
(trước cuộc dội bom) với mật ước 7 mục (sau cuộc dội bom) thì sau cuộc dội bom
Hà Nội đã được Nixon thưởng thêm bằng cam kết sẽ viện trợ phát tiển kinh tế cho
Hà Nội như là viện trợ cho một nước đồng minh, giống như viện trợ cho Nam Hàn
sau Hiệp Ước Bàn Môn Điếm hay viện trợ cho Sài Gòn sau Hiệp định Genève.
Suy ra Hà Nội đã âm thầm
trở thành đồng minh của Hoa Kỳ sau cuộc dội bom, nghĩa là thay vì đầu hàng thì Hà Nội đã xin
hồi chánh.
Đầu hàng là buông súng
và chịu mọi sự phán xét của kẻ thù, còn hồi chánh là ly khai với phe cọng sản
và trở thành đồng minh của phe tự do. Lê Duẩn quyết định hồi chánh thì có lợi
cho Bắc Việt nhiều hơn so với đầu hàng. Ông ta có quyền ly khai khỏi phe cộng
sản bởi vì Trung Quốc và Liên Sô đã phản bội ông ta trước.
Còn nếu như ông ta đầu
hàng thì không có ai giúp ông hồi phục kinh tế sau chiến tranh mà trái lại ông
còn giữ nguyên quyển sổ nợ chiến phí của Liên Sô và Trung Quốc. Vả lại chạy
theo Mỹ thì tất cả dân Việt từ Nam chí Bắc đều hoan hô ông, còn như tiếp tục
chạy theo hai đàn anh đểu cáng là Trung Quốc và Liên Sô thì dân tộc mãi mãi
trong tăm tối và đói khát như Bắc Hàn hay Cu Ba ngày nay.
Tại
sao không bắt Hà Nội đầu hàng mà lại cho hồi chánh ?
Ngay từ những ngày đầu
có cuộc mật đàm Kissinger-Lê đức Thọ thì Quốc Hội Hoa Kỳ đã mặc nhiên cho phép
Kissinger có quyền bỏ tiền ra lấy tù binh trở về. Vấn đề là Kissinger trình
diễn làm sao cho việc chung tiền không có vẻ là Hoa Kỳ bại trận. Vì vậy Nixon
vẫn hợp pháp khi Kissinger soạn ra tờ ‘’Mật ước 3 điểm’’ hứa chung 3,25 tỷ cho
Hà Nội. Số tiền đã được thông báo cho Quốc Hội Hoa Kỳ và ngay cả dân chúng Hoa
Kỳ cũng được biết một cách không chính thức.
Thế nhưng 4 mục sau (cam
kết thiết lập hệ thống viện trợ kinh tế dài hạn cho Hà Nội) là một việc làm phi
pháp, bởi vì không xin phép Quốc Hội Hoa Kỳ, ‘’lén thỏa thuận với đối phương’’.
Vả lại viện trợ kinh tế dài hạn chỉ được dành cho quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ
chứ không thể nào dành cho ‘’kẻ
thù’’.
Ngoài ra những đối thủ
của Nixon trong Đảng Dân Chủ cũng có thể cáo buộc rằng cái giá để lấy tù binh trở về là
công cuộc viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội. Cũng là phạm pháp
vì không xin phép Quốc Hội, nhưng nếu có xin phép thì Quốc Hội cũng sẽ bác bỏ
bởi vì viện trợ kinh tế chỉ được cung cấp cho các quốc gia đồng minh trong khi
Hà Nội đang là quốc gia thù địch.
Sự kiện Nixon lẫn Hà Nội
giữ kín tờ mật ước cho tới 1977 chứng tỏ ngày đó hai bên đồng thỏa thuận ‘’Hà Nội bí mật hồi chánh’’.
Hà Nội có quyền ly khai khỏi thế giới cọng sản là do Trung Quốc và Liên Sô tráo
trở, cả hai đã ngưng cung cấp vũ khí để buộc Hà Nội phải chấm dứt chiến tranh
và trả tù binh cho Hoa Kỳ.
Thế
nhưng tại sao Nixon lại giấu nhẹm tin Hà Nội hồi chánh ? Câu trả lời rằng nhân dân Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận bởi vì mối
thù giữa Hà Nội và nhân dân Hoa Kỳ đang còn nóng hổi, Quốc Hội và dân chúng Hoa
Kỳ muốn Hà Nội phải đầu hàng chứ dứt khoát không có chuyện Hà Nội tự nhiên trở
thành đồng minh của Hoa Kỳ mà chẳng phải trả giá cho tội lỗi của họ.
Vậy
thì tại sao Nixon không buộc Hà Nội phải đầu hàng đúng theo ước vọng của dân
chúng Hoa Kỳ ? Câu trả lời là Trung
Quốc và Liên Sô sẽ không chấp nhận. Họ đã thỏa thuận trói tay Hà Nội để Hà Nội
ngưng theo đuổi chiến tranh chứ không phải để cho Hoa Kỳ tha hồ đánh Bắc Việt
đến nỗi phải đầu hàng. Thế giới sẽ nguyền rủa hai đàn anh đểu cáng.
Nếu Hà Nội đầu hàng vì
trận dội bom 12 ngày đêm thì đương nhiên Liên Sô và Trung Quốc sẽ công bố cho
thế giới biết rằng trong năm 1972 đích thân Nixon đến Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa
để năn nỉ họ thôi viện trợ vũ khí cho Hà Nội để Hà Nội chấm dứt mộng theo đuổi
chiến tranh, đem lại hòa bình cho nhân dân Việt Nam và cho toàn thế giới chứ họ
không ngờ là Hoa Kỳ đã lợi dụng việc này để tấn công buộc Hà Nội phải đầu hàng.
Hậu quả chắc chắn sẽ kéo
theo sự căng thẳng trở lại giữa Hoa Kỳ và thế giới cọng sản. Và dư luận thế
giới sẽ coi Hoa Kỳ như là một kẻ tráo trở vô liêm sỉ, bởi vì rõ ràng là Hoa Kỳ
đã bị cộng sản Việt Nam đánh bại nhưng lại năn nỉ Liên Sô và Trung Quốc trói
tay Hà Nội để Hoa Kỳ tiếp tục hạ gục Hà Nội.
Vì vậy mà Nixon đã không
kịp trở tay khi nghe Hà Nội đề nghị hồi chánh, ông chỉ còn có nước bí mật giúp
đỡ Hà Nội dưới hình thức viện trợ bồi thường chiến tranh. Sau đó là hiệp thương
trao đổi hàng hóa giữa hai miền Nam Bắc (theo Hiệp Định Genève và Hiệp Định
Paris). Cuối cùng là tổng tuyển cử lựa chọn chế độ (Cũng theo Hiệp Định Genève
và Hiệp Định Paris). Dự
trù đến lúc tổng
tuyển cử thì Hà Nội sẽ sắp xếp cho dân miền Bắc bỏ phiếu quyết định
theo chế độ tự do. Lúc đó Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa sẽ không nói gì được. Và nhân
dân Hoa Kỳ không thể nào từ chối.
*(Ghi chú: Thực ra bức
mật thư đã được Hà Nội tiết lộ dần dần cho các dân biểu nghị sĩ Hoa Kỳ từ năm
1975 nhưng những người này đã nhém đi vì không muốn chung tiền cho Hà Nội. Họ
viện lý do Hà Nội đã không thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Paris:
Tháng 12 năm 1975 phái
đoàn của Hoa Kỳ do Dân Biểu Montgomery dẫn đầu đến Hà Nội đã được xem.
Ngày 15.1.1976 phái đoàn
do Thượng Nghị Sĩ McGovern dẫn đầu đến Hà Nội đã được xem.
Ngày 14.4.1976, báo Nhân
Dân của Hà Nội đăng một phần Mật ước với lời công kích chính phủ Mỹ (Đăng 3
điều đầu, giấu 4 điều sau).
Ngày 3.5.1977, Phái đoàn
đàm phán bình thường hóa quan hệ giữa cộng sản Việt Nam và Hoa Kỳ tại Paris do
Holbrooks dẫn đầu đã được thứ trưởng ngoại giao cộng sản Việt Nam Phan Hiền cho
xem.
Ngày 6.5.1977, báo Nhân
Dân của Hà Nội cho đăng một phần Mật ước và một phần Công hàm đáp nhận của Phạm
văn Đồng cùng với lời chỉ trích chính phủ Mỹ ‘’chà đạp luật pháp quốc tế’’. Dân
Biểu Hoa Kỳ Lester L.Wolff đòi đưa Nixon ra tòa nếu Nixon không đưa ra bản Mật
ước.
Ngày 14.5.1977 Nixon
viết thư trả lời Wolff rằng chẳng có cam kết viện trợ nào cả.
Ngày 19.5.1977, trước
sức ép của Wolff, chính phủ Cater loan báo ngày 1.2.1973 Nixon có ký một Mật
ước với Hà Nội với con số 4,75 tỷ USD (nghĩa là cho lộ luôn 4 điều sau mà Hà
Nội đã giấu).
Ngày 21.5.1977 bộ ngoại
giao Hà Nội cho công bố toàn văn Mật ước của Nixon và công hàm đáp nhận của
Phạm văn Đồng).
…oOo…
ĐẰNG SAU HIỆP ĐỊNH PARIS, MẬT ƯỚC NIXON & NGUYỄN VĂN THIỆU
Bùi Anh Trinh
Năm 1973, ngày 8.1, sau
trận dội bom Mùa Giáng Sinh, Hòa đàm Paris được nối lại, mở đầu phiên họp là
bài diễn văn của Lê đức Thọ, ông ta công kích Hoa Kỳ lật lọng leo thang chiến
tranh. Kissinger không còn vui vẻ hoạt bát như các cuộc họp trước. Buổi chiều
hai bên tiếp tục soạn thảo những chi tiết của văn bản hiệp ước mà trước đây đã
bị bỏ dở.
Ngày 9, 10, 11 và 12.1,
hai bên hoàn thành văn bản của hiệp ước bằng tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Buổi
chiều Kissinger và Sullivan họp với đoàn đàm phán Việt Nam Cộng Hòa để thông
báo nội dung toàn bộ văn bản Hiệp Định. Vấn đề còn lại là Tổng Thống Thiệu có
chấp thuận hay không.
*
Chú giải: Đoạn tường thuật trên
đây được ghi lại trong biên bản của bộ ngoại giao Hà Nội, do Lưu văn Lợi công
bố năm 1998. Đọc qua đoạn biên bản này không ai có thể ngờ rằng đây là một cuộc
họp sau cuộc dội bom Hà Nội 12 ngày đêm của Hoa Kỳ.
Hẳn nhiên là phải có
nhiều biến cố và nhiều thượng lượng đã xảy ra sau khi cuộc dội bom vừa chấm
dứt. Thế nhưng biên bản buổi họp được ghi lại như không hề có gì xảy ra. Chứng
tỏ Lưu văn Lợi đã buộc phải giấu kín những trao đổi đã xảy ra giữa Kissinger và
Lê đức Thọ trước khi hai ông bước vào phiên họp ngày 8.1.1975, tức là từ ngày
ngưng ném bom 29.12.1972.
Những giấu kín đó đã làm
tốn rất nhiều giấy mực của những nhà nghiên cứu thời cuộc, người ta cho rằng Hà
Nội đã chịu đầu hàng trước khi cuộc dội bom chấm dứt. Điều này sẽ được đưa ra
ánh sáng 5 năm sau cái chết của Kissinger.
Năm 1973, ngày 14.1,
Tướng Alexander Haig đến Sài Gòn với tối hậu thư của Nixon cam kết ‘’Chúng tôi sẽ không nhìn nhận quyền
có mặt của quân đội ngoại quốc nào trên mãnh đất miền Nam. Chúng tôi sẽ phản
ứng mãnh liệt trong trường hợp Hiệp Định bị vi phạm…’’, ‘’…Tôi quyết định sẽ
tiếp tục viện trợ đầy đủ kinh tế và quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa’’.
Tối hôm đó họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, Tổng Thống Thiệu trình bày nội dung
tối hậu thư của Nixon. Đa số mọi người đồng ý nên ký vào vì đã có cam kết Mỹ sẽ
tham chiến trở lại để đổi lại việc quân Bắc Việt có thể vi phạm hiệp ước.
Ngày 17.1, Tổng Thống
Thiệu gửi thư phúc đáp cho Tổng Thống Nixon trong một phong bì dán kín và nhờ
Haig chuyển về cho Nixon khi đến Hoa Kỳ. Nhưng Haig về đến Tòa Đại Sứ thì xé
phong bì để chuyển bằng diện tín về Washington. Trong thư Thiệu cho biết cần
một cam kết rõ ràng hơn nhằm bảo đảm cho việc ông ta chấp nhận quân Bắc Việt ở
lại miền Nam (Hồi ký của Alexander Haig).
Ngay đêm đó, trong lúc
Haig còn ở tại Sài Gòn, Đại Sứ Bunker chuyển đến Tổng Thống Thiệu một điện văn
của Nixon, cho biết sau ngày ký hiệp ước, dự trù vào ngày 27.1, Phó Tổng Thống
Agnew sẽ đến Sài Gòn với một bản mật ước của Tổng Thống Nixon, trong đó nêu rõ
ba vấn đề:
1.-
Hoa Kỳ công nhận chính phủ của ngài là chính phủ duy nhất hợp pháp ở miền Nam
Việt Nam.
2.-
Hoa Kỳ không công nhận quyền có mặt của quân ngoại quốc trên lãnh thổ của miền
Nam.
3.-
Hoa Kỳ sẽ phản ứng mãnh liệt nếu bản Hiệp Định bị vi phạm. Ngoài ra: ‘’Tôi
muốn được hội kiến riêng với ngài ba hay bốn tuần sau ở tại San Clements,
California để chúng ta có dịp công khai nhắc lại mối hợp tác giữa hai nước, và
sự cam kết của Hoa Kỳ’’ (Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập).
Trên nguyên tắc, đây
cũng là điều kiện để hình thành Hiệp Định, nếu không có điện thư cam kết đó thì
Tổng Thống Thiệu đã không ký vào Hiệp Định. Nguyên bản bức điện văn được Nguyễn
Tiến Hưng đưa lên sách The Palace File, bản tiếng Việt trang 663.. Vì vậy sau
này cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã hết lời nguyền rủa Hoa Kỳ bội ước.
Không phải Tổng Thống
Nixon chủ tâm lừa đảo, sở dĩ ông mạnh dạn viết bức điện cam kết đó là vì Hà Nội
đã đầu hàng. Không thể nào có chuyện Hà Nội gây chiến trở lại, họ không còn
súng đạn, không còn gạo, và đang cần tiền viện trợ tái thiết của Hoa Kỳ (Tiến
bồi thường chiến tranh). Không ngờ là sau này tình thế đã biến chuyển khác hẳn
với những toan tính của Nixon và Kissinger.
Năm 1973, ngày 16.1. Tài
liệu của CIA: ‘’Ngày 16/1
Haig đến Sài Gòn với một thư tay khác của Nixon gởi cho Tổng Thống Thiệu rằng
nếu vẫn không ký ông sẽ công khai tố cáo trước dư luận thế giới Thiệu ngăn cản
hòa bình. Thiệu vẫn hoãn binh và cho biết sẽ trả lời Nixon vào ngày hôm sau.
Hôm
sau, 15 phút sau khi máy bay Haig rời Tân Sơn Nhất, Thiệu triệu tập Hội Đồng An
Ninh thu hẹp, đọc tối hậu thư của Nixon cho Hội Đồng nghe. Sau đó Hội Đồng bàn
về cung cách thi hành hiệp định. Việc ký kết đến đây xem như đương nhiên. CIA
báo cáo rằng ‘’trong thâm tâm Thiệu biết trước sau cũng phải ký theo ý Hoa Kỳ,
nhưng ông đã làm những gì cần thiết có lợi cho sự tồn tại của Nam Việt Nam.’’
Sáng
ngày 20/1 Thiệu triệu tập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia thông báo quyết định ký.
Phó Tổng Thống Trần Văn Hương khóc nói rằng Nam Việt Nam đang ở trên một chiếc
gậy, chạy hướng nào cũng không tránh được tai họa, và ký Hiệp Định thì tai họa
nhỏ hơn. Sau khi Hương dứt lời, Thiệu nói đồng ý với sự miêu tả của Hương (CIA
and The Generals, bản dịch của Trần Bình Nam).
Theo như đoạn tài liệu
này của CIA thì Haig đến Sài Gòn ngày 14 rồi trở lại Hoa Kỳ, sau đó ngày 16 mới
trở lại với thư cam kết của Tổng Thống Nixon. Nhưng thực ra theo hồi ký của
Haig thì thay vì đem thư của Thiệu về Hoa Kỳ thì ông và Bunker đã mở thư (do
lệnh của Nixon) và chuyển bằng điện về cho Nixon. Rồi Nixon gởi lại thư cam kết
bằng điện cho Bunker để Bunker chuyển cho Thiệu.
Tài liệu của CIA ngày đó
có hơi khác so với hồi ký của Tướng Haig, sự thực là Haig đã mở thư tại Sài Gòn
và nhận điện thư của Nixon rồi đem đến cho Thiệu chứ không có về Hoa Kỳ. Haig
và Bunker không cần phải cho CIA biết chuyện này. Do đó đoạn tài liệu này của
CIA chỉ là nhờ thâu thập qua thông tin của Trần Thiện Khiêm, nhưng Khiêm không
hề biết là Haig không có về Hoa Kỳ.
Đây mới chỉ là bức điện
thư báo trước, coi như bản nháp của mật ước, còn mật ước có chữ ký của Nixon sẽ
được Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Agnew đem đến Sài Gòn sau khi Hiệp Định ngưng bắn
được ký kết.
Ký
kết hòa ước
Năm 1973, ngày 23.1, lúc
10 giờ 45 sáng, bản Hiệp Định Paris 1973 được Kissigner và Lê đức Thọ ký tắt.
Sau khi ký xong hai ông trao đổi cho nhau cây viết để làm kỷ niệm.
Năm 1973, ngày 27.1,
buổi sáng, 4 bên tham chiến cùng ký kết Hiệp Định có liên quan đến 4 bên, gồm
có Ngoại Trưởng Hoa Kỳ William Rogers, Ngoại Trưởng Hà Nội Nguyễn Duy Trinh,
Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Lắm, và Đại diện mặt trận giải phóng
miền Nam Nguyễn Thị Bình. Buổi chiều Hoa Kỳ và Hà Nội ký vào văn kiện thứ hai
có liên quan tới sự kết ước giữa hai bên.
*
Chú giải:
Dư
luận Hoa Kỳ đối với Nixon: Báo Washington Post: ‘’Chúng ta biết ơn Nixon vì ông đã
thực hiện lời hứa chấm dứt chiến tranh trong vòng 4 năm’’.
Báo Boston Herald
Traveler: ‘’Nó tốt hơn
nhiều so với một cuộc đầu hàng hèn nhát mà một số người Hoa Kỳ sẵn sàng chấp
nhận’’.
Báo Walstreet Journal: ‘’Ông đã rút 550 ngàn quân ra khỏi
Việt Nam và đem được tù binh trở về mà không mất chế độ Sài Gòn…Kẻ địch đã hiểu
rằng xương sống của người ngồi trong Tòa Bạch Ốc được làm bằng thép…’’
Báo Cleverlnad Plain
Dealer: ‘’Ván bài quốc tế
của ông đã có kết quả trước mọi thứ áp lực ở trong cũng như ngoài nước. Đây là
giờ phút oanh liệt nhất của vị Tổng Thống thứ 37 của chúng ta’’.
Theo ghi chép của
Hadleman thì sau khi xem các bài báo đó, Nixon có nhận xét rằng chưa có ai nói
đúng về ông ta, đó là ‘’có
bản lĩnh và kiên trì’’.
Bí
mật đằng sau Hiệp Định:
Hiệp Định gồm có 9
khoản, trong 9 khoản có 23 điều. Nội dung của 9 khoản, 23 điều cho thấy trong 4
năm đàm phán hai bên chỉ thương lượng với nhau về 3 mục là (1) Mỹ rút quân (2)
Hà Nội trả tù binh (3) Mỹ bồi thường chiến tranh. Tuy nhiên chuyện Mỹ rút quân
là do Nixon tự quyết định rút quân về để thay thế bằng quân Việt Nam Cộng Hòa
chứ không phải là do kết quả điều đình. Như vậy chỉ còn 2 vấn đề mà người ta
phải hẹn nhau đến Paris để thương lượng trong 4 năm là Hà Nội trả tù binh và
đòi bồi thường chiến tranh.
Nhưng vấn đề trao trả tù
binh Hoa Kỳ và tiền bồi thường chiến tranh chỉ được đưa ra sau khi cả Trung
Quốc và Liên Sô đều thông báo cho Hà Nội là họ muốn Hà Nội chấm dứt chiến
tranh. Lúc đó Lê Duẩn có muốn đánh tiếp cũng không có gạo, không có đạn để
đánh. Do đó chỉ cần 2 cuộc họp cách nhau 2 tháng thì Hà Nội đã đưa ra toàn bộ
các điều kiện của họ: Tức là thả tù binh Hoa Kỳ vô điều kiện, không đòi thay
thế chế độ Thiệu, không đòi thả 38 ngàn tù chính trị cọng sản miền Nam, không
buộc Hoa Kỳ phải ghi điều khoản bồi thường chiến tranh vào trong Hiệp định đình
chiến v.v…Dĩ nhiên là Nixon nợ Liên Sô và Trung Quốc về sự nhượng bộ này.
Nội dung 9 khoản ghi
trong Hiệp Định cho thấy không cần phải tốn tới 4 năm mới có được văn bản của
hiệp định:
Khoản 1: Các quyền cơ bản của dân tộc Việt
Nam. Dĩ nhiên Kissinger và Lê đức Thọ không phải thương lượng với
nhau về chương này, chỉ cần sao lại chương 1 của Hiệp Định Genève).
Khoản 2: Chấm dứt chiến sự, rút quân.
Chương này dành cho chuyên viên kỹ thuật, ấn định ngày giờ ngưng bắn, thời hạn
rút quân, dĩ nhiên hai ông cũng không thương lượng với nhau về mục này.
Khoản 3: Việc trao trả nhân viên quân sự bị bắt. Đây mới là mục
chính yếu để thương lượng nhưng tránh không nói tới chữ ‘’trao trả tù binh’’ mà
nói là trao trả nhân viên quân sự bị bắt.
Khoản 4: Việc thực hiện quyền tự quyết của
dân tộc Việt Nam (Dĩ nhiên vấn đề này cũng không cần thương lượng,
chỉ cần sao lại Hiệp Định Genève).
Khoản 5: Vấn đề thống nhất Việt Nam. Không
cần thương lượng, chỉ cần nói rằng theo như Hiệp Định Genève 1954 là xong.
Khoản 6: Ủy ban kiểm soát đình chiến.
Cũng không cần thương lượng, việc này cũng chỉ giao cho các chuyên viên quân
sự.
Khoản 7: Đối với Cam Bốt và Lào. Cũng
ghi theo như Hiệp Định Genève là xong.
Khoản 8: Quan hệ giữa Hoa Kỳ và cộng sản Bắc
Việt. Đây mới là vấn đề chính, nghĩa là ai phải chung cho ai và
chung bao nhiêu.
Khoản 9: Các quy định khác: Hiệp định có hiệu lực sau khi ký./.
Vậy thì chỉ cần xem lại
khoản 3 và khoản 8 có 3 điều chính yếu:
Điều
5 (Thuộc khoản 3): Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký hiệp
định này sẽ hoàn toàn rút ra khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội, cố vấn quân
sự và nhân viên quân sự liên quan đến chương trình vũ khí, đạn dược và các dụng
cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và các nước ngoài khác…
Điều
8 (Thuộc khoản 3): Việc trao trả những nhân viên quân sự
của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt sẽ tiến hành
song song và hoàn thành không chậm hơn ngày hoàn thành việc rút quân nói trong
điều 5.
Điều
21(Thuộc khoản 8): Hoa Kỳ mong rằng Hiệp Định này sẽ
mang lại một thời kỳ hòa giải với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng như với các
dân tộc Đông Dương. Theo chính sách truyền
thống của mình, Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh
và công việc xây dựng sau chiến tranh ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và toàn Đông
Dương.
Tóm tắt 9 khoản, 23 điều
của Hiệp Định thì người ta thấy ngay sự phi lý: Ngưng bắn da beo, chính phủ
Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn tồn tại, 38.000 cán bộ dân sự cộng sản miền Nam vẫn bị
giam trong các trại tù. Trong khi đó tù binh cộng sản Bắc Việt, tù binh Việt
Nam Cộng Hòa và tù binh Hoa Kỳ được thả, Hoa Kỳ không phải trả tiền bồi thường
chiến tranh nhưng: ‘’Hoa
Kỳ sẽ đóng góp vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và tái thiết sau
chiến tranh’’. Như vậy công lao chiến đấu của cộng sản Việt Nam từ
1959 tới 1973 coi như bỏ đi, họ không được một tí lợi nào cả ?
Nếu Hà Nội sáng suốt thì
bắt phải ghi rõ con số 3,25 tỷ vào điều khoản 21 và ấn định lịch trình trao
đổi, hễ đưa bao nhiêu thì thả bấy nhiêu, đưa tới đồng Dollar cuối cùng thì thả
người cuối cùng. Dĩ nhiên một khi đã ghi con số và lịch trình trao đổi thì đến
khi Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Hiệp Định sẽ phải ký thêm một đạo luật
chuẩn chi ngân sách đính kèm. Phải chăng Lê đức Thọ đã bị lừa ?
Vì không tin là Lê đức
Thọ bị lừa cho nên những nhà quan sát thời cuộc thừa hiểu rằng đằng sau Hiệp Định phải có một mật
ước riêng giữa hai bên, trong đó sẽ quy định rõ con số bồi thường
chiến tranh cũng như thể thức thanh toán.
Còn về phần Quốc Hội Hoa
Kỳ thì họ không có lý do gì để từ chối một hiệp định công khai, hoàn toàn có
lợi cho Hoa Kỳ, nghĩa là chấm dứt chiến tranh, đem được tù binh trở về mà không
tốn một đồng nào cả.
__._,_.___