Nguồn gốc Bản Quốc Ca Việt
Nam Cộng Hòa
Trần Gia Phụng
- Chiều Thứ Ba 27-3-2018, tại Hội đồng Thành phố Toronto, 100% nghị viên hiện diện (38/38) đã bỏ phiếu chấp thuận đề nghị thượng kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tại Kỳ đài quảng trường Nathan Phillips ở City Hall Toronto ngày Thứ Bảy 28-4-2018 nhân dịp Tưởng niệm Quốc hận 30-04.
Chào quốc kỳ song hành
với hát quốc ca. Nhân dịp nầy, chúng tôi xin ôn lại nguồn gốc bản Quốc ca Việt
Nam Cộng Hòa từ khi được sáng tác năm 1941 cho đến ngày nay.
*
Một bài hát luôn luôn
gồm hai phần là nhạc và lời. Nhạc là nhịp điệu dẫn dắt bài hát. Lời là ca từ
diễn ý bài hát. Thông thường trong một bài hát, nhạc là cái sườn, không thay
đổi. Lời có thể thay đổi tùy ý tác giả viết ra bài hát, hay có thể thay đổi
theo sáng kiến và hoàn cảnh của người sử dụng. Bài quốc ca Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH) cũng thế, được thay lời nhiều lần.
Theo học giả
Nguyễn-Ngu-Í trong bài “Nhớ và nghĩ về bài quốc ca Việt”, đăng trên tạp chí
Bách Khoa tại Sài Gòn số 244 ngày 1-3-1967, thì nguồn gốc đầu tiên của bài quốc
ca VNCH là bài “Quấc dân hành khúc” do Lưu Hữu Phước, người Cần Thơ (Nam phần),
sinh viên Đại học Hà Nội, sáng tác vào giữa năm 1941 tại Hà Nội. (Chữ “Quấc”
viết với chữ “â”.)
Nguyễn Ngu Í, Lưu Hữu Phước
Nguyễn-Ngu-Í (1921-1979)
là người đồng thời với Lưu Hữu Phước (1921-1989), đã từng làm việc chung với
Lưu Hữu Phước tại Hà Nội vào giữa năm 1946. Nhờ vậy, chắc chắn Nguyễn-Ngu-Í đã
nghe Lưu Hữu Phước kể lại đầy đủ lai lịch và những thay đổi của bài “Quấc dân
hành khúc”.
Chẳng những thế, sống
tại Hà Nội, Nguyễn-Ngu-Í có thể cũng đã được nghe cả những sinh viên Hà Nội lúc
đó, kể chuyện về hoàn cảnh xuất hiện và những thay đổi của bản “Quấc dân hành
khúc”. Vì vậy, hy vọng nguồn tin của Nguyễn-Ngu-Í về bản nhạc nầy là khả tín.
(Để đọc tạp chí Bách Khoa và tìm bài viết của Nguyễn-Ngu-Í, xin vào VOA tiếng
Việt, link https://www.voatiengviet.com/a/tap-chi-bach-khoa-truoc-1975/4084311.html).
Cũng theo bài báo của
Nguyễn-Ngu-Í, bản nhạc nầy được chính tác giả Lưu Hữu Phước đổi tên thành “Sinh
viên hành khúc” vào cuối năm 1941. Tại đại học Hà Nội, ngoài sinh viên Việt,
còn có sinh viên Lào, Cao Miên và cả người Pháp nữa, nên hai sinh viên Mai Văn
Bộ và Nguyễn Thành Nguyên đặt thêm lời Pháp. Bài hát bằng tiếng Pháp có tên là
“La marche des étudiants”. Vua Cao Miên lúc đó là Norodom Sihanouk rất thích
bản nhạc bằng tiếng Pháp nầy.
Qua đầu năm 1942, Tổng
hội sinh viên Đại học Hà Nội muốn có một bản hành khúc cho riêng sinh viên đại
học, nên với sự đồng ý của sinh viên Lưu Hữu Phước, Tổng hội đã mở cuộc thi đặt
lời cho bản nhạc của Lưu Hữu Phước.
Hai sinh viên Trường
Thuốc (Y khoa) trúng giải là Lê Khắc Thiền (nhứt) và Đặng Ngọc Tốt (nhì). Lời
hai bài trúng giải hợp lại cùng với điệp khúc của bài “Sinh viên hành khúc”,
thành bản “Tiếng gọi sinh viên”, bài hát chính thức của Đại học Hà Nội.
Bài hát “Tiếng gọi sinh
viên” nhanh chóng được truyền tụng trong giới sinh viên, học sinh và phổ biến
rộng rãi ra ngoài khuôn viên trường học. Thanh niên các giới say sưa hát bản
nhạc nầy, và tự ý đổi hai chữ “sinh viên” bằng hai chữ “thanh niên”, cho phù
hợp với khung cảnh xã hội bên ngoài học đường.
Dưới thời chính phủ Trần
Trọng Kim từ tháng 4 đến tháng 8-1945, đoàn Thanh Niên Tiền Phong ở Nam kỳ do
bác sĩ Phạm Ngọc Thạch lãnh đạo, chọn bài “Tiếng gọi thanh niên” làm đoàn ca
của đoàn. (Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, “Những kỷ niệm với bài quốc ca của Việt Nam
Cộng Hòa”. http://namkyluctinh.com/a-lichsu/quochieuvnnlvkyniemvoiquoccavnch)
Năm 1945, mặt trận Việt
Minh, tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản Đông Dương cướp chính quyền và lập ra
nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2-9-1945. Quốc ca của chế độ cộng sản
là bản “Tiến quân ca” do Văn Cao sáng tác. Lúc đầu, bài hát nầy có câu rất sắt
máu: “…Thề phanh thây uống máu quân thù…”. Ngày nay được đổi thành “…Vì
nhân dân chiến đấu không ngừng…”
Chiến tranh Việt
Minh-Pháp bùng nổ tối 19-12-1946. Trong lúc chiến tranh xảy ra, Việt Minh cộng
sản tiếp tục thi hành kế hoạch giết tiềm lực, tiêu diệt tất cả những thành phần
theo chủ trương quốc gia dân tộc, không theo Việt Minh. Những thành phần nầy bị
dồn vào thế phải quy tụ chung quanh cựu hoàng Bảo Đại, và vì sống còn, chẳng
đặng đừng liên kết với Pháp chống Viêt Minh. Mặt khác, Pháp chiếm các thành phố
và vùng phụ cận, đánh đuổi Việt Minh chạy về nông thôn, hay lên rừng núi. Pháp
cần tổ chức hành chánh ở những vùng Pháp chiếm được, nên cần một giải pháp
chính trị mới. Vì vậy, Pháp cũng muốn nói chuyện với cựu hoàng Bảo Đại.
Do nhu cầu từ cả hai
phía, phía những nhà chính trị theo chủ trương dân tộc và phía Pháp muốn thiết
lập một cơ chế hành chánh mới, cao ủy Pháp Emile Bollaert tại Đông Dương mời
cựu hoàng Bảo Đại hội kiến ngày 6-12-1947, trên chiến hạm Duguay Trouin, thả
neo trong vịnh Hạ Long, để tìm kiếm một giải pháp chính trị cho tình hình lúc
bấy giờ. Hai bên đi đến thông cáo chung là sẽ cùng nhau thương thuyết để Pháp
trao trả độc lập cho Việt Nam.
Mở đầu cuộc vận động,
cựu hoàng Bảo Đại qua Pháp tiếp tục thương thuyết. Khi về lại Hồng Kông, cựu
hoàng thảo luận thêm với các chính khách quốc gia và giao cho thiếu tướng
Nguyễn Văn Xuân thành lập chính phủ trung ương lâm thời, nhằm thảo luận với
Pháp một tạm ước về thống nhất đất nước. Nguyễn Văn Xuân đã từng được Hồ Chí
Minh mời vào chính phủ đầu tiên năm 1945, nhưng ông Xuân từ chối.
Đối đầu với Việt Minh
cộng sản, thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân thành lập chính phủ Trung ương Lâm thời
Việt Nam tại Sài Gòn ngày 1-6-1948, ban hành “Pháp quy tạm thời” (Statut
Provisoire), chọn bài “Tiếng gọi thanh niên” làm quốc ca. (Trần Văn Đôn, Việt
Nam nhân chứng, California: Nxb. Xuân Thu, 1989, tr. 75.) Bản quốc ca bắt
đầu bằng câu “Này thanh niên ơi…” (Hỏi chuyện tại Montreal ngày
2-12-2017 bác sĩ Từ Uyên, tú tài năm 1951 và giáo sư Bùi Tiến Rủng, tú tài năm
1953. Cả hai ông lúc đó là sinh viên Đại học Hà Nội, thuộc lòng bản quốc ca
nầy. Hai ông xác nhận quốc ca lúc đó bắt đầu bằng câu: “Này thanh niên ơi…”)
Sau chính phủ Trung ương
Lâm thời, cựu hoàng Bảo Đại tiếp tục thương thuyết và ký kết tại Paris với tổng
thống Pháp là Vincent Auriol hiệp định Élysée ngày 8-3-1949, đưa đến việc thành
lập chính thể Quốc Gia Việt Nam do Bảo Đại làm quốc trưởng, chống Việt Minh
cộng sản.
Chính thể Quốc Gia Việt
Nam cũng dùng bài “Tiếng gọi thanh niên” làm quốc ca. Hiệp định Genève ngày
20-7-1954 chia hai đất nước ở vĩ tuyến 17. Chính thể Quốc Gia Việt Nam cai trị
miền Nam Việt Nam. Lúc đó, quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ
tướng. Ông Diệm nhậm chức ngày 7-7-1954 (Ngày Song thất). Sau khi ổn định tình
hình, thủ tướng Diệm tổ chức trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955. Kết quả quốc
trưởng Bảo Đại bị lật đổ, thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống, đổi Quốc
Gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng Hòa.
Quốc hội Lập hiến Việt
Nam Cộng Hòa được bầu ngày 4-3-1956. Trong khi soạn thảo hiến pháp, Quốc hội dự
tính tuyển chọn quốc kỳ và quốc ca cho chính thể mới, nhưng chưa chọn được lá
cờ và bản nhạc nào ưng ý, nên ngày 31-7-1956, Quốc hội quyết định giữ quốc kỳ và
quốc ca cũ. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua, California, Nxb. Xuân Thu tái bản,
không đề năm, tr. 200.)
Bản quốc ca “ Tiếng gọi
thanh niên” được đổi thành "Tiếng gọi công dân", và mở đầu bằng câu: “Này
công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng…” Đồng thời thay đổi khá nhiều
lời so với bài “Tiếng gọi thanh nhiên”. (Những người lớn tuổi, nhứt là những vị
di cư sau hiệp định Genève, cho biết sau khi vào Nam Việt Nam năm 1954 một thời
gian, thì mới có bài “Tiếng gọi công dân.)
Sau đó, Quốc hội lập
hiến mở cuộc thi vẽ quốc kỳ và thi sáng tác quốc ca. Có tất cả 350 mẩu cờ và 50
bản nhạc được đề nghị. Ngày 17-10-1956, một lần nữa, Quốc hội lập hiến tuyên bố
không chọn được bản quốc ca hay quốc kỳ mới, và quyết định giữ nguyên quốc kỳ
và quốc ca cũ làm biểu tương. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 203.) Sau đây là nguyên văn
lời bản "Tiếng gọi công dân" thời Việt Nam Cộng Hòa:
Này công dân ơi! Quốc
gia đến ngày giải phóng
Đồng lòng cùng đi hy
sinh tiếc gì thân sống.
Vì tương lai quốc dân,
cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông, từ
nay luôn vững bền.
Dù cho thây phơi trên
gươm giáo,
Thù nước, lấy máu đào
đem báo.
Nòi giống lúc biến phải
cần giải nguy,
Người công dân luôn vững
bền tâm trí.
Hùng tráng quyết chiến
đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước
Nam cho đến muôn đời!
Công dân ơi! Mau hiến
thân dưới cờ!
Công dân ơi! Mau làm cho
cõi bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ
vang nòi giống
Xứng danh nghìn năm
giòng giống Lạc Hồng!
Như thế, bài hát “Quấc
dân hành khúc” xuất hiện giữa năm 1941, đổi thành “Sinh viên hành khúc” cuối
năm 1941, rồi “Tiếng gọi sinh viên” đầu năm 1942. Lúc đó, tinh thần yêu nước
của dân chúng trên toàn quốc dâng lên rất cao sau cuộc khởi nghĩa của Việt Nam
Quốc Dân Đảng năm 1930. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước và hai tác giả đặt lời là Lê Khắc
Thiền và Đặng Ngọc Tốt là những sinh viên yêu nước, sáng tác bản nhạc nầy trong
tinh thần yêu nước dạt dào, và chưa theo phong trào Việt Minh cộng sản.
Năm 1945, Lưu Hữu Phước
cũng như một số thanh niên khác, vì lòng yêu nước, nghe theo lời phỉnh gạt, gia
nhập phong trào Việt Minh, sinh hoạt trong ngành văn hóa, nghệ thuật, tuyên
truyền. Vì thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản miền Nam, Lưu Hữu Phước không
được cộng sản trọng dụng, cũng chẳng giữ một chức vụ gì quan trọng dưới chế độ
cộng sản ở Bắc Việt Nan sau hiệp định Genève năm 1954.
Trong chiến tranh
1954-1975, do nhu cầu tuyên truyền và lôi kéo dân chúng Nam Việt Nam, cộng sản
Bắc Việt Nam đề cử Lưu Hữu Phước đảm nhiệm chức vụ bộ trưởng bộ Thông tin Văn
hóa năm 1965 trong chính phủ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, một
công cụ bù nhìn để tuyên truyền của đảng Cộng Sản, gồm những người gốc miền
Nam, kể cả những người không vào đảng Cộng Sản.
Sau năm 1975, “được
chim bẻ ná, được cá đá lờ”, đảng Cộng Sản (lúc đó còn tên là đảng Lao Động)
giải tán ngay mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, trong đó có bộ trưởng Lưu
Hữu Phước. Suốt đời Lưu Hữu Phước bị đảng cộng sản lợi dụng, làm con cờ tuyên
truyền, chỉ được cộng sản giao cho làm công tác văn nghệ, tức chỉ làm văn công
cho cộng sản mà thôi.
Cần chú ý đến các điểm
trên đây để thấy rằng bản nhạc được dùng làm quốc ca Quốc Gia Việt Nam từ năm
1948, rồi quốc ca Viêt Nam Cộng Hòa từ sau năm 1954, là tâm huyết của những
sinh viên yêu nước vào những năm 1941, 1942, chứ lúc đó những tác giả nầy không
phải là những người theo cộng sản.
Năm 1975, Việt Nam Cộng
Hòa bị cộng sản tạm thời cưỡng chiếm. Bản quốc ca “Tiếng gọi công dân" và
lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ cùng với người Việt di tản ra hải ngoại, được hát vang
khắp nơi trên thế giới. Chẳng những thế, ngày nay bản quốc ca nầy cùng với lá
Cờ Vàng bắt đầu sống lại ở trong nước, chẳng những ở Nam Việt Nam mà cả ở Bắc
Việt Nam, như là biểu tượng của tự do dân chủ mà toàn dân Việt Nam đang khao
khát.
Xin kính mời quý vị đồng
hương Toronto và vùng phụ cận tham dự đông đảo LỄ CHÀO CỜ VIỆT NAM CỘNG HÒA vào
lúc 12 giờ trưa THỨ BẢY 28-4-2018 tại City Hall Toronto trong buổi Tưởng niệm
Quốc hận năm nay, và cùng nhau hát bản quốc ca yêu quý và thiêng liêng của
chúng ta.
*
Ngày 12-4-2018, Nguyễn
Viết Dũng (Dũng Phi Hổ), ra trước tòa án tỉnh Nghệ An, mặc chiếc áo thun đen,
in hình dấu vân tay màu vàng làm nền cho 3 sọc đỏ. Phía dưới in dòng chữ: “It’s
in my DNA”. (Hình Internet.)
16.04.2018
Trần Gia Phụng
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks