THẢO MỘC MANG TÊN CƠM VÀ BÁNH MÌ
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
Cách đặt tên thông dụng của thảo mộc đôi khi trùng lấp nhau cho những loại thảo mộc khác nhau. Thông thường cách đặt tên thảo mộc dựa trên màu sắc, hương vị, công dụng dinh dưỡng và trị liệu của chúng.
Theo tựa đề của bài viết này có những loại thảo mộc mang tên bánh
mì và cơm. Đó là hai thức ăn quan trọng của loài người Cơm là thức ăn của cư
dân vùng khí hậu nhiệt đới hay bán nhiệt đới. Bánh mì là thức ăn hằng ngày của
cư dân vùng khí hậu ôn đới và bán hàn đới. Thảo mộc mang tên bánh mì có công
dụng dinh dưỡng như bánh mì. Nhưng thảo mộc mang tên Cơm không được dùng như
cơm. Người ta gọi là cây cơm cháy hay cây cơm rượu vì mùi của chúng giống cơm
cháy hay cơm rượu chớ không phải vì trái của chúng dùng để nấu thành cơm.
THẢO MỘC MANG TÊN BÁNH MÌ
Cây Bánh Mì Tartar
Crambe tatarica
Tatarica hungrica
Gia đình: Cruciferae- Brassicaceae
|
|
|
Người Tartars là nhóm người du mục thuộc sắc tộc Mông Cổ và
Turkish ( Thổ). Vào thế kỷ từ XIII, dưới sự chỉ huy của Genghis Khan (Thành Cát
Tư Hãn), họ thống trị Trung Á, Đông Á, Nam Á và cả Đông Âu nữa!
Cây bánh mì Tartar mọc hoang ở Trung Á từ miền tây Tây Bá Lợi Á
đến phía bắc biển Caspian, Hắc Hải chạy sang tận Bulgaria, Hung Gia Lợi đến
miền đông Tiệp Khắc bây giờ. Người Tartar dùng củ của cây bánh mì mọc hoang này
để làm bánh mì.
Tên khoa học của cây bánh mì Tartar là Crambe tatarica thuộc
gia đình Cruciferae hay Brassicaceae của các loại cải. Nó còn
mang tên khoa học Tataria hungarica vì được người Hung Gia Lợi dùng để
làm bánh mì.
Cây bánh mì Tartar cao lối 1 m. Nó mọc thành bụi. Hoa có chùm màu
trắng đục. Hoa lưỡng tính do các loại côn trùng thụ phấn. Cây cần độ ẩm nhưng
nó có thể mọc trên vùng đất có nhiều alkaline. Lá và củ cây bánh mì Tartar đều
ăn được (nấu chín hay ăn sống). Củ to như củ cải trắng ở Việt Nam, có vị ngọt.
Người ta ăn sống hay luộc chín ăn với dầu ăn như dầu ô- liu chẳng hạn pha với
chút giấm. Ngày xưa quân lính đế quốc La Mã dùng củ của cây bánh mì này làm
bánh mì khi họ đóng quân ở Pannonia trên lãnh thổ Hung Gia Lợi bây giờ. Đây là
một loại cây lương thực mọc hoang như dây khoai nầng ( củ nầng).
Cây Bánh Mì Thánh John
Cây Carob
Ceratonia siliqua
Gia đình: Fabaceae- Leguminosae
|
|
|
Gọi là cây Carob vì âm theo tiếng Ả Rập Kharrub. Người Do
Thái gọi là Haruv. Cây Carob gốc ở Syria. Người Hy Lạp du nhập cây Carob
vào Ý Đại Lợi. Người Ả Rập truyền cây Carob sang Bắc Phi rồi Tây Ban Nha và Bồ
đào Nha. Người Tây Ban Nha đêm cây Carob sang Mỹ Châu. Uruguay là xứ có nhiều vườn
cây Carob. Ngày nay nó được tìm thấy khắp nơi trên thế giới.
Cây Carob cao từ 10 đến 15 m, dễ trồng, không sợ nước mặn cũng
không ngại sự khô hạn. Hoa nhỏ màu đỏ. Trái giống như trái đậu hình chữ C như
trái me giẹp. Trái ăn được. Người Thổ Nhĩ Kỳ ví trái Carob với sừng dê nên gọi
là Keciboynuzu. Người Ý gọi là carrubio; người Tây Ban Nha gọi là
algarrobo.
Tên khoa học của cây carob là Ceratonia siliqua thuộc gia
đình Fabaceae. Theo tiếng Hy Lạp keras là cái sừng; siliqua
là tiếng La Tinh có nghĩa là trái có vỏ ngoài giống trái đậu. Tên thường gọi:
Anh
|
Ả Rập
|
Do Thái
|
Ý
|
Tây Ban Nha
|
St John’s bread
|
Kharrub
|
Haruv
|
Carrubio
|
Algarrobo
|
Locust tree
|
|
|
|
|
Trong Tân Ước Kinh sách Matthiew 3: 4 có viết: Quần áo của John làm bằng lông lạc đà. Ông mang dây thắt lưng bằng da và thức ăn là cào cào và mật ong.
Không biết thực sự Thánh John ăn cào cào (locust) hay trái
cào cào vì cây Carob được người Anh gọi là locust tree tức cây cào cào
hay cây bánh mì Thánh John.
Tại sao gọi là cây cào cào (locust tree)? Vi trái nhiều
treo trên cây như cào cào? Cào cào hay đậu trên cây Carob? Gọi là cây bánh mì
Thánh John vì Thánh John ăn trái cây Carob tức cây cào cào?
Quyển Thánh Kinh gốc được dùng để dịch ra ngoại ngữ viết bằng ngôn
ngữ gì? Hy Lạp ngữ? La Tinh? Hebrew? Và trong đó người ta dùng chữ gì (Hy Lạp
ngữ, La Tinh hay Hebrew) để được dịch thành locust (cào cào)? Nếu đó là
từ ngữ của Hebrew thì ta nhờ các đại học Do Thái cho biết chữ ấy có nghĩa là
gì? Con cào cào hay trái cây cào cào tức cây Carob?
Nếu Thánh John ăn cào cào thì người Anh nhầm lẫn khi gọi cây Carob
là cây bánh mì Thánh John (St John’s bread tree) chăng?
Chuyện nhỏ này sẽ làm cho các nhà nghiên cứu mất nhiều thì giờ và
công sức để tìm ra sự thật: Thánh John ăn cào cào (locust) hay ăn trái
cây cào cào (locust tree)?
Cây Carob cho bóng mát, gỗ tốt và nhiều trái ăn được. Trái Carob
có nhiều đường (72%). Người ta dùng trái Carob để nuôi súc vật hay nghiền thành
bột để thay thế sô-cô-la hay cà phê, làm nước giải khát hay cất rượu. Nó được
dùng trong thức ăn, bánh, kẹo. Nhựa của hột trái Carob được dùng trong kỹ nghệ
dược phẩm, mỹ phẩm, kỹ nghệ dệt, sơn, phim ảnh, thuốc diệt trùng, ngành nhuộm.
Gỗ dùng để đóng bàn ghế.
Trái Carob có 72% đường, nhiều calories, proteins, chất
vôi, phosphorus, sợi, carbohydrates, chất béo và tro.
Người Ai Cập cổ thích ăn trái Carob.
Người Do Thái có truyền thống ăn trái Carob vào dịp lễ Tu Bishvat
tức lễ mừng năm mới cho cây cỏ vào tháng giêng, tháng 02 mỗi năm. Vào ngày
này người ta trồng cây mới và ăn trái sung ngọt (fig), nho, chà là, trái
Carob. Đó là ngày hoa hạnh nở ở Do Thái.
Tín đồ Hồi Giáo dùng nước ép của trái Carob vào lễ Ramadan.
Ngày xưa người ta dùng hột Carob làm đơn vị cân đo đá quí, kim
cương, và vàng. Chữ carat do chủ keration của Hy Lạp mà ra. Một carat
lối 0.2 gram. Vàng nguyên chất là vàng 24 carat (vàng 999) (Carat
hay Karat)
Trái Carob cầm máu, nhuận trường, trị ho, tiêu chảy. Vỏ cây Carob
có nhiều tannins.
THẢO MỘC MANG TÊN CƠM
Cây Cơm Cháy
Cây Thuốc Mọi
Sambucus javanica
Sambucus nigra
Gia đình: Caprifoliaceae
|
|
|
Gọi là cây cơm cháy vì lá và trái cây cơm cháy nghiền nát có mùi hôi như cơm khét. Cây cơm cháy hay cây thuốc Mọi là một loại cây nhỏ cao từ 3 đến 5 m. Thân cây nhỏ, mềm và giòn. Lá nhọn mọc đối nhau. Hoa kết thành chùm màu trắng. Trái chín chuyển từ màu vàng cam sang màu đen.
Cây cơm cháy được tìm thấy nhiều ở Đông Nam Á, các hải đảo Thái
Bình Dương, Trung Hoa và lục địa Mỹ Châu nhiệt đới hay bán nhiệt đới.
Tên khoa học của cây cơm cháy là Sambucus javanica (thuộc
về đảo Java) hay Sambucus nigra (nigra: đen, hắc vì vậy nó được mệnh
danh là cây thuốc Mọi) thuộc gia đình Caprifoliaceae.
Tên gọi thông thường:
Anh
|
Tagalog
|
Việt Nam
|
Elderberry
|
Saudo
|
Cây Cơm Cháy
|
Chinese elder
|
|
Cây Thuốc Mọi
|
Japanese elder
|
|
|
Người ta cho rằng cây cơm cháy có độc chất nhẹ trong rễ, lá và mầm non. Nếu đem luộc chín thì độc chất biến mất và có thể ăn được. Rễ cây cơm cháy có chlorogenic acid C 16 H 18 O 9. Cây có ochnaflavone kháng viêm như kim ngân hoa (nhẫn đông Lonicera japonica). Lá và rễ cơm cháy dùng để trị đau nhức, tê thấp, bịnh về xương cốt. Trái lọc máu và tẩy xổ. Cây nhuận tiểu. Tất cả những công dụng trị liệu trên được áp dụng trong y học dân gian ở Trung Hoa, Việt Nam, Cambodia, Lào v. v.
Cây Cơm Nếp
Strobilanthes acrocephalus
Gia đình: Acanthaceae
Thật sự đây là một loại dây gốc ở miền Á Châu nhiệt đới. Nó được
tìm thấy nhiều ở Nepal, Ấn Độ, Miến Điện. Lá có răng cưa và có lông mịn. Hoa
màu trắng.
Gọi là cây cơm nếp vì khi héo tàn cây toát lên mùi cơm nếp. Cây
cơm nếp có flavone, apigennin và piperridine alkaloids: conhydrine
và conhydrinone.
Cây cơm nếp được xem là hượt trường và làm giảm đau
|
|
|
Thảo mộc mang tên khoa học Polyganum kingianum thuộc gia
đình Liliaceae của hoa huệ hay gia đình Convallariaceae cũng được
gọi là cây cơm nếp. Tên gọi của người Anh là Solomon’s seal (Hoa ngọc ấn
Solomon) vì gốc cây hoa này có hình ngọc ấn của vua Solomon. Người Trung Hoa
gọi là Dian huang jing.
Cây cao từ 1 đến 2 m; lá nhỏ và dài. Cây mọc trên đất khô cằn,
trong các hốc đá. Hoa hình chuông màu vàng- đỏ. Trái và hột có độc chất. Cây
non luộc chín ăn được và không độc.
Cây hoa ngọc ấn Solomon hay cây cơm nếp được dùng làm thuốc sát
trùng, thuốc trị xơ động mạch, trị mỡ trong gan, ho, viêm phổi, ho lao. Hoa
ngọc ấn Solomon có steroids, saponins, gentrogenin, kingianosides
A- D.
Cây Cơm Nguội
Ardisia humilis
Ardisia solanacea
Ardisia myrsinoides
Ardisia annamensis
Gia đình: Myrsinaceae
|
|
|
Cây cơm nguội gốc ở Đông Nam Á. Nó được tìm thấy nhiều ở Việt Nam,
Phi Luật Tân, Cambodia, Thái Lan, Mã Lai, Ấn Độ.
Cây cơm nguội cao từ 2 đến 5 m. Lá dài, giẹp hình bầu dục. Lá xanh
tươi và láng. Hoa màu trắng- hồng có 05 cánh trông đẹp mắt. Trái tròn màu hồng
khi chín màu đen-tím sẫm kết thành chùm. Trái có một hột. Trái ăn được nhưng
không có hương vị đặc biệt. Có lẽ vì vậy mà người Việt Nam gán cho nó tên Cơm
Nguội tạm hiểu là ăn được nhưng không ngon (ngọt lợ). Cơm nguội núi Dinh ở
Phước Tuy (Bà Rịa) Ardisia dinhensis (núi Dinh) có hoa trắng.
Ở Việt Nam có các loại cây cơm nguội sau đây:
- cây cơm nguội nam Ardisiia annamensis
- cây cơm nguội núi Dinh AArdisia dinhensis hoa trắng, lá dài và có lông
- cây cơm nguội nam Ardisiia annamensis
- cây cơm nguội núi Dinh AArdisia dinhensis hoa trắng, lá dài và có lông
- cây cơm nguội xanh lá có mụt, trái màu xanh mang tên khoa học Ardisia
virens.
Tên khoa học của cây cơm nguội là Ardisia humilis thuộc gia
đình Myrsinaceae. Tên gọi thông thường:
Anh
|
Pháp
|
Trung Hoa
|
Ấn Độ
|
ardisia
|
ardisie elleptique
|
ai zi jin niu (ai tử kim ngưu)
|
Bisi
|
jet berry
|
|
|
|
low shoe button ardisia
|
|
|
|
Ở Nhật có cây cơm nguội Ardisia japonica, trái tròn màu đỏ. Cây cao lối 50 - 70 cm; lá to, láng có răng cưa ngoài rìa. Hoa trắng- hồng nhạt. Trái chín màu đen- tím ăn được. Tên gọi thông thường:
Anh
|
Nhat
|
Trung Hoa
|
Red coral berry
|
Yabukooji
|
Zi jin niu (Tử kim ngưu)
|
Japanese ardisia
|
|
|
marlberry
|
|
|
Thầy thuốc Hoa y dùng Zi jin niu (tử kim ngưu- cây cơm nguội Nhật Bản) làm thuốc trị viêm gan, ung thư gan, viêm phổi.
Cây cơm nguội Nhật Bản còn được dùng để làm thuốc tiêu hoá, lọc
máu, thông phổi. Lá dùng để trị ung thư, bướu độc. Rễ nhuận tiểu, lọc máu. Thân
cây sắc nước uống trị huyết tiện (hematuria)
Ở Miến Điện người ta dùng cây cơm nguội để trị chứng rối loạn kinh
nguyệt phụ nữ.
Cây Cơm Rượu
Cây Bưởi Bung
Shan xiao ju (Sơn Tiểu Cúc)
Glycosmis pentaphylla
Glycosmis cochinchinensis
Limonia pentaphylla
Loureria cochinchinensis
Gia đình: Rutaceae
Shan xiao ju (Sơn Tiểu Cúc)
Glycosmis pentaphylla
Glycosmis cochinchinensis
Limonia pentaphylla
Loureria cochinchinensis
Gia đình: Rutaceae
|
|
|
Cây cơm rượu ( bưởi bung; sơn tiểu cúc) được tìm thấy nhiều ở các quốc gia Á châu nhiệt đới, bắc Úc Đại Lợi, hải đảo Thái Bình Dương, hải đảo trong biển Caribbean. Đó là một loại cây nhỏ; thân cây giòn và cao không quá 5 m. Cây có nhiều nhánh, lá dài và rộng, láng. Khi vò nát lá có mùi nồng. Hoa nhỏ màu trắng. Trái tròn, nhiều nước màu hồng rất đẹp. Trái ăn được, vị ngot- đắng. Trái có một hột khá to so với thể tích của toàn trái cơm rượu.
Tên khoa học của cây cơm rượu (cây bưởi bung) là Glycosmis
pentaphylla (năm 05 lá) thuộc gia đình cam quít Rutaceae. Tên gọi
thông thường:
Anh
|
Thái
|
Trung Hoa
|
Lào
|
Tagalog
|
orange berry
|
Khoet taai
|
Shan xiao ju (Sơn Tiểu Cúc)
|
So sum
|
Gingging
|
Cây cơm rượu mọc tự nhiên chớ không ai trồng vì cây không đẹp, trái không ngon nên không ai trồng.
Ở Ấn Độ, theo kinh nghiệm trị liệu dân gian, người ta giã lá cây
cơm rượu vắt nước để trị sốt, sán lãi, bịnh gan.
Ở Việt Nam và các quốc gia lân bang người ta giã lá cây cơm rượu,
vắt nước cho phụ nữ mới sinh con uống để ăn ngon cơm. Cây cơm rượu còn được
dùng để trị rắn cắn.
Cây cơm rượu có arborinine, carbazole alkaloids ( glycozolicine,
3 - formyl carbazole, glycosinine, mupamine.
Bài viết tổng hợp trích từ Thế Giới Thảo Mộc Từ Điển do tác giả Phạm Đình Lân biên soạn.
Bài viết tổng hợp trích từ Thế Giới Thảo Mộc Từ Điển do tác giả Phạm Đình Lân biên soạn.
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
___________
No comments:
Post a Comment
Thanks