Dân tộc Việt Nam ơi, xin
đừng để vuột cơ hội muộn màng!
Trần
Quí Cao
(40 NĂM SAU NGÀY 30–4–1975)
Tới bây giờ, Việt Nam vẫn còn lay hoay trong vòng chậm tiến,
trong khi các quốc gia, năm mươi năm trước, từng ở cùng mức độ phát triển với Việt
Nam, đã tăng tốc bứt phá và hiện nay có GDP/đầu người cao hơn Việt Nam từ gấp
vài lần (Thái Lan, Mã Lai) tới gấp vài chục lần (Đài Loan, Hàn Quốc,
Singapore). Họ có cấu trúc xã hội, cấu trúc kinh tế, cấu trúc văn hóa-tư tưởng
tiến bộ và hữu hiệu hơn Việt Nam làm nền móng để phát triển.
Trong vòng 60 năm qua, Việt Nam đã có nhiều cơ hội phát triển rất lớn,
nhưng, xót xa thay, dân tộc chúng ta đã vứt bỏ hết cơ hội này đến cơ hội khác.
Tôi tin rằng nếu dùng được một trong các cơ hội đó, Việt Nam hiện đã là một
quốc gia rất phát triển rồi.
Hiện nay, mâu thuẫn chính trên thế giới đã chuyển sang thành mâu thuẫn
giữa Trung Quốc với Mỹ và đồng minh gồm Nhật, Hàn Quốc và Úc. Mâu thuẫn này
đang mang tới cho Việt nam một cơ hội lớn nữa.
Bài viết này xem xét 3 cơ hội lớn trước đây Việt Nam đã bỏ lỡ, và
từ đó thảo luận cơ hội đang bày ra cho đất nước.
PHẦN I: CÁC CƠ HỘI ĐÃ BỎ LỠ
1) Cơ Hội Những Năm 1954 – 1968
Trong thời gian này, mâu thuẫn giữa hai khối Tự Do và Cộng Sản lên
tới đỉnh cao, dù chấp nhận chung sống hòa bình toàn cầu nhưng đồng thời cũng đi
vào giai đoạn cạnh tranh quyết liệt.
Nước Mỹ lúc đó là siêu cường toàn diện, về kinh tế, về khoa học-kỹ
thuật, về giá trị sống và theo đó là về phương thức tổ chức xã hội tự do và
khai phóng.
Mỹ dẫn đầu thế giới Tự Do, thế giới trong đó môi trường sống Tự Do
thúc đẩy sự phát triển con người cá nhân và cộng đồng xã hội. Lợi ích của Mỹ
nằm trong việc bảo vệ thế giới Tự Do không bị xâm lấn bởi khối Cộng Sản. Khối
Cộng Sản đang dược dẫn đầu bởi Liên Xô, và kế đó là Trung Cộng. Khối này mạnh
về quân sự, nhưng kinh tế thì thua phương Tây, và cách tổ chức xã hội theo
chính thể độc tài trong đó người dân không có các quyền tự do căn bản.
Để thực hiện Sứ Mạng ngăn chặn ảnh hưởng của khối Cộng Sản, Mỹ đã chọn
miền Nam Việt Nam làm đối tác chiến lược.
Mỹ dự định hỗ trợ Nam Việt Nam xây
dựng một xã hội Tự Do, Dân Chủ và Giàu Mạnh làm hình mẫu cạnh tranh. Lúc đó
miền Nam Việt Nam có dân số khoảng 18 triệu, tài nguyên thiên nhiên đầy đủ, dân
chúng quen với tinh thần tôn trong con người, quen với nếp sống của xã hội Dân
Chủ, Tự Do. Miền Nam Việt Nam hoàn toàn có đầy đủ điều kiện hợp tác với Mỹ xây
dựng đất nước thành một thí dụ điển hình giàu mạnh và văn minh.
Như vậy, mâu thuẫn giữa hệ thống Tự Do và Cộng Sản đã tạo điều
kiện và cho Việt Nam 15 năm để phát triển. Lẽ ra người Việt nên chọn chiến lược
làm đồng minh với Mỹ, siêu cường kinh tế, kỹ thuật và tổ chức xã hội thời đó,
để xây dựng đất nước hùng mạnh và ấm no. Lẽ ra, sau năm 1954, khi chiến tranh
đã chấm dứt, hai miền của đất nước nên tận dụng thời cơ hòa bình để xây dựng và
phát triển. Đau đớn thay, Việt Nam chẳng những đã không chọn lựa phương cách có
lợi đó, mà còn gây nên cuộc chiến Chống Mỹ Cứu Nước, Giải Phóng Miền Nam. Hậu
quả là đưa đất nước, về đối ngoại, vào thế thù địch với Mỹ và phương Tây, về
đối nội, vào vòng hận thù, chém giết, tàn phá tương lai…
Một cơ hội rất lớn đã bị phung phí. Các độc giả có nghĩ rằng, nếu biết
tận dụng cơ hội này, Việt Nam đã có thể hóa thành con rồng đầu tiên và con rồng
rất lớn hay không?
2) Cơ Hội Những Năm 1975 – 1986
Lúc này đất nước vừa chấm dứt cuộc nội chiến tương phân tàn khốc. Hoàn
cảnh đó gieo trong lòng người dân một tình cảm hòa giải dân tộc sâu xa cùng ý chí
phát triển đất nước mạnh mẽ. Sức mạnh tinh thần đó có thể khai sơn phá thạch
đưa quốc gia cất cánh theo hướng rồng bay!
Do đất nước được thống nhất bởi Bắc Việt, Việt Nam có những mối
quan hệ ngoại giao tốt đẹp với khối Cộng Sản Liên Xô, Đông Âu, lúc đó đang trong
thời kỳ mạnh mẽ và sẵn sàng ủng hộ Việt Nam.
Ngoài ra, Mỹ, dù đã bắt tay Trung Cộng và rút quân ra khỏi Việt
Nam, vẫn còn giữ những mối quan hệ có thể tái lập tốt đẹp với Việt Nam.
Các quốc gia dân chủ hùng mạnh trên thế giới như Đức, Pháp, Anh, Nhật…
cũng sẵn sàng đầu tư tại một Việt Nam đầy tiềm năng cất cánh.
Có thể nói, trên thế giới lúc đó hầu như Việt Nam là nước duy nhất
có thể dùng nguồn lực của cả hai khối Tự Do và Cộng Sản. Hai khối đang trong
thế chung sống hòa bình nên môi trường thế giới rất thuận lợi cho phát triển
kinh tế.
Thật là thời cơ hiếm thấy khi cùng lúc Việt Nam có thiên thời, địa
lợi, nhân hòa.
Thời cơ phát triển lớn như vậy, Việt Nam lại mắc các sai lầm không
thể hiểu nổi:
– Đối nội: Phá tan sự đoàn kết quốc gia bằng các chính sách Học
Tập Cải Tạo, Tuyển Sinh Phân Biệt…; tàn phá cơ sở hạ tầng cứng và mềm của nền
kinh tế quốc gia bằng các chính sách Cải Tạo Công Thương Nghiệp…
– Đối ngoại: Đào sâu hơn các bất hòa khó hàn gắn với phương Tây và
Mỹ. Thẳng thừng gạt bỏ bàn tay “bình thường hóa” quan hệ ngoại giao chìa ra của
Mỹ. Gây nên các cuộc chiến hao tổn với Campuchia, Trung Cộng…
Sau năm 1978, trong khi Trung Quốc tiến hành cải tổ kinh tế, giao thiệp
với phương Tây, kêu gọi đầu tư… thì Việt Nam tự biến mình thành nước bị cô lập
trên thế giới. Trong khi Trung Quốc tăng trưởng kinh tế 8-9% một năm thì Việt
Nam ngày càng kiệt quệ vì sa lầy trong cuộc chiến với Campuchia, vì bị cấm vận
và vì nhân tài bỏ nước ra đi hoặc bị vùi dập trên chính quê hương…
Những năm 1975 – 1980 Việt Nam có điều kiện tốt hơn Trung Quốc để phát
triển kinh tế. Trong khi xã hội Trung Quốc đông cứng trong chế độ Cộng Sản từ
năm 1949, thì Việt Nam đã có sẵn miền Nam với cấu trúc kinh tế-xã hội mở và
năng động.
Nếu tận dụng được cơ hội của những năm 1975 – 1980 thì Việt Nam đã
chiếm tiên cơ phát triển trước Trung Quốc. Cả một đất nước đầy tiềm năng trãi
dài trên ba ngàn rưỡi km bờ biển Đông và vịnh Thái Lan, có rừng núi, có
sông lớn, có đồng bằng, có biển cả, có nguồn nhân lực dồi dào… đất nước đó mở
rộng vòng tay đón nguồn lực tài chính và công nghệ cao cấp đến từ Mỹ, Nhật,
châu Âu… thì chắc chắn phải phát triển với vận tốc cao hơn Trung Quốc và với
chất lượng phát triển tốt hơn.
Một Việt Nam giàu mạnh như vậy, ước tính sẽ nắm trong tay dự trữ ngoại
tệ 80-90 tỉ đô-la Mỹ (vào năm 1986 – ước tính của tác giả) để tạo đà tiến xa
thêm nữa mấy thập niên về sau, nước Việt Nam đó có bị Trung Quốc lấn lướt và
lấn chiếm như hiện nay không?
Thêm một cơ hội rất lớn đến với dân tộc lại bị vứt bỏ!
3) Cơ Hội Những Năm 1986 – 1990
Sau 11 năm với các sai lầm dìm đất nước xuống vực sâu, đảng CSVN
cũng bắt đầu nhận ra “sửa đổi hay là chết”. Nhà lãnh đạo mang tai tiếng trong
Cải Cách Ruộng Đất, cựu Tổng Bí Thư đảng CSVN, ông Trường Chinh, đã chủ trương
một kế hoạch đổi mới tương đối căn bản so với thời cuộc lúc đó.
Từ năm 1986 trở đi, hàng hóa bắt đầu dồi dào tại Tp. Hồ Chí Minh
và các thành phố lớn của miền Nam. Dân chúng các nước Đông Âu đồn đãi với nhau:
Việt Nam đang đổi mới thành công, có thể là tấm gương cho sự đổi mới toàn bộ hệ
thống các nước Cộng Sản…
Thời cuộc thay đổi tương đối nhanh. Trong những năm sau của thập
niên 1980, dân chúng tại các nước Cộng Sản Đông Âu ngày càng nhanh chóng nhận
ra các khiếm khuyết của cách tổ chức xã hội cộng sản. Các phong trào, tổ chức,
lực lượng dân chúng tại Ba Lan, Hung, Tiệp, Rumani vạch trần tác hại khủng
khiếp của chính thể độc tài toàn trị và kêu gọi đất nước từ bỏ chế độ Cộng Sản,
tổ chức quốc gia theo chính thể Tự Do Dân Chủ. Những năm 1989-1990, bức tường
Bá Linh bị phá bỏ, các nước Đông Âu như Ba Lan, Hungarry, Tiệp Khắc, Rumani,
Liên Xô… nối nhau từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản và từ bỏ chính thể độc đảng toàn
trị. Thời cơ cực lớn cho Việt Nam thoát chủ nghĩa Cộng Sản. Lúc này ông Nguyễn
Văn Linh đang chức Tổng Bí Thư đảng CSVN.
Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của trào lưu Phản Cộng và Thoát Cộng trên
thế giới. Trong nước bắt đầu dấy lên các tranh luận về bản chất và vai trò của
đảng CSVN, về Dân Chủ, Tự Do… Đáng tiếc và đáng hận thay, trước trào lưu đó,
ông Nguyễn Văn Linh, người bảo thủ và kiên quyết bảo vệ đảng CSVN bằng mọi giá,
đã đưa nước Việt Nam ngược chiều tiến hóa văn minh của đa số các nước, nhất là
các nước đã trãi nhiều kinh nghiệm xương máu dưới ách cộng sản.
– Đối nội: Các chính sách cởi mở, cởi trói được siết lại. Tự do
ngôn luận bị cấm triệt để. Các tiếng nói phản biện bị dập tắt. Hai đảng ngoại vi
của đảng CSVN là đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội bị yêu cầu tự giải tán. Những nhà
bất đồng ý kiến Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Nguyễn Hộ… bị bức hại tàn nhẫn. Ủy
viên Bộ Chính Trị Trần Xuân Bách ủng hộ cải cách bị khai trừ.
– Đối ngoại: Trong vai trò Tổng Bí Thư đảng CSVN, ông Nguyễn Văn Linh,
với sự ủng hộ của ông Đỗ Mười, đã, sau hội nghị mờ ám Thành Đô, tròng vào đầu
Việt Nam cái ách nô thuộc Trung Quốc, chính thức “mở đầu một thời kì Bắc thuộc
mới” cho Việt Nam. Cái ách này, từ đó cho tới nay, ngày càng siết lại với các
tác hại ngày càng nặng nề hơn mà chúng ta chưa tìm cách thoát ra được.
Để biết cơ hội mà Việt Nam đã bỏ lỡ lớn như thế nào, xin mới quí
độc giả cùng xem các số liệu về GDP/đầu người (USD) của Ba Lan và Hungary qua
các năm:
GDP/đầu người (USD)
Poland
|
Hungary
|
|
1980
|
1,592
|
2,111
|
1985
|
1,896
|
1,985
|
1990
|
1,626
|
3,251
|
1995
|
3,605
|
4,409
|
2000
|
4,476
|
4,538
|
2005
|
7,982
|
10,925
|
2010
|
12,305
|
12,732
|
2014
|
15,047
|
13,433
|
Nguồn: List of countries by past and
projected GDP (nominal) per capita, Wikipedia
Các số liệu cho thấy:
– Sau 10 năm thoát Cộng, GDP/đầu người của Ba Lan tăng 275% (năm
2000 so với năm 1990). Và sau 10 năm nữa, năm 2010, GDP/đầu người của Ba Lan tăng
275% so với năm 2000. Tổng
cộng, sau 20 năm thoát Cộng, GDP/đầu người của Ba Lan tăng 757%.
– Sau 10 năm thoát Cộng, GDP/đầu người của Hungary tăng 140% (năm 2000
so với năm 1990). Và sau 10 năm nữa, năm 2010, GDP/đầu người của Ba Lan tăng
281% so với năm 2000. Tổng
cộng, sau 20 năm thoát Cộng, GDP/đầu người của Hungary tăng 392%.
Vậy: dân chúng trong những nước thoát ra khỏi chính thể Cộng Sản
giàu có hơn và lấy lại được các quyền tự do căn bản mà chính thể độc tài cộng
sản đã tước đoạt của họ.
Riêng Việt Nam, nếu tận dụng được thời cơ này, thì chẳng những
Việt Nam thoát Cộng mà còn thoát Trung. Những tính toán sơ khởi cho thấy nếu làm
được như vậy thì hiện nay:
– Việt Nam có thể có tổng GDP/năm gấp khoảng 2 lần hiện nay (ước
tính của tác giả).
– Việt Nam có thể có dự trữ ngoại tệ 400-500 tỉ đô la Mỹ (năm 2014
– ước tính của tác giả).
– Việt Nam là đối tác tin cậy của hệ thống các nước Mỹ, Tây Âu,
Nhật…
Một Việt Nam như vậy sẽ đầy đủ lòng tự tín và tự hào dân tộc, tới
mức Việt Nam đó có thể bảo vệ và phát huy các giá trị truyền thống dân tộc đồng
thời thu nhập các giá trị văn minh thế giới. Lòng tự tín và tự hào cũng giúp
dân chúng vượt qua dễ dàng các rào cản quá khứ tiến tới hòa giải hòa hợp dân
tộc trong tình đồng bào cùng quyết tâm hướng tới một tương lai của ước vọng
chung.
Một Việt Nam như vậy, nước Trung Hoa nào có thể ngang ngược bức
hiếp?
PHẦN II: CƠ HỘI TRƯỚC MẮT
Kinh nghiệm lịch sử phát triển thế giới cho thấy, thời nào cũng có
mâu thuẫn giữa các khối nước lớn. Đồng minh và đối thủ thay đổi tùy theo thời.
Với thời đại hiện nay, mâu thuẫn giữa các nước và các khối nước còn đan xem với
hợp tác và hội nhập của từng nước với nhau và với quốc tế, nên tạo một vẻ ngoài
phức tạp và rối rắm.
Dù sao, vẫn phải lần ra cái mâu thuẫn chủ đạo. Các nước trung và
nhỏ, nếu biết nương theo thời thế, dùng các mâu thuẫn đó một cách hữu hiệu, sẽ
phát triển vượt bậc. Nước nào thất bại sẽ rơi vào vòng xoáy tụt hậu, như Miến
Điện, Việt Nam, Bangladesh… hiện nay, hay thậm chí, vào vòng chiến tranh tan
nát, như Aghanistan, Lybia, Iraq… Chú ý rằng, chưa xa hiện nay, Việt Nam cũng
đã có 15 năm tan nát bởi nội chiến tương tàn…
1)
Môi Trường và Khuynh Hướng Chính Trị của Khu Vực
Như trên đã nói, hiện nay, mâu thuẫn chính trên thế giới đã chuyển
sang thành mâu thuẫn giữa Trung Quốc (và Nga, tạm thời cũng liên kết với Trung
Quốc) với Mỹ và đồng minh gồm Nhật, Hàn Quốc và Úc. Do vị trí địa chính trị của
Việt nam, mâu thuẫn này đang mang tới cho Việt Nam một cơ hội rất lớn.
(1) Trung Quốc thi hành chính sách bành trướng đòi quyền kiểm soát
biển Đông. Các biện pháp Trung Quốc thi hành như:
1.
a) Đưa ra đường lưỡi bò
lãnh hải
2.
b) Dùng tàu hải giám xua
đuổi hay húc chìm tàu cá nước khác trong vùng đòi hỏi lãnh hải vô lí của mình
3.
c) Dùng biện pháp quân
sự chiếm các đảo đang tranh chấp
4.
d) Bồi đắp và xây dựng
đảo nhỏ hay bãi đá ngầm thành căn cứ quân sự uy hiếp các quốc gia chung quanh
Các biện pháp trên đều bị các nước trên thế giới đánh giá là ngang
ngược, không tuân thủ luật pháp và các nguyên tắc ứng xử chung.
(2) Chính Sách chính sách bành trướng đòi quyền kiểm soát biển
Đông của Trung Quốc uy hiếp, xâm hại quyền lợi chính trị và kinh tế của các nước
lớn:
Do vị trí địa chính trị-kinh tế của biển Đông, đòi hỏi này của
Trung Quốc uy hiếp, xâm hại quyền lợi chính trị và kinh tế của các nước lớn khác,
trong đó có Mỹ, Nhật, châu Âu, Ấn Độ, Úc… Các nước này đang tìm cách liên kết
nhau trên mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị để bảo đảm con đường hàng hải
huyết mạch biển Đông không thuộc quyền thống trị của một quốc gia riêng rẽ nào,
trong hoàn cảnh hiện nay, quốc gia riêng rẽ đó chính là Trung Quốc. Về mặt trận
quân sự là chính sách “chuyển trục” của Mỹ, là các liên minh quân sự Mỹ-Nhật,
Mỹ-Úc, Nhật-Úc…, và có thể là Mỹ đưa tàu chiến vào tuần tra biển Đông. Về mặt
trận kinh tế, quan trọng nhất là TPP.
3) Mong Muốn và Thái Độ Các Nước Đó Đối Với Việt Nam:
Việt Nam có vị trí địa chính trị rất quan trọng đối với mâu thuẫn này.
Việt Nam là Bản Lề của các nước Ấn Độ Dương và các nước Thái Bình Dương. Việt
Nam là Bản Lề của các nước ASEAN lục địa và các nước ASEAN quần đảo. Thành phố
Hồ Chí Minh nằm ở vị trí trung tâm các thành phố lớn của ASEAN. Việt Nam là
nước cùng với Phi Luật Tân nằm ở hai biên Đông và Tây của biển Đông. Việt Nam
tiếp giáp với Trung Quốc và án ngữ biển Đông…
Việt Nam có khối dân lớn. Khối 90 triệu dân này đã trãi qua một
ngàn năm bị Trung Quốc chiếm đóng, rồi giành lại độc lập và từ đó tới nay đã tồn
tại hơn một ngàn năm dưới sức ép xâm chiếm liên tục của Trung Quốc, được trui
rèn qua 9 cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lăng.
Hẳn nhiên, Việt Nam là tác nhân rất quan trọng trong chính sách “chuyển
trục” lực lượng quân sự của Mỹ sang vùng này của thế giới. Việt Nam cũng là tác
nhân không thể thiếu trong chiến lược bảo vệ biển Đông như là con đường hàng
hải chung của thế giới.
Với tầm quan trọng như vậy, Việt Nam phải có thực lực quân sự và
thực lực kinh tế.
Do đó, các nước Mỹ, Nhật… đã công khai bày tỏ mong muốn cung cấp
cho Việt Nam vũ khí đủ sức tuần tra, phát hiện, ngăn chặn các xâm chiếm lãnh thổ.
Hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa rất quan trọng cho ý đồ độc chiếm biển Đông
của Trung Quốc. Từ năm trăm năm nay, các chính quyền tiếp nối nhau của Việt Nam
đã liên tục thực thi chủ quyền lãnh thổ trên hai quần đảo này mà Trung Quốc
không có vai trò gì cả. Chỉ cần Việt Nam bảo vệ được chủ quyền của mình trên
hai quần đảo này (hay ít nhất, trước mắt, trên quần đảo Trường Sa) là góp phần
giải quyết phần quan trọng của vấn đề biển Đông. Các nước trên cũng mong muốn
Việt Nam tham gia tập trận chung, và từ đó có thể phát triển thành nền móng cho
liên minh quân sự về sau…
Về kinh tế, TPP là một dự án lớn mà Việt Nam sẽ rất có lợi khi
tham gia, vì sẽ có điều kiện phát triển kinh tế và dần dần “tự chủ hóa” nền kinh
tế của mình khỏi vòng lệ thuộc tệ hại vào Trung Quốc như hiện nay. Các quốc gia
chủ chốt trong dự án này, nhất là Mỹ, Nhật rất muốn Việt Nam tham gia.
2)
Tác Động của Chính Sách Bành Trướng của Trung Quốc Đối Với Việt Nam
Chỉ cần lướt qua một số sự việc đã xảy ra từ năm 1974 tới nay,
chúng ta cũng cảm và thấy được các tác động của chính sách bành trướng này.
– Năm 1974: Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa từ miền Nam Việt Nam
– Năm 1979: Trung Cộng tiến công biên giới, giết hại hàng trăm
ngàn chiến sĩ và dân chúng Việt Nam
– Năm 1988: Trung Cộng đánh chiếm biển đảo ở khu vực Trường Sa,
giết chết 64 chiến sĩ Việt Nam.
Từ đó tới nay là các quấy nhiễu liên tục trên biển, từ giấu mặt
đâm chìm tàu cá Việt Nam, cho tới ngang nhiên lập Tam Sa, cắt cáp biển, mang giàn
khoan khủng vào cắm trên thềm lục địa Việt Nam. Và gần đây là xây căn cứ quân
sự trên các đảo thực và đảo nhân tạo mà họ mới chiếm từ tay Việt Nam.
Chính sách này cùng các hành động đơn phương và bất chấp luật pháp
của Trung Quốc gây các tác động trước mắt là cướp đoạt một phần chủ quyền biển,
đảo của Việt Nam, giết hại dân chúng, ngư dân Việt Nam, cướp đoạt tài sản biển
đảo của Việt Nam, uy hiếp an toàn toàn bộ lãnh thổ của Việt Nam.
Về lâu dài, nếu chấp nhận các việc này như “đã rồi”, VN sẽ ngày
càng lệ thuộc, càng suy thoái, và nguy cơ “rơi vào vòng Bắc thuộc lần thứ hai”
ngày càng hiển hiện. Sau một đời tận tâm phục vụ đảng CSVN, ở vị trí ủy viên Bộ
Chính Trị, rồi ông Nguyễn Cơ Thạch cũng thấy được điều mà ông Ngô Đình Nhu đã
cảnh báo khẩn thiết 30 năm trước đó!
3) Việt Nam Nên Có Đối Sách Gì?
Đây là một đề tài rất quan trọng, nhà cầm quyền cần sự tham gia
góp ý của những người dân quan tâm và muốn đóng góp vào quá trình vạch chính sách
cho đất nước.
Tác giả, với tư cách một người dân có quan tâm, xin mạnh dạn nêu ý
kiến của mình qua trả lời hai câu hỏi:
(1) Việt Nam Nên Theo Phe Mỹ-Nhật hay phe Trung Quốc?
Kinh nghiệm ngàn năm chống chọi với tham vọng và ý đồ xâm lăng của
Trung Quốc, kinh nghiệm 150 năm kể từ khi Pháp đến Việt Nam cho tới nay, các
quan sát và chiêm nghiệm những ván cờ tranh chấp chính trị giữa các quốc gia
cùng với sự phát triển của các con Rồng cất cánh trong vòng 50 năm trở lại đây,
cho chúng ta bài học rằng:
Việt Nam không theo ai cả, mà chỉ theo chính Việt Nam.
Điều này phù hợp với các nhận định sau:
a) Lực lượng lớn nhất,
tin cậy nhất mà nước Việt Nam có thể dựa vào là dân tộc Việt Nam. Dân tộc này
sẽ quyết định họ muốn sống trong một nước Việt Nam như thế nào, và dân tộc này
có đủ khả năng xây dựng nước Việt Nam như ước muốn đó. Để làm được điều này,
dân tộc này bên trong phải xây khối đoàn kết dân tộc vững chắc, nghĩa là tổ
chức sự hòa giải hòa hợp dân tộc rộng lớn, bên ngoài phải biết cách, trong tư
thế tự chủ, dùng các nguồn lực quốc tế thích hợp để xây dựng tổ quốc giàu mạnh
và ấm no cho đa số rộng khắp dân chúng.
b) Các cường quốc và siêu cường có liên quan trực tiếp như Úc, Ấn,
Nhật, Mỹ… cũng chia sẻ ý tưởng tự nhiên này. Bản chất của các quốc gia dân chủ
tự do là tôn trọng con người, từ đó mà nghiêng về quan điểm các bên cùng thắng
(WIN-WIN) trong công bằng và minh bạch. Đây là quan điểm văn minh, tiến bộ
trong giao thương và giao thiệp quốc tế. Do đó, các quốc gia này mong muốn được
góp phần với nhân dân Việt Nam xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, tự do, giàu
mạnh đủ sức tự chủ mà không bị bất kì một cường quốc hay một siêu cường nào bức
hiếp. Nước Việt Nam mạnh bước trên con đường tiến lên đó chắc chắc có đóng góp
tích cực vào cục diện hòa bình và ổn định của khu vực, bảo vệ tuyến đường hàng
hải quốc tế biển Đông. Đây chính là lợi ích của thế giới cũng đồng thời là lợi
ích rất to lớn cho Việt Nam, là thời cơ mà nước ta không nên bỏ lỡ để thoát chậm
tiến, thoát yếu nghèo.
c) Việt Nam không chống Trung Quốc. Không gây hại cho Trung Quốc.
Tuy nhiên cần thấy rõ, nước Trung Quốc bành trướng hiện nay không có quan điểm
tích cực và tiến bộ trong giao thương và giao thiệp với Việt Nam. Họ chỉ muốn
họ THẮNG. Họ chỉ muốn Việt Nam là phiên quốc của họ, là đàn em xung kích theo ý
đồ của họ. Họ can thiệp vào việc xếp đặt bộ máy lãnh đạo cao cấp của Việt Nam.
Họ can thiệp vào chính sách ngoại giao Việt Nam theo cách để Việt Nam không thể
tự chủ, tự lập. Sự gia nhập WTO chậm trễ của Việt Nam là một thí dụ Việt Nam
không nên quên. Các cuộc chiến biên giới và biển đảo cùng thực trạng biển đảo
hiện nay là những thí dụ khác… Do vậy, Việt Nam cần xây dựng để tiến về hướng
tự chủ bảo vệ quyền lợi trước mắt và tương la phát triển lâu dài. Đương nhiên,
Việt Nam sẽ hoan nghênh và hợp tác tích cực với một nước Trung Hoa có cung cách
giao thiệp văn minh và không xâm phạm quyền lợi của Việt Nam.
(2) Việt Nam Nên Xác Định các Mục Tiêu Chiến Lược Nào?
a)
Mục Tiêu Tối Thượng Của Quốc Gia
Trước hết, Việt Nam cần Xác Định Rõ Mục Tiêu Tối Thượng của Quốc
Gia cho giai đoạn hiện tại. Mục Tiêu Tối Thượng đó nên chứa các ý chính như
sau:
– Đất Nước Giàu Mạnh và Văn Minh, Đủ Sức Giữ Vững
– Nền Tự Chủ và Toàn Vẹn Lãnh Thổ
b) Các Mục Tiêu Chiến Lược để đạt được Mục Tiêu Tối Thượng Của
Quốc Gia
Để đạt được Mục Tiêu Tối Thượng nói trên, Việt Nam cần xác định
các Mục Tiêu Chiến Lược trên các mặt sau:
– Kinh Tế – Quân Sự
– Các Đối Tác Trên Thế Giới Hài Lòng và Ủng Hộ
– Dân Chúng Trong Nước Hài Lòng và Ủng Hộ
– Trình Độ Dân Trí Được Nâng Cao
Về Kinh
Tế – Quân Sự, một số Mục Tiêu Chiến Lược có thể là:
- Gia Nhập TPP
- GDP tăng trung bình 8%-10%/năm (2015-2020)
- Dự
Trữ Ngoại Tệ: 150 tỉ đô la Mỹ năm 2020
- Quân
Sự (các chỉ tiêu cụ thể về Quân Sự như ngân sách quốc phòng…)
Về Các Đối Tác Trên Thế Giới Hài Lòng
và Ủng Hộ, một số Mục Tiêu Chiến Lược có thể là:
- Thực
Thi Các Yêu Cầu Phổ Quát của Thế Giới về Nhân Quyền
- Tham
Gia Liên Minh với Mỹ, Nhật, Úc…
- Giữ Giao Thiệp Tốt với Trung Quốc
Về Dân Chúng Trong Nước Hài Lòng và Ủng
Hộ, một số Mục Tiêu Chiến Lược có thể là:
- Tự Do Lập Hội
- Lập Công Đoàn Độc Lập
- Đa Đảng
- Tự Do Ứng Cử, Bầu Cử chọn đảng thành lập chính quyền
- Tam Quyền Phân Lập
Về Nâng
Cao Dân Trí một số Mục Tiêu Chiến Lược có thể là:
- Đa Nguyên
- Tự Do Ngôn Luận – Báo Chí Tư Nhân
Kính thưa quí độc giả, trên đây là các ý kiến chân thành mong góp phần
mình trong cuộc thảo luận sâu sắc và rộng rãi sắp tới của các chuyên gia và nhà
chính trị về tương lai Việt Nam.
Tương Lai Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh đất nước đang bế tắc trong
chọn lựa chính thể thích hợp để phát triển và giữ vững chủ quyền trước mưu đồ
xâm lấn của Trung Quốc, luôn là chủ đề thôi thúc suy tư…
T.Q.C.
Tác giả gửi BVN
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks