Phân tích đặc điểm các
phát ngôn của giới lãnh đạo
GS. Nguyễn văn Tuấn
Tuần qua, có một câu
chuyện liên quan đến Tổng thống Obama và cậu học trò Osman Yahya 11 tuổi nói
lên phong cách lãnh đạo. Số là cậu Osman làm MC điều hành chương trình đối
thoại trên tivi giữa TT Obama và học của một trường trung học ở bang Maryland
bên Mĩ, khi một học sinh hỏi ông Obama có thích đọc sách không, và ông Obama
bắt đầu trả lời rằng ông mê đọc sách, thì cậu MC ngắt ngang rằng “Tôi nghĩ ông
đã trả lời hết câu hỏi đó rồi.” Ông Obama nói nửa đùa nửa thật rằng “OK, Osman
nghĩ rằng tôi nói dài dòng quá”, Osman vừa cười vừa nói “Không, không”, nhưng
Obama nói “thôi, mình tiếp tục”. Các bạn có thể xem video (1) để thấy:
Câu chuyện có thể hiểu và nhìn theo nhiều góc cạnh. Nhưng tôi thì thấy cái phong cách rất tuyệt vời của Obama, vì ông làm cho buổi phỏng vấn rất thân mật, và quan trọng là ông cũng buồn phiền khi bị một cậu học trò đáng tuổi con mình ngắt ngang và sửa lưng! Thử tưởng một vị lãnh đạo Việt Nam mà bị một cậu học sinh nói “Thôi, ông nói dài quá, đủ rồi”! Cậu học trò Việt Nam đó chắc bị nư đòn ?!
Sẵn dịp bàn về phong cách nói, tôi muốn chia sẻ cùng các bạn vài
nhận xét và phân tích của tôi về những phát biểu của giới lãnh đạo VN. Có khi
nào các bạn tự hỏi tại sao người ta không muốn đọc những bài viết của giới lãnh
đạo, và khi họ viết hay nói ra cái gì thì rất ít người đọc. Người đọc thì chê
(ví dụ như bài của vị nào đó trên Vietnamnet bị dislike nhiều gấp mấy lần
like). Tôi tự hỏi câu này rất thường xuyên, và tôi rút ra vài đặc điểm thú vị
dưới đây, mà tôi nghĩ có thể giải thích tại sao những phát ngôn của lãnh đạo VN
kém hấp dẫn. Đây là bài viết còn ở bản nháp, và sẽ bổ sung khi nghĩ ra ý mới.
Những người lãnh đạo giỏi và có bản lĩnh họ không chỉ nói, mà còn
thực hiện những gì họ nói. Ngay cả cách nói, mỗi một lần phát biểu họ đều để
lại những câu mà báo chí có trích trích dẫn (quotable words) hay làm cho người
nghe phải suy nghĩ vì nó có cái wisdom trong đó. Chẳng hạn như khi nói về những
việc làm liên quan đến tai nạn máy bay MH17, thủ tướng Úc nói “Mục tiêu của
chúng ta là đảm bảo phẩm giá, sự tôn trọng, và công lí cho người quá cố và
người đang sống.” Đó là một câu có thể trích dẫn.
Nhìn lại giới lãnh đạo VN, tôi thấy hình như họ không có cái tư
chất về ăn nói của chính khách phương Tây. Chính khách VN quen với đường mòn
chữ nghĩa mang đậm bản chất XHCN nên họ chỉ loanh quanh những câu chữ quen
thuộc. Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu hiệu quen
thuộc, kiểu như “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” Đọc qua
nhiều bài phát biểu của các lãnh đạo VN tôi nhận ra vài đặc điểm chính (có thể
chưa đủ) như sau:
Thứ nhất là tính chung chung, không có một cái gì cụ thể.
Có thể nói rằng thói quen phát biểu chung chung là đặc điểm số 1 của chính
khách VN, họ không có khả năng nói cái gì cụ thể, tất cả chỉ chung chung, ai
muốn hiểu sao thì hiểu. Ví dụ như phát biểu “Đặc biệt là, tình hình Biển Đông
hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, tăng cường đoàn kết, cả nước một
lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;
đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất
nước.” Đọc xong đoạn văn chúng ta chẳng có thông tin nào, mà tất cả chỉ là
những mĩ từ, giống như những khẩu hiệu được nối kết với nhau. Chúng ta cũng
không có thêm thông tin, ngoại trừ một chữ rất chung chung là “phức tạp”. Hai
chữ “phức tạp” có thể nói là rất phổ biến ở VN, đụng đến cái gì họ không giải
thích được, không mô tả cụ thể được, thì họ bèn thay thế bằng hai chữ “phức
tạp” mà chẳng ai hiểu gì cả. Cả một đoạn văn 74 chữ, chúng ta không thấy một ý
nào cụ thể và không thể trích dẫn bất cứ câu nào.
Thứ hai là dùng nhiều sáo ngữ. Ví dụ tiêu biểu cho đặc điểm
này là bài nói chuyện nhân kỉ niệm 40 năm ngày kí Hiệp định Paris: “Hiệp định
Paris là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ,
cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt
Nam.” Chú ý những chữ “mốc son”, “sử vàng”, “mặt trận ngoại giao”, tất cả đều
là những sáo ngữ. Có một loại sáo ngữ khác là chúng mang tính tích cực nhưng
không có ý nghĩa thực tế. Vì dụ như bài diễn văn nhân dịp kết thúc một đại hội
đảng, có đoạn: “Sau hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về
văn hóa, tư duy lý luận về văn hóa của chúng ta đã có bước phát triển …. Nhiều
phong trào văn hóa đem lại hiệu quả thiết thực. Truyền thống văn hóa gia đình,
dòng họ, cộng đồng… được phát huy.” Chúng ta chú ý thấy nào là “phát triển”,
“phát huy”, “hiệu quả thiết thực”, nhưng vì chúng không có một dữ liệu cụ thể
nào nên tất cả chỉ là rỗng tuếch về ý nghĩa. Thật vậy, đọc xong đoạn phát biểu
này chúng ta không thấy bất cứ một điểm cụ thể nào để nhớ hay để làm minh hoạ.
Chẳng có một ý tưởng nào để đáng nhớ.
Một trong những sáo ngữ chúng ta hay thấy trong các bài phát biểu
là “đánh giá cao”. Ví dụ như “tôi cám ơn và đánh giá cao bài phát biểu rất tốt
đẹp của Ngài Thủ tướng Hà Lan”, “tôi đánh giá cao và chân thành cám ơn sự hỗ
trợ của Chính phủ …”. “Đánh giá cao” hình như là một thuật ngữ đặc thù trong
thế giới xã hội chủ nghĩa nó vẫn còn sống sót đến ngày hôm nay. Thoạt đầu nghe
qua “đánh giá cao” thì cũng hay hay, nhưng nghĩ kĩ thì thấy câu này chẳng có ý
nghĩa gì cả. Thế nào là đánh giá cao, cao cái gì? Tôi thấy nó là một sáo ngữ
cực kì vô duyên và vô dụng.
Thứ ba là thiếu thông tin (lack of information). Có nhiều
lãnh đạo quen tính nói rất nhiều, nhưng nếu chịu khó xem xét kĩ chúng ta sẽ
thấy họ chẳng nói gì cả. “Chẳng nói” vì những gì họ nói ra không có thông tin,
tất cả chỉ là những câu chữ lắp ráp vào nhau cho ra những câu văn chứ không có
dữ liệu. Do đó, có khi đọc xong một đoạn văn chúng ta chẳng hiểu tác giả muốn
nói gì. Chẳng hạn như phát biểu về hiến pháp, ông chủ tịch QH nói: “Chúng tôi
cũng hiểu rằng một bộ phận, một số người trong các tầng lớp nhân dân và ngay
một số ĐBQH cũng còn ý kiến khác. Tuy nhiên tuyệt đại nhân dân và Quốc hội có
thể khẳng định đã đồng tình cao với bản Hiến pháp thông qua lần này. Với quyền
năng nhân dân trao cho Quốc hội, chúng ta đã thể hiện được đại đa số nguyện
vọng của toàn dân, của Quốc hội với tinh thần làm chủ của nhân dân, chúng ta sẽ
biểu quyết theo tinh thần đó.” Câu cú và cấu trúc ý tưởng chẳng đâu vào đâu.
Lúc thì quyền năng nhân dân trao cho Quốc hội, lúc thì nguyện vọng của toàn
dân, của Quốc hội, lại còn đèo theo một câu “tinh thần làm chủ của nhân dân”.
Câu chữ đọc lên nó cứ như là nhảy nhót loanh quanh, chẳng đâu vào đâu, và cuối
cùng là chẳng có gì để nói!
Thứ tư là ngôn ngữ khẩu hiệu. Có thể nói rằng rất rất nhiều
bài nói chuyện và diễn văn của các lãnh đạo chỉ là những khẩu hiệu được lắp ráp
vào với nhau. Có những khẩu hiệu quá quen thuộc nên chẳng ai chất vấn tính
chính xác của nó. Ví dụ như câu “Trong niềm tự hào, chúng ta thành kính tưởng
nhớ và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – vị lãnh tụ
thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới …”, có lẽ
chẳng ai để ý đến chữ “danh nhân văn hóa thế giới”. Nếu người bình thường phát
biểu như thế thì chắc người ta cũng lắc đầu bỏ qua, nhưng lãnh đạo mà phát biểu
như thế thì chẳng có gì sáng tạo, chỉ lặp lại những câu chữ đã có trước đây.
Thật ra thì ông cụ đâu được công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.
Một loại ngôn ngữ khẩu hiệu khác mang tính tự hào. Tự hào là một
“đặc sản” của các vị lãnh đạo VN, đi đâu cũng nghe họ nói về tự hào. Điều này
cũng hiểu được, vì làm lãnh đạo thì phải gieo niềm tự hào vào người dân. Nhưng
gieo không đúng chỗ và gieo mãi thì có thể trở thành phản tác dụng. Thử đọc bài
diễn văn có đoạn “Chúng ta tự hào về đất nước Việt Nam anh hùng, nhân dân Việt
Nam anh hùng, tự hào về những con người giản dị bằng những việc làm tốt của
mình ở mọi lúc, mọi nơi đã góp phần làm nên vẻ đẹp văn hóa của con người Việt
Nam, đất nước Việt Nam; góp phần quyết định để xây dựng đất nước ta ngày càng
giàu mạnh.” Tôi tự hỏi có cần quá nhiều tự hào như thế. Đất nước anh hùng, con
người anh hùng, vẻ đẹp văn hoá, v.v. nhưng tại sao đất nước vẫn còn nghèo và
phải “ăn xin” hết nơi này đến nơi khác và ăn xin kinh niên, con người vẫn còn
đứng dưới hạng trung bình trên thế giới. Thay vì tự ru ngủ là anh hùng và giàu
mạnh, tôi nghĩ lãnh đạo phải nói thẳng và nói thật là đất nước vẫn còn rất
nghèo, tài nguyên chẳng có gì, và cả nước đang phải đương đầu với ngoại xâm.
Thứ năm là … tự khen. Từ tự hào quen dùng khẩu hiệu dẫn đến
tự mình khen mình là tài giỏi và vĩ đại, và đặc tính này tôi thấy khá thường
xuyên. Một ví dụ tiêu biểu là bài viết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân kỉ
niệm 40 năm ngày 30/4: "Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước
là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng
đắn, sáng tạo của Đảng." Thật ra, đó là tựa đề của bài viết, mà dài như
thế! Nhưng một phần tựa đề này là những khẩu hiệu chúng ta hay gặp trong suốt
mấy thập niên qua. Cứ đề cập đến đảng là phải kèm theo những tính từ như sáng
tạo, lỗi lạc, đứng đắn, quang vinh, vĩ đại, v.v. Tôi không bàn đến đúng hay sai
về nội dung, mà chỉ muốn nói rằng rất hiếm thấy một tổ chức hay cá nhân nào mà
tự khen như thế. Người Việt có câu "Hữu xạ tự nhiên hương", nếu mình
làm điều tốt thì sẽ có người ghi nhận, chứ không cần phải tự khen như thế. Tự
khen 1 lần thì có lẽ cũng không đến nỗi tệ, nhưng tự khen hết năm này sang năm
khác, và tự khen khắp nơi như dàn đồng ca, thì rất dễ bị hiểu lầm là một bệnh
lí tâm thần. Nhưng rất tiếc đó là một thói quen của các vị lãnh đạo, hay những
người viết diễn văn cho các vị ấy.
Thứ sáu là loại ngôn ngữ hành chính hoá. Nếu chú ý kĩ chúng
ta sẽ thấy phần lớn những bài nói chuyện, bài diễn văn các lãnh đạo đọc là họ
nói với đảng viên, với quan chức, công nhân viên, với quân đội, v.v. chứ không
phải nói với người dân. Có lẽ chính vì thế mà ngôn ngữ của họ thường mang tính
hành chính. Có những chữ mà hình như họ sử dụng quá nhiều nên chẳng ai để ý ý
nghĩa thật của nó, như “Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế, đối ngoại phải tiếp tục là mặt trận quan trọng góp
phần phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.” Đối với người dân bình thường, ít ai
hiểu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế là cái gì. Có thể nói đó
là những ngôn ngữ xa lạ đối với người dân.
Những bài diễn văn của các chính khác phương Tây thường rất sinh
động, thực tế, và có khi … vui. Chúng ta thấy nhiều lãnh đạo phương Tây (tiêu
biểu là Mĩ) khi họ nói chuyện dù là trong buổi lễ rất trang trọng, mà họ vẫn
làm cho khán giả vừa vỗ tay vừa cười. Khán giả cảm thấy gần gũi với diễn giả.
Ngược lại, những bài diễn văn của lãnh đạo VN thường cứng nhắc, công thức, và
lúc nào cũng tỏ ra hết sức nghiêm trọng (dù sự việc chẳng có gì nghiêm trọng).
Vì thế mà khi lãnh đạo VN nói chẳng ai cười, có người lại buồn ngủ, tức là
chính họ cũng cảm thấy nhàm chán. Khán giả cũng có khi vỗ tay, nhưng là vỗ tay
theo kịch bản hơn là tự nhiên. Khán giả nghe họ đọc hơn là diễn. Một phần có lẽ
do lãnh đạo VN chưa quen với văn hoá nói, và/hoặc họ cũng muốn tỏ ra là người
quan trọng. Dù gì đi nữa thì những bài nói chuyện của lãnh đạo VN rất khó gần
với người dân do ngôn ngữ cứng đơ và kém thân thiện, và cách họ triển khai bài
nói chuyện quá xa rời công chúng.
Dĩ nhiên, những đặc điểm này không phải là độc quyền của các lãnh
đạo VN, mà thỉnh thoảng các chính khách phương Tây cũng vướng phải. Khi họ
vướng phải, người dân biết vị chính khách đó có vấn đề, hoặc là không nắm vững
vấn đề, hoặc là lúng túng. Vì không nắm vững vấn đề nên họ nói chung chung. Có
người nghĩ nói chung chung là nói “đa tầng”, nhưng thật ra đó chỉ là cách nguỵ
biện thô thiển. VN nói về hội nhập quốc tế, nhưng với loại ngôn ngữ đặc thù
XHCN trên đây, tôi nghĩ các lãnh đạo VN sẽ rất khó gần với lãnh đạo thuộc thế
giới văn minh. Hội nhập cũng cần phải hội nhập về ngôn ngữ và phong cách.
Là người Việt, ai cũng muốn các lãnh đạo hay quan chức hay người
đại diện VN ra nước ngoài làm cho mình tự hào, chứ không muốn họ có những phát
ngôn hay hành vi làm mình không dám tự hào là người Việt. Bài này hoàn toàn và
tự thâm tâm không có ý chê trách, chỉ muốn góp vài ý rất chân tình và mang tính
cá nhân của tôi.
Giáo Sư Nguyễn văn Tuấn
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks