Đại Học chăn Trâu




Sunday 16 April 2017

(Trich) Tại sao không nên dùng chữ Trung Quốc?



(..trich)...Ở đây, chúng ta nhận ra thêm một điều vô cùng quan trọng là, do bản chất nô lệ giặc Bắc, Việt cộng đã âm thầm dùng tiếng Việt theo kiểu Tàu. 

Các chữ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đi trước hai chữ Việt Nam. Có nghĩa là tính từ đi trước danh từ.

Trong khi đó danh xưng Việt Nam Cộng Hòa, tính từ phải đi sau danh từ. Người  Việt chúng ta chỉ nói trái ổi xanh, hoặc biển xanh. Chỉ có dân Tàu mới nói xanh
 trái ổi, và thương hải....

Người Tàu, bởi ngu si lại nặng tinh thần hống hách luôn tự cho mình là lớn, là trung tâm của thế giới, nên họ tự gọi là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, và Cộng Hòa Trung Hoa, viết và hiểu theo cách Tàu dùng tiếng Việt.....

 Thật ra, tên họ Khổng xứ Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) nhận lệnh đi ăn cắp văn hóa của phương Nam, tức của dân Bách  Việt, rồi đem về xào nấu, nên hắn ta chỉ dám gọi là đồ ăn cắp chứ không phải tự tay tạo ra (thuật nhi bất tác). 

Bán khai đến độ, hắn ta cũng không hề biết và cho rằng trà và lúa của dân Bách Việt phía nam sông Dương Tử đang dùng là kỳ lạ và chẳng phải là những món ăn uống mà kẻ có văn hóa nên  dùng.

 Thế nhưng sau khi uống thử rồi thấy ngon thấy ghiền. 
Cái tài lưu manh của kẻ ăn cắp luôn là tẩy xóa hết dấu vết cũ rồi cho là của mình. Để bây giờ cả thế giới, ngay người Việt cũng tin chắc rằng trà phát xuất từ Tàu.

Cũng theo lệnh trên, tên bồi bút họ Khổng này đưa ra những thuyết ma mỵ để đặt ách nô lệ lên đầu người dân như; thuyết thìên mệnh, ngũ thường, và trung quân ái quốc, vân vân......

 Chống Tàu cộng xâm lược, mà không  chống nổi ngôn ngữ nô lệ của chúng đang bám chặt trong đầu, thì chỉ làm trò cười cho bọn tay sai Việt cộng là thế đấy.

Nên hiểu rằng, Việt cộng không bao giờ lo ngại chuyện mìn bom súng đạn, chúng chỉ sợ cái đầu của người dân.

Mà thể hiện của cái đầu là qua ngôn ngữ đang xử dụng.
 Mong mọi người nên suy nghĩ kỹ điều này.



Trong nhiều ngàn năm qua, dã tâm đồng hóa của Tàu đối với dân tộc ta là triệt để, nhất quán và cực kỳ tàn bạo. 

Cách đây trên 2000 năm, trong thời kỳ đô hộ ta, chúng dùng các phương cách sắt máu buộc dân ta chuyển từ Mẫu hệ sang Phụ hệ, cấm dân ta theo phong tục tập quán (văn minh, văn hiến) của dân tộc mình; chúng bắt dân ta xóa bỏ tất cả phong tục tập quán của mình, và học theo các phong tục tập quán của chúng, rồi chúng rêu rao ta là dân man di không có phong tục lễ nghĩa nên chúng phải dạy ta. 

(Hiện nay người ta đã nhận ra nhiều sự thật ngược lại sau những lời rêu rao ấy.)....

Gần đây trên mạng Internet, và trên Facebook nói riêng, có vài người có ý “trách” tổ tiên ta “ác” đã “cưỡng” chiếm các quốc gia Chiêm Thành, Chân Lạp... và tiêu diệt hoặc đồng hóa các dân tộc ấy, khiến nay dân tộc ta bị... quả báo. Nói vậy là không hiểu biết gì cả về lịch sử.
 
SỨC SỐNG CỦA DÂN TỘC VIỆT
(Cuộc thảo luận với Mưa Sông Hồ dưới bài viết
HÙNG VƯƠNG LÀ NAM HAY NỮ [1]
trên Facebook Thiếu Khanh)


Mưa Sông Hồ: Từ Mẫu hệ chuyển sang Phụ hệ, một thay đổi đảo lộn nền móng một cộng đồng, chứng minh  được một sức đồng hóa ghê gớm chứ nhỉ …
Thieu Khanh: Mưa Sông Hồ, Việc chuyển đổi từ mẫu hệ sang phụ hệ do người Tàu áp đặt và kéo dài trong nhiều thế kỷ. Sự "cải đạo" thành công này có sự "đồng lõa" của quá trình tiến hóa tự nhiên của lịch sử nhân loại, vì nếu thời đó người Tàu không nỗ lực đưa người Việt từ chế độ Mẫu hệ sang Phụ hệ, thì dù có muộn lắm cũng chỉ trong năm, bảy thế kỷ sau, hoặc thậm chí một ngàn năm sau, dân tộc Việt cũng "tự diễn biến, tự chuyển hóa" thành phụ hệ một cách tự nhiên mà thôi. Còn nói về sức mạnh đồng hóa thì, theo sự thùa nhận của Ts. K. W. Taylor, sức mạnh đó nằm về phía người Việt, chớ không phải người Tàu, vì ông nhận thấy, chỉ sau vài thế hệ, "người Tàu bị Việt hóa dễ hơn người Việt bị Hán hóa." (K. W. Taylor, The Birth of Vietnam, page 53) Và bằng chứng hùng hồn là, sau 1050 năm bị Tàu đô hộ, ta vẫn còn là người Việt, và ngôn ngữ của ta vẫn còn là tiếng Việt!
Mưa Sông Hồ: Đồng ý với anh Thieu Khanh về sự “đồng loã” của quá trình tiến hóa tự nhiên trong việc chuyển đổi từ Mẫu hệ sang Phụ hệ. Tuy nhiên việc Việt “cưỡng” Champa đến vong quốc mà Champa còn giữ được Mẫu hệ, trong khi Tàu “cưỡng” Việt không vong nổi quốc nhưng hết còn Mẫu hệ (mà tiến trình tự nhiên tác động lên hai chủng Champa và Việt thì như nhau) cũng nói lên sức mạnh đồng hóa của Tàu lên Việt là không phải nhỏ.
Lại nói về nhận định của Ts K. W. Taylor, rằng sức mạnh đồng hóa đó nằm về phía người Việt và rằng "người Tàu bị Việt hóa dễ hơn người Việt bị Hán hóa", thì tôi thấy thế này: Điều đó cũng khá là tự nhiên, không có gì là đặc biệt để đáng tự hào cho sức mạnh tồn sinh của người Việt mình cả. Trong suốt hằng ngàn năm bắc thuộc, dù dưới sức áp đảo từ bên trên, nhưng trong lòng cộng đồng Việt thì người Tàu luôn là thiểu số nên tiến trình “đồng lõa” của tự nhiên luôn đứng về phía người Việt. Dẫn chứng tiếng Việt (sau 1050 năm bị Tàu đô hộ mà vẫn còn giữ được) không thuyết phục. Kiến Hải vương Lý Dương Côn của vương triều Lý cùng tùy tùng và gia quyến lưu vong và lập xứ bên Cao ly từ năm 1150. Năm 1226, khi nhà Lý mất ngôi về nhà Trần, hoàng tử Lý Long Tường con vua Lý Anh Tông cùng gia quyến và tùy tùng thân tín vượt biển sang Cao Ly sinh sống... Dòng họ Lý đó giờ đây hàng ngàn người bên Cao Ly đâu có giữ nổi tiếng Việt. (Trong khi đó người Champa mất nước, mất cơ đồ, nhưng họ đâu có mất tiếng, mất phong tục ngàn đời!) :)
Thieu Khanh: Vấn đề này thú vị đây. Nhưng lúc này tôi đang bận quá không thể viết cho cặn kẽ. Chỉ ghi vài nét sơ lược thôi. Bao giờ có dịp và có điều kiện sẽ nói thêm.
Trong nhiều ngàn năm qua, dã tâm đồng hóa của Tàu đối với dân tộc ta là triệt để, nhất quán và cực kỳ tàn bạo. Cách đây trên 2000 năm, trong thời kỳ đô hộ ta, chúng dùng các phương cách sắt máu buộc dân ta chuyển từ Mẫu hệ sang Phụ hệ, cấm dân ta theo phong tục tập quán (văn minh, văn hiến) của dân tộc mình; chúng bắt dân ta xóa bỏ tất cả phong tục tập quán của mình, và học theo các phong tục tập quán của chúng, rồi chúng rêu rao ta là dân man di không có phong tục lễ nghĩa nên chúng phải dạy ta. (Hiện nay người ta đã nhận ra nhiều sự thật ngược lại sau những lời rêu rao ấy.)
Ngay trước khi chiếm nước ta vào thế kỷ XV, Tên vua Tàu Minh Thành tổ từng ra lệnh tịch thu và tiêu hủy hết tất cả mọi thứ gì có chữ viết của ta để nền văn hóa của dân tộc ta không còn lưu lại một dấu vết nào.
Những hành động chủ ý và tàn bạo đó của người Tàu không thể đem so với việc tổ tiên ta đã làm với các quốc gia ở phía nam bị xáp nhập vào đất nước mình trong quá trình mở rộng giang sơn Đại Việt.
Không phải vô cớ mà tổ tiên ta “cưỡng” chiếm đất nước của họ. Lịch sử ghi lại không biết bao nhiêu lần các quốc gia đó đem hùng binh dũng tướng đánh phá đất nước ta, ngay cả từ thời ta đang nằm dưới ách đô hộ của Tàu, khiến Tàu cũng điên đầu với chúng, đủ biết chúng mạnh và “quậy” cỡ nào.
Vào thế kỷ IV, chỉ một cái tên Phạm Văn của nước Lâm Ấp bé nhỏ đã khiến triều đình nhà Tấn ăn không ngon ngủ không yên. Phạm Văn liên tục đánh phá và thậm chí chiếm các Quận Nhật Nam, Cửu Chân, và Cửu Đức (tức phần nửa phía Nam của nước Đại Việt sau này) và sáp nhập Nhật Nam và Cửu Chân vào nước Lâm Ấp. Có khi quân Lâm Ấp giết đến 80 – 90 phần trăm quân lưu thú của nhà Tấn đóng tại đây. Phạm Văn chết, con trai là Phạm Phật nối ngôi, tiếp tục chiến tranh. Sau Phạm Phật, con y là Phạm Hồ Đạt lại tiếp tục đánh phá Nhật Nam, Cửu Chân.
Sau khi triều Tấn chấm dứt, triều Tống cai trị Trung Quốc. Phạm Dương Mại lại đem quân Lâm Ấp tiến đánh Giao Châu (toàn bộ Việt Nam lúc bấy giờ), và đòi Tống triều giao Giao Châu cho y sáp nhập vào Lâm Ấp. Chiến tranh Lâm Ấp kéo dài hàng nhiều thế kỷ. Các triều đại Trung Quốc chịu không thấu, đã phải nhiều lần cử binh đi xa ngàn dậm xuống phía nam nổi tiếng lam sơn chướng khí (đối với người phương Bắc) để đánh bại và tiêu diệt chúng.
Quân Tàu đã ra tay là cực kỳ tàn nhẫn. Chẳng hạn vào năm 433, quân Tống đánh hạ một thành tên là Khu Túc, “Tất cả người dân trưởng thành trong thành đều bị chém đầu. Các cung điện ngập trong máu, xác người chất cao thành đống, và tất cả các kho vàng bạc châu báu trong thành đều bị cướp đoạt “ Và năm đó, sau khi chiếm được Kinh đô Lâm Ấp, quân Tống thỏa tay chém giết bất kỳ ai chúng bắt gặp; khi kéo quân về nước, chúng mang theo vô số châu bàu cùng với 50 tấn vàng cướp được từ các đền đài cung điện. Phạm Dương Mại, vua Lâm Ấp lúc bấy giờ trốn được vào rừng núi sống sót, nhưng khi nhìn đất nước tan hoang, ông ta cũng đau buồn mà chết. Vậy nhưng chứng nào tật nấy, thua keo này chúng bày keo khác, không chịu để ta yên.
Sau nhiều cuộc chiến tranh dai dẳng, đến đầu thế kỷ VII, vào năm 605, tướng Lưu Phương của nhà Tống san bằng Kinh đô Lâm Ấp một lần nữa. Trong số chiến lợi phẩm của quân Tàu lần này có cả 18 bài vị bằng vàng thờ 18 đời vua Lâm Ấp.
Lâm Ấp là tiền thân của nước Chiêm Thành, bị diệt vong vào khoảng năm 700. Chiêm Thành nối tiếp Lâm Ấp cũng không hiền lành thân thiện gì. Vào đầu thế kỷ IX, Chiêm Thành đã nhiều lần tấn công An Nam Độ hộ phủ. Sau khi ta giành được độc lập, và khi nghe tin Đinh Tiên hoàng bị ám sát chết, vua Chiêm là Paramesvaravarman I, đã mang hàng ngàn chiến thuyền tiến đánh Kinh đô Hoa Lư nhưng thất bại.
Rồi năm 983 hơn 10 ngàn quân Chiêm với nhiều voi ngựa tiến đánh Đại Cồ Việt. Những cuộc đánh phá xâm lăng như thế cứ tiếp tục hết thế kỷ này đến thế kỷ khác. Thậm chí vào thế kỷ XIV chúng từng đánh vào cả thủ đô Thăng Long của Đại Việt. Không phải cái tên Chế Bồng Nga từng lẫy lừng trong thời kỳ đó sao?
Gần đây trên mạng Internet, và trên Facebook nói riêng, có vài người có ý “trách” tổ tiên ta “ác” đã “cưỡng” chiếm các quốc gia Chiêm Thành, Chân Lạp... và tiêu diệt hoặc đồng hóa các dân tộc ấy, khiến nay dân tộc ta bị... quả báo. Nói vậy là không hiểu biết gì cả về lịch sử.
Tổ tiên ta xưa ở vào thế tự vệ giữa hai gọng kềm, phương Bắc hiếp xuống, phía Nam đánh phá lên, không bao giờ yên ổn, nên tổ tiên ta bắt buộc phải chống lại sự xâm lược của chúng. Cách hay nhất để khỏi phải động binh đánh giặc liên miên là đánh bại chúng hoàn toàn và thu lấy đất nước của chúng.
Nước Tàu lớn quá, Lý Thường Kiệt chỉ bẻ gẫy mưu toan của nhà Tống tấn công chúng ta, mà không... đánh chiếm cả nước nó được. Nhưng với các quốc gia phía dưới luôn tỏ ra thù địch thì phải dẹp yên. Tuy vậy, sau khi đánh thắng và chiếm được đất nước của chúng, các vua ta chỉ đặt người cai trị về mặt chính quyền, hoặc thường là để họ được tự trị, và KHÔNG HỀ BAO GIỜ CÓ CHỦ TRƯƠNG ĐỒNG HÓA HAY HỦY DIỆT VĂN HÓA CỦA HỌ, như người Tàu đã làm với ta, và KHÔNG HỀ BAO GIỜ CÓ CHỦ TRƯƠNG BUỘC HỌ RỜI BỎ NGÔN NGỮ CỦA DÂN TỘC HỌ ĐỂ ÁP ĐẶT VĂN HÓA NGÔN NGỮ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.
Chính vì vậy, dù dân tộc họ chỉ còn là thiểu số nằm lọt thỏm vào giữa đất nước và dân tộc Việt Nam, nhưng họ vẫn còn bảo tồn được ngôn ngữ, phong tục tập quán riêng biệt của họ, thậm chí cả chế độ mẫu hệ của người Chàm. Điều này hoàn toàn không phải là kết quả của sự chống đồng hóa hay sức mạnh tinh thần nào của dân tộc họ như được hiểu lầm. Đó là do họ không phải trải qua chính sách đồng hóa khốc liệt như của người Tàu đối với dân ta. Có thể nói cách khác: ĐÓ LÀ KẾT QUẢ TỪ LÒNG KHOAN DUNG CỦA NGƯỜI VIỆT.
Nói chuyện các thân vương nhà Lý Việt Nam ở Triều Tiên và Hàn Quốc.
Sau khi nhà Lý mất ngôi về tay nhà Trần, các hoàng tử nhà Lý như Lý Dương Côn, Lý Long Tường đưa quyến thuộc và binh lính bản bộ chạy sang Cao Ly tỵ nạn và sinh sống ở cả Triều Tiên và Nam Hàn từ đó đến nay. Họ đã hoàn toàn “biến thành” người Triều Tiên hay người Nam Hàn chưa? Chúng ta không có dữ liệu để kết luận, chỉ biết là ngay khi mới đặt chân lên đất nước đó, với tư cách thân vương của một triều đại ở Việt Nam, và với tài năng của bản thân họ, các hoàng tử họ Lý rất được triều đình Cao Ly trọng thị. Thêm vào đó, tình cờ họ Lý của họ cũng là quốc tính của Cao Ly, nên ngay từ đầu họ đã được gia nhập vào giới thượng lưu của vương quốc này, chớ không chịu thân phận ngoại kiều “ăn nhờ ở đậu” (dù thực tế ban đầu là thế)
Có thể với những điều thuận lợi đó, họ không bị cách ly với dân bản địa, mà nhanh chóng hòa nhập vào xã hội mới. Nhưng mấy năm trước đây con cháu nhiều đời của các thân vương họ Lý lịch sử đó đã tìm về Việt Nam bái yết linh vị Bát Đế tổ tiên họ sau gần một ngàn năm “đứt rễ” với quê hương. Và họ xác nhận nguồn gốc Việt Nam của mình. Trước đó, Tổng thống Lý Thừa Vãn của Đại Hàn cũng từng thừa nhận tổ tiên mình là người Việt.
Chúng ta không biết các hậu duệ nhiều đời của vương triều họ Lý Việt Nam này ở Triều Tiên và Hàn Quốc còn nhớ tiếng Việt nào hay không, nhưng một cộng đồng thiểu số người Việt sống ngay trong đất nước Trung Quốc từ rất lâu đời vẫn còn giữ phong tục và ngôn ngữ Việt cổ. Nhóm người Việt thiểu số đó được chính phủ Trung Quốc chính thức công nhận và gọi họ là người dân tộc Kinh. Gõ vào Google mấy chữ “Dân tộc Kinh ở Trung quốc” sẽ có nhiều thông tin.
Trước đây ít lâu, tôi có đọc thấy thông tin Giáo sư Tiến sĩ Bác Sĩ Trần Đại Sĩ (Giám-đốc Trung-quốc sự vụ tại viện Pháp-á [Institut Franco-Asiatique] và Giáo-sư trường y khoa Arma, Paris) ở Pháp, tường trình đã phát hiện một địa phương nhỏ ở bên Trung quốc (tôi không nhớ vùng nào) mà dân cư ở đó là người Việt cổ từ thời Hai Bà Trưng; họ có các đền thờ thờ hai bà Trưng và các nữ tướng của hai Bà từ đó đến nay. Các cư dân người Việt cổ này còn giữ nhiều phong tục cổ xưa của người Việt, và họ nói tiếng Việt cổ.
Đó là những nhóm người Việt nhỏ sống giữa “đại dương” người Tàu, chịu đựng và chống chọi lại sức đồng hóa mãnh liệt của họ từ hàng ngàn năm qua. Các sự kiện đó nói lên điều gì về người Việt?
Tôi có biết một số gia đình người Việt Nam là thế hệ thứ ba của những người Tàu một trăm phần trăm; và chỉ mới thế hệ thứ ba thôi, tuy ngoài việc còn nhớ ông cố mình là người Tàu, họ không hề có thêm một khái niệm nào nữa về tổ tiên bên Tàu của họ, chưa nói tâm tình, suy nghĩ, văn hóa của họ là Việt Nam một trăm phần trăm. Thậm chí họ cũng căm giận người Tàu xâm lăng, phi nhân, độc địa, vân vân, như tâm tình của bất cứ một người Việt nào.
Có thể có những gia đình khác phải đến thế hệ thứ tư hoặc thứ năm mới xảy ra hiện tượng đó. Mà như thế là sau “n” thế hệ, người Tàu đã bị Việt hóa mất tăm, trong khi sau hàng ngàn năm người Việt thiểu số sống trong lòng nước Tàu vẫn còn là người Việt. Nhận xét của Tiến sĩ giáo sư sử học Keith Weller Taylor trong sách “The Birth of Vietnam” là đúng chớ?
“Việt Nam tiếp nhận văn minh Trung quốc mà không làm mất bản tính của mình. […] Sau một hay nhiều thế hệ cư trú ở Việt Nam, các di dân Trung quốc, bất kể ngoài mặt họ tỏ ra trung thành với các lý tưởng thiên triều Trung quốc, họ không thể nào không chịu ảnh hưởng từ các giá trị và kiểu thức của xã hội Việt Nam.”(Việt Nam received Chinese civilization without losing its own personality. […] After a generation or more of residence in Việt Nam, Chinese immigrants no matter how outwardly loyal they may have remained to the imperial ideals of China. Could not helped being influenced by the values and patterns of Vietnamese society. - The Birth of Vietnam, 130.)
“Dù chịu sự kiểm tra và đánh thuế từ các quan lại Tàu, người Việt Nam vẫn giữ nguyên bản chất của mình. Họ không bao giờ để mất ngôn ngữ mẹ đẻ với những cảm xúc và tư tưởng riêng biệt của dân tộc hàm chứa trong ngôn ngữ ấy. Họ không bao giờ mất niềm tin vào quá khứ và di sản của dân tộc trong quá khứ.” (Although registered and taxed by Chinese officials, the Vietnamese remained true to themselves. They never lost their language, with the distinctive emotions and thoughts it evokes. They never broke faith with their past and its heritage. - The Birth of Vietnam, page 181)
“Di dân người Hán bị Việt Nam hóa dễ hơn là người Việt bị Hán hóa.” (Han immigrants were more effectively “Vietnamized” than the Vietnamese were sinicized” - The Birth of Vietnam, page 53)
Tạm bấy nhiêu đó. Và tôi sẽ không có thì giờ thảo luận thêm về chuyện này. Xin hẹn vào lúc khác.

Thiếu Khanh

[1] Về chuyện “Hùng Vương là Nam hay Nữ,” xin đọc Thiếu Khanh, The Birth of Vietnam – Dịch và Ngẫm Nghĩ:
~~oOo~~
Nguồn:
__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay

No comments:

Post a Comment

Thanks

Featured post

Lisa Pham Vấn Đáp official 8/6/2023

Popular Posts

Popular Posts