Bạn là người Mỹ sinh trưởng
tại Mỹ, hay hội nhập vào xã hội Mỹ từ một quốc gia khác....?
Bạn muốn biết "siêu quyền lực' vận hành
nước Mỹ ra sao ? Hãy đọc bài viết nầy !...
Khi nói đến “chế độ dân chủ,” cụm từ nầy có thể
có vẻ mơ hồ vì không hiểu nó nói đến hệ thống nào trong những quốc gia không
cộng sản: hệ thống chính trị của Úc không giống hệ thống chính trị ở Nhật, Tây
Âu, hay Hoa Kỳ… mặc dù tất cả những hệ thống nầy mặc nhiên được xem là những hệ
thống chính trị tự do dân chủ, đa đảng, và phân quyền phân lập. Bài viết nầy
chỉ giới hạn vào hệ thống chính trị Hoa Kỳ.
Nói chung, Hoa Kỳ không phải là một chế độ dân
chủ đích thực mà chỉ là một Chế Độ Độc Tài Mềm Do Thái Trị , khác với những chế
độ độc tài theo nghĩa qui ước ở các nước cộng sản. Thay vì chịu sự cai trị của
một đảng cộng sản, Hoa Kỳ hiện nay đang chịu sự cai trị của hệ thống siêu quyền
lực Do Thái.
Một số học giả đương thời nhận định rằng hiện tình chính trị ở Hoa Kỳ mang tính
chất tập đoàn tài phiệt trong bản chất. Bernie Sanders cho rằng một “tầng
lớp thượng lưu của những gia đình cực kỳ giàu sang có xu thế địa ngục nhằm tiêu
diệt viễn ảnh dân chủ của một giai cấp trung lưu mạnh đã từng làm thế giới phải
ganh tỵ Hoa Kỳ. Thay vào đó, họ đã cương quyết tạo ra một tập đoàn trong đó một
số ít gia đình kiểm soát đời sống kinh tế và chính trị của quốc gia.”
Sau Đệ Nhị Thế Chiến các chế độ quân chủ đúng nghĩa hầu như không còn tồn tại
ngoại trừ một vài quốc gia ở Trung Đông, Phi Châu… Thay vào đó là những chế độ
quân phiệt (military oligarchy), trong đó một tướng lãnh hay một tập đoàn gồm
một số tướng lãnh nắm quyền cai trị quốc gia, có hoặc không có hiến pháp. Một
hình thức hệ thống chính trị khác nữa là các chế độ Cộng Sản độc đảng trong đó
quyền hành nằm trong tay một Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng, có hoặc không có
hiến pháp. Trái ngược với những thể chế vừa nói là các nền dân chủ đại để với
hệ thống chính trị đa đảng, có hiến pháp nhất định, và cai trị bằng luật pháp
hiến định, có sự phân quyền giữa ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp, phần
lớn được định đoạt qua phổ thông đầu phiếu, tất cả dựa trên tiền đề căn bản là
tự do của giới bị trị: tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do
đi lại v.v
Một cách chính thức, hệ thống chính trị của Hoa
Kỳ mang đầy đủ những thuộc tính và cơ chế nói trên. Thông thường người Mỹ và
thế giới bên ngoài vẫn xem hệ thống chính trị đó như là một hệ thống lưỡng đảng
– Đảng Cộng Hòa và Đảng Dân Chủ – tranh đấu nhau để tranh thủ cử tri và quyền
chính. Cũng như các nền dân chủ Âu Châu, chúng chủ yếu khác nhau nhờ vào những
tiền đề đối nghịch sâu sắc về nguyên tắc và thế giới quan, như khác nhau giữa
Cánh Tả và Cánh Hữu. Tuy nhiên, theo nhận định của một số học giả, đó chỉ là
phiên bản chính thức; và đó là một phiên bản mang tính dối gạt, phờ phĩnh. Hoa
Kỳ thực chất là một hệ thống chính trị độc đảng với hai cánh (wings) hay hệ phái
(factions) của cùng một đảng tiềm ẩn (hidden) duy nhất – tức hệ thống siêu
quyền lực Do Thái. Đảng tiềm ẩn nầy hỗ trợ cả hai hệ phái, cung ứng những cán
bộ và tiền của cho các cuộc vận động của cả hai cánh và dứt khoát hoàn thành
những mục tiêu của chính nó thông qua thực lực của cả hai cánh nầy. Đảng chính
trị đích thực của Hoa Kỳ là một đám tài phiệt gồm một số ngân hàng và tập đoàn
– đặc biệt là thành phần thiểu số 1% hay thậm chí ít hơn, gồm khoảng 400 nhân
vật nắm quyền kiểm soát số tài sản lớn hơn cả tài sản của 155 triệu người Mỹ
gộp lại. Thành phần thiểu số nầy nắm trong tay phần lớn những nguồn tài chánh
và những tài nguyên khác, và có trong tay cả ảnh hưởng lẫn quyền kiểm soát đối
với hai cánh vốn chỉ tranh biện nhau qua những vấn đề nhỏ nhặt, hình thức và cá
nhân. Chúng không bao giờ cho thấy sự khác biệt hay tra hỏi về những vấn đề
thực sự quan trọng như quyền hạn của tập đoàn tài phiệt – hệ thống siêu quyền
lực Do Thái – (thường được mệnh danh là financial oligarchy hay corporatocracy)
trong việc cai trị và khai thác những quyền lợi quốc gia, đừng nói đến chuyện
đề xướng một giải pháp thay thế cho nó. Đó là một loại siêu quyền lực khiến
người ta liên tưởng đến một chế độ toàn trị giả định mà Alexis de Tocqueville
đã mô tả ở thế kỷ 19 trong tác phẩm “De l’esprit des lois”, “Một uy quyền
như thế không tiêu diệt hiện hữu, nhưng ngăn cản hiện hữu; nó không độc tài,
nhưng nó giam hảm, làm suy nhược, dập tắt, và vô hiệu hóa một dân tộc, cho đến
khi mọi quốc gia bị giản lược thành không gì hơn là một đàn thú nhút nhát và
cần cù do chính phủ đứng chăn. Sự hiện hữu thê thảm nầy được người dân chấp
nhận, vì họ đi qua những tiến trình bầu bán những người bảo vệ của họ, tự đánh
lừa mình rằng họ và những đồng bào của họ vẫn còn tự do vì họ tham gia vào tiến
trình tự cai trị. Tuy nhiên, khi nhà nước vú em bành trướng, lá phiếu trở nên
kém phần hiệu lực và cá nhân càng lúc càng mất quyền bầu cử. “
Carrol Quigley, một sử gia lỗi lạc thẳng thắn
nhận định, “Quả là một ý tưởng điên rồ nếu cho rằng hai đảng đại diện cho
những tư tưởng và chính sách đối nghịch – một của Cánh Hữu và một của Cánh Tả.
Ý tưởng đó chỉ có thể được chấp nhận đối với những tư tưởng gia hàn lâm và giáo
điều mà thôi. Thay vì thế, hai đảng hầu như là một, cho nên người Mỹ có thể
dùng lá phiếu để ”vứt bỏ bọn bất lương” trong một kỳ bầu cử nhưng vẫn không đưa
đến những chuyển quyền sâu sắc hay triệt để về chính sách.” Tocqueville nói
rõ thêm, “Những người đương thời của chúng ta thường bị kích động bởi hai
tham vọng mâu thuẫn nhau: họ vừa muốn bị dẩn dắt lại vừa muốn tự do. Vì không
thể tiêu diệt một trong hai xu hướng trái ngược đó nên họ cố thỏa mãn cả hai
cùng một lúc. Họ thiết kế một hình thức chính phủ độc nhất, mô phạm, và toàn
quyền, nhưng lại được dân bầu. Họ phối hợp nguyên tắc trung ương tập quyền và
nguyên tắc nhân dân làm chủ; điều nầy đem lại cho họ một thời gian trì hoãn; họ
tự an ủi đang được dạy bảo theo suy nghĩ là họ đã lựa chọn những người bảo vệ
của họ. Mỗi người tự đặt mình vào những sợi dây xích cổ, vì thấy rằng đó không
phải là một người hay một gia cấp mà là toàn thể dân chúng đang nắm đầu dây
xích. Trong hệ thống nầy, người dân chỉ vùng vẫy thoát ra tình trạng lệ thuộc
của họ một thời gian đủ dài để lựa chọn người chủ của họ và sau đó lại trở về
tình trạng cũ một lần nữa. Ngày nay, rất nhiều người hoàn toàn bằng lòng với
loại thỏa thiệp giữa chế độ độc tài và nhân dân làm chủ; và họ nghĩ rằng tự do
cá nhân của họ đã được bảo vệ đầy đủ khi họ phó thác nó cho quyền hành quốc gia
nói chung. Cuối cùng, những gì còn lại chỉ là một nền dân chủ trống rỗng bị chế
độ chuyên chế đục khoét mà ít ai phản kháng.“
Tập đoàn tài phiệt Mỹ được liên kết chặt chẽ
với Chính Phủ mà nó chỉ định và kiểm soát – thực thi quyền năng và tiếng nói mà
họ muốn cùng với những tư tưởng thông qua những đại bài như
1. The Council on Foreign Relation (4500 thành viên),
2. The Trilateral Commission ( 87 Americans + 337 từ các quốc gia khác),
3. The Bilderberg Club (120-140 “khách”) và
4. Nhiều cơ quan được miễn thuế khác như The Rockefeller Foundation, trong đó
những đại biểu và quản gia then chốt cùng với những quyền lợi của tập đoàn tiêu
biểu cho những kế hoạch trước mắt và toàn cầu; và nghị trình được bàn thảo, cải
thiện và sau đó được thi hành bởi những đám lưu manh chính trị nô bộc.
Giới hạn của bài nầy không cho phép đi sâu vào ba tổ chức vừa để cập ở trên;
nhưng chúng ta chỉ cần ghi nhận rằng sự nghiệp chính trị của nhiều người đã
vươn lên như phép lạ sau khi tham dự buổi hội nghị Bilderberg đầu tiên của họ:
Margaret Thatcher, Bill Clinton, and Tony Blair. Obama đã bổ nhiệm 11 thành
viên của Ủy Ban Trilateral Commission – Do Thái – (nghĩa là hơn 10%) vào những
chức vụ hàng đầu và then chốt trong chính quyền của ông trong mười ngày đầu của
nhiệm kỳ của ông. Năm 1976, người sáng lập của Trilateral Commission và David
Rockefeller (Do Thái), kẻ dựng ngôi vua của Mỹ, đã đưa một gã vô danh mang tên
Jimmy Carter vào Tòa Bạch Ốc. Giữa 1945 và 1972, khoảng 45% những viên chức
ngoại giao hàng đầu phục vụ trong chính phủ Mỹ cũng là những thành viên của Hội
Đồng Tài Phiệt The Council on Foreign Relation (Do Thái). Khoảng 42% những chức
vụ ngoại giao hàng đầu trong chính quyền Truman do các thành viên của Hội Đồng
Tài Phiệt Do Thái nắm giữ; con số đó là 40% trong chính quyền của Eisenhower,
51% trong chính quyền của Kennedy, và 57% trong chính quyển của Johnson. Hội
Đồng Tài Phiệt Do Thái đã và tiếp tục có những ảnh hưởng lớn lao trong thế giới
truyền thông, nhờ đó nó có thể quảng bá ý thức hệ của nó, thăng tiến những nghị
trình của nó, và che đậy ảnh hưởng của nó… Cơ Quan Tình Báo Trung Ương CIA cũng
không phải là kẻ xa lạ trong hệ thống nầy, vì thường xuyên trong những thập
niên đầu khi mới hình thành, những giám đốc của nó đều đến từ Hội Đồng, như
Allen Dulles, John A. McCone, Richard Helms, William Colby, và George H.W. Bush.”
Những tổ chức Do Thái hàng đầu ở Mỹ
Muốn nhận thức ảnh hưởng phi thường của chủ
nghĩa Do Thái trên chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ thì phải xem xét sự hiện
diện của những then máy chính yếu trong những vị trí chiến lược trong chính phủ
và những hoạt động của các tổ chức Do Thái liên kết với những tổ chức Do Thái
chính dòng và những thần quyền tôn giáo. Có ít nhất 52 tổ chức Do Thái lớn ở Mỹ
đang tích cực hoạt động để lobby quốc hội, thăng tiến chính sách ngoại giao,
nghị trình kinh tế và kỹ thuật của Israel ở Mỹ. Thành phần hội viên nồng cốt
gồm từ hàng trăm ngàn chiến binh trong các cơ quan Do Thái Bắc Mỹ (JFNA) đến
một trăm ngàn mạnh thường quân Do Thái giàu có, những nhà hoạt động và những
tay môi giới quyền thế trong Ủy Ban American Israel Public Affairs Committee
(AIPAC). Ngoài ra, hàng chục hệ thống tuyên truyền, mệnh danh là những think
tanks (nhóm thảo thuyết), đã dược thành lập nhờ vào số tiền đóng góp từ những
tay tỉ phú Do Thái, trong đó có Viện Brookings Institute (Haim Saban) và Viện
Hudson Institute. Hàng chục những ủy ban đấu tranh chính trị (PAC – Political
Action Committee) được Do Thái tài trợ đã can thiệp vào tất cả những cuộc bầu
cử liên bang và địa phương, thao túng các việc bổ nhiệm và những kết quả bầu
cử. Những nhà xuất bản, kể cả những cơ quan xuất bản đại học đã bị các tay
cuồng tín Do Thái trắng trợn chiếm lĩnh; những ví dụ rõ nét nhất là Đại Học
Yale, chuyên phổ biến những luận điệu méo mó nhại lại những phiên bản khôi hài
về lịch sử Do Thái.
Do Thái kiểm soát hệ thống chính trị và kinh tế
của HK
– Tài chánh: Trong khi toàn bộ công cuộc điều
hành chính phủ Liên Bang HK lệ thuộc và Quỹ Dự Trữ Liên Bang (FED), quỹ nầy lại
nằm trong tay chín ngân hàng tư nhân Do Thái, trong đó có Rothschild, Goldman
Sachs, và Warburgs của Hamburg.
– Truyền thông: Do Thái kiểm soát truyền thông: CBS của Murray Rothstein, NBC
của Brian Roberts, ABC của Sydney Bass với CEO Roberts Iger, CNN của Aviv Nevo.
Ngày nay bảy tên Do Thái điều hành phần lớn những hệ thống then chốt của Hoa Kỳ
như truyền hình, in ấn và phát hành sách, kỹ nghệ điện ảnh Hollywood, kỹ nghệ
thu băng…Đa số những kỹ nghệ nầy được sát nhập thành những đại tập đoàn truyền
thông khổng lồ dưới quyền điều hành của
– Gerald Levin, CEO và là Giám Đốc của AOL Time Warner
– Michael Eisner, Chủ Tịch và là CEO của Walt Disney Company
– Edgar Bronfman, Sr., Chủ Tịch của Seagram Company Ltd
– Edgar Bronfman, Jr, Giám đốc và là CEO của Seagram Company Ltd, Giám đốc của
Universal Studios
– Sumner Redstone, Chuer Tịch và là CEO của Viacom, Inc.
– Dennis Dammerman, Phó Giám Đốc của General Electric
– Peter Chernin, Giám Đốc của Co-COO – News Corporation Limited
Hầu hết những tờ báo độc lập hàng đầu đều do các tập đoàn tài phiệt Do Thái làm
chủ, như trùm Samuel I, làm chủ hàng chục tờ báo từ Staten Island đến Oregon,
cộng thêm tờ Sunday supplement Parade; tập đoàn tạp chí Conde Nast, kể cả
Vogue, The New Yorker, Vanity Fair, Allure, GQ, và Self; các công ty phát hành
Random House, Knopf, Crown, and Ballantine; cùng với những đại lý truyền hình
cáp với hơn một triệu khách thuê bao.
– Quốc Hội: Do Thái kiểm soát Quốc Hội thông qua những hệ thống lobbies qui mô
đầy thế lực như AIPAC, ADL, National Jewish Democratic Council, Republican
Jewish Coalition.
– Tòa Bạch Ốc: Do Thái kiểm soát TBO với Jacob Lew (Bộ Trưởng Tài Chánh), Penny
Pritzker (Bộ Trưởng Thương Mại), Kenneth Feinberg (Giám Đốc Quỹ Bồi thường),
Valerie Jarrett (Cố Vấn tối cao), David Axelrod (Cố vấn đặc biệt).
– Chính sách: Carl Levin, chủ tịch Ủy Ban Quân Vụ Thượng Viện, và Diane
Feinstein, Chủ tịch Ủy Ban tình Báo Thượng Viện. Những chức vụ quan trọng nhất
trong Bộ Ngoại Giao đều nằm trong tay Do Thái. Hai tổ chức “think tanks” Do
Thái đầy tai tiếng American Enterprise Institute và the Foreign Policy
Initiative quyết định những nghị trình chiến tranh cho Quốc Hội Mỹ
– Tư pháp: Ba thẩm phán Do Thái trong Tôi Cao Pháp Viện: Elena Kagan, Stephen
Breyer, and Ruth Bader Ginsburg.
– An Ninh Nội Chính (Homeland Security): Trong tay ba tổ chức Do Thái The
Chertoff Group, Anti-Defamation League, Israeli Intelligence.
– Quân Đội: Quân lực HK lệ thuộc vào Quỹ dự Trữ Lien Bang (FED) để vận hành
trong khi quỹ nầy lại nằm trong tay Do Thái. Quân lực HK lệ thuộc vào các công
ty sản xuất vũ khí trong khi những công ty nầy lệ thuộc các ngân hàng đầu tư Do
Thái (Jewish Investment Banks).
– Các tập đoàn: Những ngân hàng đầu tư Do Thái như Goldman Sachs và Citigroup
bảo kê những chứng khoán của các tập đoàn HK và ra lệnh cho xuất nguồn việc làm
ở HK sang Trung Quốc và Ấn Độ để tìm lao động rẻ và lợi nhuận cao.
– Giáo dục: Do Thái điều hành Liên đoàn Giáo viên HK (American Federation of
Teachers) và liên đoàn nầy đã thâm nhập hệ thống giáo dục công lập, tẩy não học
sinh với những sách vở đồng tình luyến ái và lai chủng. Do Thái tài trợ những
khoản tiền kết xù cho Liên đoàn Ivy League Schools và giao phó những chức vụ
cao cho các nhân viên Do Thái như David Skorton, Hiệu trưởng Đại Học Cornell
and Allan Garber, Hiệu trưởng Đại Học Harvard. Hiệu trưởng của sáu trong số tám
đại học của liên đoàn nầy là Do Thái, trong đó có Yale, Princeton và Harvard.
Sanford Weil, tên Do Thái chúa trùm của Wall Street, đồng thời là giám đốc của
Citi group, là một mạnh thường quân số một của Đại Học Cornell và đồng thời là
tay tài trợ cho 500 học viện thông qua Cơ Quan National Academy Foundation của
y.
– Văn hóa: Một trong những chìa khóa để thao túng và lũng đoạn văn hóa HK là
những kỹ nghệ giải trí, điện ảnh nói chung và Hollywood nói riêng đang nằm
trong tay của Do Thái. Mặc dù phần lớn những phim ảnh không bậy bạ, bạo lực rẻ
tiền, nhưng kỹ nghệ nầy gián tiếp khuyên khích một khuynh hướng như thế. Những
phim tuyên truyền từ Hollywood tràn ngập các màn ảnh truyền hình. Ngoài ra, kỹ
nghệ tin tức và truyền thông là vương quốc của Do Thái. Đâu đâu người ta cũng
thấy xuất hiện những chủ đề Do Thái. Từ New York times đến các tờ báo địa phương,
từ Đài Phát Thanh Quốc Gia (NPR) đến các chương trình talk shows, khán thính
giả bị nhồi nhét bởi một nhóm người đặc thù trong xã hội Hoa Kỳ.
Khi một quốc gia thuộc về nhiều sắc dân thì nó
không còn là một quốc gia theo nghĩa qui ước mà chỉ là một trò chơi giật cờ:
sắc dân nào giàu tiền nhất, mánh khóe nhất, sở hữu nhiều định chế tài chánh,
truyền thông, khoa học, và đại học lớn nhất sẽ nắm cờ trong tay và làm chủ quốc
gia đó. Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ không là ngoại lệ. Lịch sử đã chứng minh Do Thái
là sắc dân đang cầm cờ và cai trị các sắc dân khác, kể cả sắc dân mệnh danh là
Anglo-Saxon.
Chúng ta thử nghe lại phát biểu của Tzipora
Menache, nữ phát ngôn nhân Do Thái: “Quý vị biết rất rõ, và những người Mỹ
ngu xuẩn cũng biết rất rõ, rằng chúng ta kiểm soát chính phủ của chúng, bất
luận ai ngồi trong Tòa Bạch Ốc. Như quý vị thấy, tôi biết và quý vị đều biết
rằng không một tổng thống Mỹ nào có thể đủ tư cách thách thức chúng ta cho dù
chúng ta có làm chuyện khó tin. Chúng nó – bọn Mỹ – có thể làm gì được chúng
ta? Chúng ta kiểm soát quốc hội, chúng ta kiểm soát truyền thông, chúng ta kiểm
soát kỹ nghệ giải trí, và chúng ta kiểm soát mọi thứ ở Mỹ. Ở Mỹ, bạn có thể chỉ
trích Thượng Đế, nhưng bạn không thể chỉ trích Israel…”
Robert Gates trong cuốn The Conspiracy That
Will Not Die thẳng thắn nhận định:
“Một âm mưu của những nhóm tài phiệt đang nhanh chóng đưa Hoa Kỳ đến chủ
nghĩa toàn trị và chủ nghĩa Cộng Sản. Đế Quốc Tài Phiệt Rothschild của Do Thái
đang lèo lái quốc gia nầy vào một chính phủ toàn cầu. Mục tiêu chính của những
tổ chức Do Thai là tiêu diệt Hiến Pháp do những người lập quốc Hoa Kỳ viết ra.
Âm mưu nầy đang xử dụng cả Đảng Cộng Hòa lẫn Đảng Dân Chủ như những phương tiện
để thăng tiến nghị trình bá chủ hoàn cầu của chúng.
Tóm lại, Hoa Kỳ không phải là một chế độ dân
chủ đích thực mà chỉ là một Chế Độ Độc Tài Mềm Do Thái Trị. Đến đây có lẽ độc
giả có thể hình dung những dị biệt và tương đồng giữa hệ thống chính trị Hoa Kỳ
và hệ thống chính trị cộng sản về cả ba phương diện bản chất, phương pháp, và mục
đích.
Đỉnh Sóng (WorldPress)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks