của Nguyễn Trãi,
người dịch: Ngô Tất Tố
--------OOO---------
thay Trời hành hoá, Hoàng Thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa
cốt ở yên dân
Quân điếu phạt
trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt
ta từ trước
Vốn xưng nền văn
hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi
đã chia
Phong tục Bắc Nam
cũng khác
Từ Triệu, Đinh,
Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường,
Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có
lúc khác nhau
Song hào kiệt
thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham
công nên thất bại,
Triệu Tiết thích
lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt
sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng
giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước
lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh
thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán
nước cầu vinh.
Nướng dân đen
trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống
dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân
đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán
trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa
nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá
sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống
biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi
đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt
chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân,
bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống
côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ
goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng,
đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai
đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những núi
phu phen,
Tan tác cả nghề
canh cửi.
Độc ác thay, trúc
Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước
Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất
dung tha,
Ai bảo thần nhân
chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã
nương mình
Ngẫm thù lớn há
đội trời chung
Căm giặc nước thề
không cùng sống
Đau lòng nhức óc,
chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai,
há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận,
sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến
nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc
trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một
nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa
dấy lên,
Chính lúc quân
thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao
buổi sớm,
Nhân tài như lá
mùa thu,
Việc bôn tẩu
thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm
người bàn bạc,
Tấm lòng cứu
nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt
mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải
dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân
thù ngang dọc,
Phần vì lo vận
nước khó khăn,
Khi Linh Sơn
lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện
quân không một đội.
Trời thử lòng
trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc
phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi
một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng
phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ,
lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai
phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để
thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm
vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc
chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng
mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ
nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương
Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi
dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến
đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu
chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tuỵ Động thây
chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân
giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù
Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ
thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận
đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại
vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà
người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết
lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương
mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một
người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh
một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con
Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát
Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng
chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng
mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều
binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng
chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tám,
trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi,
trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá
tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám,
thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa
lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay
mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn
mặt vây thành
Hẹn đến giữa
tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người
hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ
vuốt nanh
Gươm mài đá, đá
núi cũng mòn
Voi uống nước,
nước sông phải cạn.
Đánh một trận,
sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan
tác chim muông.
Cơn gió to trút
sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt
toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê
gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng
Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng
Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình
Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc
phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay!
Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê
Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở
Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu,
máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá,
thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo
tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các
thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm
tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng
giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương
Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã
Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống
sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân
là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu
kế kì diệu
Cũng là chưa thấy
xưa nay
Xã tắc từ đây
vững bền
Giang sơn từ đây
đổi mới
Càn khôn bĩ rồi
lại thái
Nhật nguyệt hối
rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục
nhã sạch làu
Muôn thuở nền
thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời
đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh
liệt ngàn năm
Bốn phương biển
cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân
khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
( Nguyễn Trãi )
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks