"Năm năm vàng
son 1955-60"
của Việt Nam
Cộng Hòa
Nguyễn Tiến Hưng Cựu Tổng trưởng
VNCH,
gửi cho BBC từ Virginia, Hoa Kỳ
BBC ngày 30.10.2016
Từ cao nguyên Tây Tạng, con sông Cửu
Long cuồn cuộn chảy như thác lũ xuống phía nam qua tỉnh Vân Nam, tới Lào, Thái
Lan, Kampuchia, rồi Việt Nam trước khi ra Biển Đông.
May cho Miền Nam là có hồ lớn Tonle Sap ở
Campuchia hút đi một phần lớn lượng nước từ thượng nguồn cho nên từ đây dòng
sông lại uốn khúc hiền hòa chảy vào Miền Nam.
Tới gần biên giới thì con sông chia ra làm
8 nhánh. Nhưng con số 9 được coi là may mắn cho nên phải tìm ra cho được một
nhánh nữa, tuy là rất nhỏ (dài khoảng 10 dậm) để cộng lại thành ra 9 nhánh, gọi
là Cửu Long Giang.
Dòng sông Chín Con Rồng uốn mình tưới
nước cho vùng đồng bằng Nam Bộ mầu mỡ, phì nhiêu trở thành vựa lúa của cả nước.
Người nông dân nơi đây chỉ cần trồng mỗi năm một vụ là cũng đủ ăn, lại còn dư
thừa để tiếp tế ra Miền Bắc và xuất cảng.
Khởi
đầu gian khó
Nhưng trong mười năm chiến tranh loạn
lạc, trên một phần ba đất trồng trọt đã bị bỏ hoang, nhường chỗ cho những bụi
rậm và cỏ dại lan tràn.
Một phần lớn hệ thống kênh rạch cũng bị khô
cạn hay sình lầy. Hệ thống bơm nước, thoát nước cũng bị hư hại. Bởi vậy, sản
xuất thóc gạo của Miền Nam trong mười năm trước 1955 đã bị giảm đi đáng kể.
Ngoài ra, các phương tiện giao thông như
đường bộ, đường sắt, cầu cống và các cơ sở công kỹ nghệ như đường trắng, rượu
bia, sợi bông cũng đều bị hư hại.
Cho nên vào năm 1955, khi "Một Quốc
Gia Vừa Ra Đời" như báo chí Mỹ tuyên dương thì quốc gia ấy đã phải đối
diện với bao nhiêu khó khăn khôn lường.
Ngân sách của Pháp để lại thì thật eo hẹp,
kỹ sư, chuyên viên trong mọi lãnh vực đều hết sức hiếm hoi vì Pháp đã rút đi
hầu hết, để lại một lỗ hổng lớn cho cả nển kinh tế lẫn hành chánh, giáo dục, y
tế.
May mắn là trong năm năm đầu, từ mùa Thu
1955 tới mùa Thu 1960, Miền Nam có được năm năm vàng son, vừa có hòa bình lại
được đồng minh Hoa kỳ hết lòng yểm trợ vật chất và kỹ thuật cho nên đã thu lượm
được nhiều kết quả có thể nói là vượt bực.
Hồi tưởng lại thời gian ấy, nhiều độc giả
chắc còn nhớ lại cái cảnh thanh bình khi các em học sinh mặc áo chemise trắng,
quần xanh, các nữ sinh với những chiếc áo dài trắng tha thướt ngày ngày cắp
sách đến trường.
Cha mẹ, anh em thì lo công việc làm
ăn. Giầu có thì chưa thấy nhưng hầu hết đã đủ ăn đủ mặc, xã hội trật tự, kỷ
cương. Tuy dù có nhiều bất mãn khó tránh về chính trị, tôn giáo và xã hội,
nhưng tương đối thì ta phải công nhận rằng đây là thời gian hào quang nhất của
Cộng Hòa Việt Nam.
Định
cư gần một triệu người di cư từ Miền Bắc
Công việc đầu tiên và khẩn cấp nhất
là phải định cư tới gần một triệu người, tương đương bằng 7% dân số Miền Bắc di
cư vào Nam.
Đoàn người này hoàn toàn 'tay trắng'
- chúng tôi gọi là đoàn người 'bốn không': không nhà cửa, đất đai, tiền bạc,
ngành nghề chuyên môn ngoài nghề nông.
Làm sao tìm được nơi ăn, chỗ ở, tạo
dựng lại được công ăn việc làm, đào giếng nước, xây nhà thương, bệnh xá, trường
học cho con em để đáp ứng nhu cầu? Ngoài việc hành chính, lại còn tìm đâu ra
bác sĩ, y tá, thầy dạy cho con em?
Sau này khi nói về thành công của Tổng
thống Diệm về việc này, TT Kennedy viết cho ông nhân ngày Quốc Khánh
26/10/1961:
"Thưa
Tổng thống,
Thành
tích mà Ngài đã đạt được để đem lại niềm hy vọng mới, nơi cư trú và sự an ninh
cho gần một triệu người lánh nạn cộng sản từ Miền Bắc đã nổi bật như một trong
những nỗ lực đáng được tán dương nhất, và được điều hành tốt đẹp nhất trong
thời hiện đại."
Tái thiết và phát triển nông nghiệp
Ưu tiên của công việc tái thiết và
phát triển phải là nông nghiệp vì đại đa số nhân dân làm nghề nông. Đồng bằng
Cửu Long là vựa lúa của cả nước, nhưng sản xuất đã giảm đi đáng kể trong mười
năm ly loạn.
Thời tiền chiến sản xuất lên tới 4,2
triệu tấn (1939). Tới 1954 chỉ còn 2,5 triệu tấn. Cũng năm 1939 xuất cảng gạo
là gần 2 triệu tấn, năm 1954 chỉ còn 520.000 tấn.
Tại vùng đồng bằng, trong tổng số là 7
triệu hecta đất trồng trọt có tới 2,5 triệu hecta (trên một phần ba) bị bỏ
hoang. Lúa gạo là mạch máu của người dân cho nên công việc đầu tiên là phải đưa
diện tích này vào canh tác.
Đây là một cố gắng vượt mức vì không những
nó đòi hỏi phải tốn phí nhiều tiền bạc, công sức, để sửa chữa lại hệ thống thủy
lợi, vét nạo kênh rạch, lại còn làm sao xây dựng được quyền sở hữu đất đai và
phương tiện sản xuất cho người nông dân.
Cải
cách điền địa: Khó khăn và giải pháp thành công
Người khôn của khó. Lo lắng chính của người
dân là làm sao có được một mảnh đất để sinh sống. Nếu như mảnh đất ấy lại nằm
gần sông nước thì là vàng.
'Đất Nước tôi': đất và nước. Chỉ có Việt
Nam ta là dùng hai chữ đất và nước để chỉ quê hương, tổ quốc mình vì tấc đất là
tấc vàng.
Các biện pháp cải cách ruộng đất bắt
đầu vào năm 1955 với lệnh giới hạn địa tô (tiền thuê đất) và những biện pháp
giúp cho tá điền (người nông dân thuê đất) có được sự yên tâm về quyền sử dụng
đất.
Cải cách điền địa là công việc rất
khó khăn của các chính phủ Á Châu, nhưng ở Miền Nam là khó khăn nhất.
Làm sao mà lấy ruộng của người này chuyển
cho người khác, nhất là khi đất canh tác lại tập trung vào một số rất nhỏ đại
điền chủ? Họ là những người nắm thực quyền tại địa phương và gián tiếp, tại đô
thị. Ở đồng bằng sông Cửu Long, sự tập trung quyền sở hữu đất vào một số điền
chủ là cao nhất ở vùng Đông Nam Á: chỉ có 2,5% điền chủ mà đã sở hữu tới một
nửa diện tích canh tác, trung bình mỗi điền chủ có hơn 50 mẫu đất.
Trước tình huống ấy, TT Diệm đã phải đối
mặt với một khủng hoảng xã hội rất có thể xẩy ra nếu như phát động mạnh chương
trình cải cách điền địa. Nhưng TT Diệm vẫn đặt vấn đề này là ưu tiên số một của
chính sách kinh tế, bắt đầu ngay từ 1955 bằng việc cải tổ quy chế tá điền.
Để hỗ trợ cho nông dân được yên tâm khi đi
làm thuê, điền chủ phải ký hợp đồng với tá điền về điều kiện thuê đất: tiền
thuê đất, thời hạn thuê, triển hạn khế ước, giảm tô trong trường hợp mất mùa.
Kết quả về nông nghiệp trong 5 năm rất khả
quan: sản xuất cây lương thực tăng 32%, vượt qua tất cả mức sản xuất thời tiền
chiến. Năm 1959, sản xuất gạo lên 5,3 triệu tấn, cao nhất trong lịch sử kinh tế
Miền Nam cho tới thời điểm đó. Về xuất cảng: với tổng số là 340.000 tấn, năm
1960 cũng đánh dấu mức xuất cảng cao nhất.
Phát triển công kỹ nghệ và quy chế 'Quốc tịch Việt'
Dưới thời Pháp thuộc, kỹ nghệ và tài nguyên
hầu như không được phát triển vì người Pháp chia ra hai vùng rõ rệt: Miền Bắc
tập trung vào kỹ nghệ và khai thác hầm mỏ, Miền Nam thì căn bản là tập trung
vào nông nghiệp, chỉ có một số sản phẩm tiêu thụ như nhà máy bia, diêm quẹt,
thuốc lá, độc quyền thuốc phiện.
Bởi vậy từ 1955, Miền Nam bị cắt đứt tiếp
liệu về than và khoáng sản. Chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư lại thật ít ỏi vì Pháp
đã rút đi hầu hết.
Từng bước, chính phủ bắt đầu khai
thác tài nguyên với ba dự án chính: mỏ than Nông Sơn, thủy điện Đa Nhim, và
phốt phát tại Hoàng Sa - Trường Sa. Lúc ấy thì chưa biết là có dự trữ dầu lửa
lớn ở những quần đảo này.
Một chuyện ít người biết là việc đổi quốc tịch.
Nhiều người lên án hành động của TT Diệm là
độc tài khi ông đưa ra quy định vào hè 1955 căn bản là nhắm vào các thương gia
người Tầu (đa số sinh sống ở Chợ Lớn): nếu muốn làm ăn ở Việt Nam thì phải đổi
ra quốc tịch Việt Nam.
Chúng tôi nghiên cứu thì mới hiểu lý
do sâu xa là vì thời gian ấy, cơ sở kỹ nghệ ở Miền Nam căn bản là thuộc quyền
sở hữu của người Pháp, cho nên khi TT Diệm quyết tâm đẩy Pháp ra khỏi Miền Nam
thì ông tiên liệu trước và mở đường để người Tầu nhập quốc tịch Việt Nam với
mục đích là để cho họ (vì có nhiều vốn liếng) sẽ có thể mua lại những cơ sở kỹ
nghệ của người Pháp.
Một kích thích nổi bật khác về kinh
tế là chính sách cởi mở, ưu đãi đối với các nhà đầu tư ngoại quốc: bảo đảm về
chiến tranh, cam kết không tịch thu hay quốc hữu hóa tài sản của người ngoại
quốc, ưu đãi về thuế má và cho phép chuyển tiền lời ra ngoại quốc.
Hạ tầng cơ sở
Tái thiết mạng lưới giao thông đã bị hư hại
trong thời chiến và xây dựng thêm nữa là đòi hỏi tiên quyết cho việc phát triển
kinh tế và xã hội.
Tới năm 1960, hệ thống đường bộ, đường sắt,
đường thủy và các tuyến hàng không đã được cải thiện canh tân và mở rộng đáng
kể. Hệ thống vận chuyển hiện đại bao gồm đường sắt, một mạng lưới các đường
quốc lộ, liên tỉnh lộ, hương lộ, đường thủy và đường hàng không.
Đường bộ: trong khoảng 9.000 dặm đường, có hơn 2.000
dặm là bê tông nhựa; 3.000 dặm đường có cán đá, và khoảng 4.000 dặm là đường
hương lộ.
Đường sắt: năm 1955 giao thông đường sắt cũng được
sửa chữa và canh tân. Tới 1959 toàn hệ thống bao gồm 870 dặm, gồm một tuyến
đường chính chạy từ Sàigòn đến Đông Hà, nối kết toàn bộ các tỉnh dọc miền duyên
hải (nhiều khúc bị cắt đứt trong 12 năm chiến tranh).
Một chi nhánh đường sắt (có móc để leo đồi)
đi từ Phan Rang lên Đà Lạt, và một chặng nối với mỏ than Nông Sơn. Một khúc
ngắn về phía đông bắc, đi từ Sàigòn tới Lộc Ninh.
Hàng không: hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam - Air
Vietnam - được thành lập lúc đầu để bay trong nước. Ngoài phi trường Tân Sơn
Nhất, các phi trường được sửa chữa lại và xây dựng thêm gồm Huế, Đà Nẵng, Nha
trang, Qui Nhơn, Biên Hòa, Đà Lạt, Ban mê Thuột, Pleiku, Hải Ninh, Cần Thơ, Phú
quốc.
Từ nội địa, Air Vietnam bắt đầu bay tới
Phnom Penh, Siem Reap, Bangkok, Vientianne và Savannakhet. Đường quốc tế phần
lớn được đảm nhiệm bởi các hãng Air France, Pan American, World Airways,
British Airways, Royal Dutch, Cathay Pacific và Thai Airways.
Ngân hàng và tiền tệ
Thiết lập được một ngân hàng trung ương và
một hệ thống ngân hàng thương mại để thay thế cho Banque de L'Indochine và các
ngân hàng thương mại Pháp ở Sài Gòn là một thành quả lớn của thời đệ Nhất Cộng
Hòa.
Ngay từ tháng 1/1955, Ngân Hàng Quốc
Gia Việt Nam được thành lập để phát hành đồng tiền Việt Nam và thực hiện các
nghiệp vụ của một ngân hàng trung ương tân tiến.
Giáo dục và đào tạo
Xét đến cùng, con người vẫn là yếu tố
quan trọng nhất trong việc phát triển kinh tế lâu dài. Trong thời kỳ 1955-1960,
Miền Nam đã phát triển giáo dục rất nhanh.
Tiểu
học: 1960, đã có tới 4.266 trường tiểu
học công và 325 trường tiểu học tư thục. Tổng số học trò lên tới gần 1.200.000.
Trung học: các trường trung học công lập tăng từ 29
lên 101 trường. Nguyên trường Gia Long: số học sinh đã tăng từ 1.200 lên tới
5.000.
Đại
học: trước năm 1954, Miền Nam không có
đại học. Muốn học cử nhân phải ra Hà Nội. Năm 1955, chính thức thành lập đại
học Sài Gòn, rồi tới Đại học Huế, Đà Lạt. Tới năm 1962 tổng số sinh viên lên
tới 12.000.
Xem như vậy, thành quả của "Năm
Năm Vàng Son 1955-1960" là thời gian quý hóa nhất của lịch sử Cộng Hòa
Việt Nam.
Ngày Quốc Khánh 26/10/1960 Tổng thống
Eisenhower viết cho TT Diệm:
"Kính thưa Tổng Thống,
Trong
năm năm ngắn ngủi kể từ khi thành lập nước Cộng hòa, nhân dân Miền Nam đã phát
triển đất nước của mình trong hầu hết các lĩnh vực. Tôi đặc biệt ấn tượng bởi
một thí dụ. Tôi được thông báo rằng năm ngoái hơn 1.200.000 trẻ em Việt Nam đã
có thể đi học trường tiểu học, như vậy là nhiều hơn gấp ba lần so với năm năm
trước đó. Điều này chắc chắn là một yếu tố hết sức thuận lợi cho tương lai của
Việt Nam. Đồng thời khả năng của Việt Nam để tự bảo vệ chống lại cộng sản đã
lớn mạnh một cách không thể đo lường được kể từ khi họ tranh đấu hữu hiệu để
trở thành một nước Cộng Hòa độc lập."
Hòa bình là một điều kiện tiên quyết cho
xây dựng và phát triển.
Nhân dân Miền Nam đã có được năm năm
vàng son để làm ăn, sinh sống trong hoàn cảnh tương đối là thanh bình. Tuy còn
nghèo nhưng mỗi ngày lại thêm một bước tiến.
Bao nhiêu độc giả cao niên còn nhớ lại
những kỷ niệm êm đềm về thời gian ấy. Thí dụ bạn có thể đi bất cứ nơi nào một
cách tự do từ Cà Mau ra tới tận Đông Hà. Mờ sáng lên xe buýt ra Vũng Tầu tắm
biển hay buổi chiều đến ga xe lửa gần chợ Bến Thành mua vé đi Đà Lạt.
Chỉ trong chốc lát, con tầu bắt đầu
phun khói, còi tầu rít lên trước khi khởi hành. Khi mặt trời hé rạng thì tầu
chạy ngang bờ biển cát trắng Phan Rang, rẽ trái rồi ỳ ạch leo tuyến đường sắt
có móc để trèo dốc lên Đà Lạt. Cái thú vui khi rời ga Đà Lạt (đẹp nhất Đông Nam
Á) để mau tới "Café Tùng" hay "Phở Bằng" thưởng thức một ly
cà phê sữa nóng thì khó có thể diễn tả được.
Với sự thông minh, cần cù của người dân
Việt thì chỉ cần có hòa bình là tiến bộ trông thấy. Người dân lam lũ vất vả
nhưng luôn vui với cuộc sống. Người nông phu không quản ngại thức khuya, dậy
sớm để cầy sâu cuốc bẫm, chờ đợi cho tới ngày lúa vàng.
Tâm tư ấy luôn được phản ảnh trong thơ văn,
âm nhạc Miền Nam trong thời gian này. Và khi thanh bình, con người lại đối xử
với nhau cho hài hòa thì mọi việc - dù là tát cạn cả Biển Đông - cũng đều có
thể ước mơ.
Tuy các kết quả phát triển kinh tế xã hội
thời đó thật là nhỏ nhoi theo tiêu chuẩn ngày nay, nhưng là rất đáng kể so với
các nước láng giềng lúc ấy như ngay cả Nam Hàn dưới thời Tổng thống Lý Thừa
Vãn.
Miền Nam thực sự đã đặt được những viên
gạch đầu tiên trong các năm 1955-1960 cho mô hình phát triển sau này của Nam
Hàn dưới thời Tổng thống Phác Chính Hy. Xây dựng và phát triển trong hòa bình
đã đưa Miền Nam tới chỗ vươn lên - kinh tế học gọi là điểm cất cánh (take-offĐ
để trở thành một cường quốc tại Đông Nam Á.
Buổi bình minh của Nền Cộng Hòa ("The
First Day") thật là huy hoàng rực rỡ. Nhiều quan sát viên ngoại quốc cho
rằng đây chính là "một cuộc cách mạng đã bị mất đi" (the lost
revolution) của Miền Nam Việt Nam.
Bài viết của Giáo
sư Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, trích dẫn từ cuốn sách 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào'
mới xuất bản tại Hoa Kỳ. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng
trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Hiện ông định cư tại Hoa Kỳ. Ông là
tác giả cuốnKhi Đồng minh Tháo chạy và là đồng tác giả cuốn The Palace Files-
Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks