CUỘC CHIẾN
VÔ HÌNH
TƯỚNG MỸ ROBERTSPALDING VIẾT VỀ TRUNG QUỐC..
CARL TRẦN
"…Trung Quốc là cả một trò lừa đảo kiểu
Ponzi. Câu hỏi duy nhất chúng ta đặt ra với Trung Quốc, câu hỏi quan trọng duy
nhất, là khi nền kinh tế của họ nổ tung... nó sẽ kéo theo mọi người xuống đến mức
tồi tệ nào?…"
Lời người dịch: Robert
Spalding là cựu chuẩn tướng Không Lực Hoa Kỳ. Trong hơn 25 năm phục vụ trong
quân ngũ, ông từng giữ vai trò chiến lược gia cho chủ tịch Hội đồng Tham mưu
trưởng Liên quân và Hội đồng Liên quân tại Ngũ Giác Đài. Có bằng tiến sĩ về
kinh tế và toán học tại Đại học Missouri và nói thông thạo tiếng Quan thoại,
ông từng sang Trung Quốc làm việc với tư cách giới chức quốc phòng cao cấp và
tùy viên quốc phòng.
Spalding tự nhận mình là một người luôn yêu mến đất nước, con người
và văn hóa Trung Hoa. Ông từng có giấc mơ khi về hưu sẽ dọn sang Thượng Hải làm
ăn và sinh sống. Trong công việc quốc phòng của mình, ông đã đọc cuốn sách
Unrestricted Warfare (Chiến Tranh Không Giới Hạn) của hai đại tá Quân Đội Giải
Phóng Nhân Dân Trung Quốc là Kiều Lương và Vương Tương Tuệ. Từ đó, ông thay đổi
cách nhìn về Trung Quốc, đặc biệt là về những chủ trương và chính sách của Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Ông lao vào thu thập và nghiên cứu mọi tài liệu có thể có
được về những bước đi của Bắc Kinh trên nhiều lĩnh vực. Trước khi bị sa thải khỏi
nhóm chuyên gia làm việc cho Hội đồng An ninh Quốc gia, Spalding đã trình lên
chính phủ Obama nhiều đề nghị thay đổi chính sách đối ngoại với Trung Quốc,
nhưng không mấy thành công.
Cuốn sách của cựu Chuẩn Tướng Robert
Spalding, Stealth War: How China Took Over While America’s Elite
Slept (tạm dịch, Cuộc chiến vô hình: Trung Quốc tác oai trong khi giới
ưu tú Mỹ say ngủ), được ông nhắm đến quảng đại quần chúng như một lời báo động đối
với những hiểm họa mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đặt ra cho sự tồn vong của nước
Mỹ và những giá trị dân chủ trên toàn thế giới. Sách được nhà Penguin Random
House xuất bản tháng 9, 2019.
Cuốn sách đề cập đến những chiến lược của Trung Quốc
và những sơ hở hoặc sai lầm của Hoa Kỳ trong nhiều lĩnh vực, từ chính trị và
ngoại giao, kinh tế và quân sự, đến tương lai kỹ thuật số. Bài dịch này bao gồm
một số phần của Chương 3 mang tựa đề “Economy” (“Kinh tế”). [Chú giải của người
dịch nằm trong ngoặc vuông.]
“Trung Quốc là cả một trò lừa đảo kiểu Ponzi”
Một trong những điều khó hiểu về
sự trỗi dậy của Trung Quốc là làm cách nào nước này đạt được sự tăng trưởng gây
choáng vào bậc nhất trong lịch sử thế giới. Chưa từng có một cuộc xoay chuyển
nào tương tự trong lịch sử hiện đại. Làm cách nào họ có thể đưa nhiều người đến
thế thoát khỏi cảnh nghèo nhanh như thế?
Đây là một câu chuyện dài và phức
tạp - và cũng là một trong những tình tiết phụ của cuốn sách này - nhưng xin
tóm lược bằng một câu từ góc nhìn kinh tế: họ đã làm điều đó bằng cách phát
hành và thủ đắc những khoản tín dụng khổng lồ, bằng cách tạo ra hàng tỷ Mỹ kim
đầu tư nước ngoài không thể thu hồi, và bằng cách tạo ra một hệ thống kinh tế
khép kín với tường rào bao bọc không thể thâm nhập đối với mọi cuộc kiểm toán từ
bên ngoài trong khi họ lột da giới đầu tư nước ngoài.
“Trung Quốc là một con hổ giấy,”
Steve Bannon nói khi thảo luận về sự tăng trưởng kinh tế của nước này. Cựu phó
chủ tịch Goldman Sachs sau đó nói với tôi: “Trung Quốc là cả một trò lừa đảo kiểu
Ponzi. Câu hỏi duy nhất chúng ta đặt ra với Trung Quốc, câu hỏi quan trọng duy
nhất: là khi nền kinh tế của họ nổ tung... nó sẽ kéo theo mọi người xuống đến mức
tồi tệ nào?”
Bannon có lý. Hãy tưởng tượng nếu
vua Ponzi, Bernie Madoff, người đã lừa các nhà đầu tư hàng tỷ đô la trong suốt
nhiều năm, có thể nói với những người bị hắn lừa - năm này qua năm khác - rằng:
“Không, bạn không thể rút tiền ra cho đến khi nào tôi cho phép. Và, không, bạn
chỉ có thể xem bản báo cáo tài chính mà tôi muốn bạn xem.” Sau đó hãy tưởng tượng
gã Bernie trơ tráo có thể, cũng năm này qua năm khác, nói với Bộ Tư pháp, Hội đồng
Chứng khoán và Hối đoái SEC, và Tổng cục Thuế vụ IRS rằng: “Không, quý vị không
được xem sổ sách của tôi. Quý vị phải tin vào công việc hạch toán của tôi.”
Nếu tình trạng đó tồn tại ở Hoa Kỳ,
Madoff có thể vẫn đang không ngừng lột da những người bị hắn lừa, tạo ra những
khoản “lợi nhuận” từ không khí bằng cách thu hút tiền mặt của khách hàng mới, cắt
xét một phần cho mình, rồi trả dần dần cho các khách hàng trước đó.
Tình trạng đó mô tả một cách căn
bản các quy luật mà Trung Quốc đã sử dụng để nạp năng lượng cho sự tăng trưởng
bùng nổ của mình, trong khi điều hành một kế hoạch lừa đảo kiểu Ponzi trên quy
mô toàn cầu. Đầu tư nước ngoài đổ vào, nhưng ở lại Trung Quốc. Một số đầu tư được
giữ nguyên bằng đô la để Trung Quốc có thể tiếp tục giao thương với quốc tế,
nhưng lợi nhuận phải đổi thành loại tiền không thể hoán đổi và đặt dưới những
biện pháp kiểm soát vốn nghiêm ngặt.
Các công ty Trung Quốc, đa phần
được Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) bao cấp hoặc được những tay mối lái quyền
lực của ĐCSTQ sử dụng làm con heo đất của mình, không tuân theo cách làm kế
toán thông thường. Do đó, giới phân tích không có cách nào đánh giá chính xác sức
khỏe tài chính của các công ty Trung Quốc, đó là chưa kể có thêm một khoảng đệm
là Ngân hàng Trung Quốc thuộc sở hữu chính phủ bơm tiền vào bất cứ công ty nào
mà họ cho là quan trọng về mặt chiến lược. Và, như chúng tôi sẽ tường thuật
trong phần về công nghệ, vì ĐCSTQ có thể lấy tài sản của một công ty trao cho một
công ty khác trong chớp mắt, ý tưởng về sổ sách được kiểm chứng không gì khác
hơn một cơn hoang tưởng.
Với hiện trạng như thế, việc
phương Tây nháo nhào đầu tư vào thị trường Trung Quốc nói một cách lạc quan nhất
là liều lĩnh và bi quan nhất là điên rồ. Vậy tại sao nó đang xảy ra? Rõ ràng,
Phố Wall say sưa với lợi nhuận thu được từ phí giao dịch nên không còn quan tâm
đến chuyện khác. Và các nhà quản trị quỹ hưu trí quá mê mệt với kiểu đầu tư tư
duy nhóm - ý tưởng cho rằng nếu mọi người đều làm điều đó, thì chúng tôi cũng sẽ
làm theo. Họ không đơn độc. Cái khôn - hay trong trường hợp này, cơn điên - của
đám đông là một lực đẩy rất mạnh.
Để định hình “cái khôn” ấy, Trung
Quốc mở một dạng thức chiến tranh truyền thông: những chiến dịch tuyên truyền
và tạo ảnh hưởng. Trận đánh để ĐCSTQ chứng tỏ đầu tư nước ngoài là an toàn diễn
ra trên nhiều mặt trận. Họ chiêu dụ giới đầu tư và báo chí, chào đón các phái
đoàn thương mại, và tài trợ cho những hội nghị. Họ mua những tờ chèn quảng cáo
mang dáng vẻ chính thức đặt vào những tờ báo uy tín, chẳng hạn như Washington
Post.
China Global Television Network
[Mạng lưới Truyền hình Toàn cầu Trung Quốc] từng gửi lời mời làm việc đến những
nhà báo ở khắp nơi trên thế giới đã từng chỉ trích những việc làm của Trung Quốc,
như phá rừng ở châu Phi, trong một nỗ lực nhằm kiểm soát cách họ đưa tin. Theo
báo The Guardian, một phóng viên đã từ chối một lời mời lẽ ra đã làm tăng gấp
đôi mức lương của anh.
Toàn bộ sự việc là một phần của
chiến tranh không giới hạn. Một cuộc tấn công bằng sự quyến rũ và thông tin sai
lạc đầy tính toán được thiết kế để xây dựng niềm tin và thúc đẩy đầu tư.
Và ta hãy chấm công cho ĐCSTQ và cơ quan tuyên
truyền của họ: họ đang sáng chói trong công việc. Có thể nói họ đang hoàn thành
một vụ lừa đảo lớn nhất thế giới. Vào tháng 11 năm 2018, Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình đọc diễn văn trước Thượng viện Tây Ban Nha, tiếp tục trò diễn kịch:
“Trung Quốc sẽ nỗ lực mở, thêm nữa, những cánh cửa của mình ra thế giới bên
ngoài, và chúng tôi sẽ nỗ lực đơn giản hóa việc tiếp cận thị trường trong các
lĩnh vực đầu tư và bảo vệ tài sản trí tuệ.”
Ông không đưa ra một thời biểu
nào, không có chi tiết nào về tăng cường tiếp cận đầu tư - kể cả liệu điều đó
có liên quan đến việc nới lỏng các luật lệ về thoái vốn hay không - và con số
không về cách thức mà Trung Quốc sẽ thực thi các biện pháp bảo vệ tài sản trí
tuệ. Không gì ngoài: Hãy tin tôi.
Kế hoạch Ponzi của Trung Quốc thành công một phần
nhờ sự đồng lõa và im lặng ở phương Tây của các công ty. Khi các công ty đầu tư
nhiều vào Trung Quốc khám phá ra họ không thể rút được tiền ra khỏi nước này -
và đang có đến hàng ngàn công ty như thế - họ có thể làm gì? Ngay từ khi họ bỏ
tiền vào, họ đã thấy mình đứng giữa vách núi và vực sâu.
Số tiền đó bị mắc kẹt. Đây là một
điệp khúc thường hằng mà các lãnh đạo công ty rỉ tai nhau ở nơi kín cổng cao tường.
Theo những chuyên gia tài chính uy tín, các công ty như Chevron, Exxon, Sony và
BMW có thu nhập hàng tỷ đô la ở Trung Quốc. Nhưng họ không thể hồi hương tiền của
mình. Trung Quốc từ chối cho tiền ra khỏi nước, vì họ cần những đồng đô la đó.
Nhiều nguồn tin từ cộng đồng đầu tư nói với tôi rằng, theo như họ biết, Trung
Quốc đã không cho phép hồi hương số lượng đáng kể từ bất cứ quỹ đầu tư phương
Tây nào kể từ năm 2015.
“Nếu họ muốn phát triển nền kinh
tế, họ phải tăng dự trữ, vì họ phải giao dịch nhiều hơn với phần còn lại của thế
giới dựa trên sự tăng trưởng đó,” Kyle Bass, nhà sáng lập Hayman Capital
Management, nói với tôi vào tháng 1 năm 2019. “Vì thế, Trung Quốc có thể sẽ tiếp
tục sự che đậy này chừng nào họ duy trì được con số dương trong tài khoản vãng
lai, tức là tiền vào ròng nhiều hơn tiền ra. Trong 17 năm qua, Trung Quốc đã tạo
ra số dư tài khoản vãng lai đáng kể. Bây giờ, lần đầu tiên kể từ năm 2001, họ sẽ
ghi lại một tài khoản vãng lai âm cho năm 2018.”
Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc
(NBS) đã công bố các con số của năm 2018 cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP chậm
nhất trong 28 năm, ở mức 6,6%. Do sự thiếu minh bạch của cơ quan này trong nhiều
lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế Trung Quốc, nhiều nhà phân tích tài chính
nghi ngờ rằng các con số này dựa trên những sổ sách đã bị luộc.
Như Bass ghi nhận trong một bài
xã luận đăng vài tuần sau khi số liệu của NBS được công bố, “12 tháng qua đã chứng
kiến những chỉ số kinh tế quan trọng của Trung Quốc như sản xuất công nghiệp,
doanh thu xe hơi, doanh thu bán lẻ và đầu tư đều giảm xuống mức thấp trong nhiều
năm trong khi đợt kích thích trước đó giảm dần tác dụng và gánh nặng nợ của
Trung Quốc tiếp tục tạo ra một vòng xoáy kinh tế đi xuống.”
Dù nhanh hay chậm, số dư tài khoản
âm hoặc giảm dần - kết quả của thương mại và đầu tư chậm lại - gợi ý sẽ có hai
mâu thuẫn căn bản xảy ra trong ngắn hạn: Thứ nhất, Trung Quốc sẽ cố tạo thêm đầu
tư nước ngoài để duy trì tăng trưởng. Thứ hai, Trung Quốc sẽ không nhả ra bất cứ
khoản lợi nhuận nào trên các khoản đầu tư nước ngoài - bất chấp đó chính là mục
đích của việc đầu tư - vì họ cần đến từng xu Mỹ mà họ có thể tích cóp được để
trả cho sự tăng trưởng.
Nếu nó trông giống như một kế hoạch
Ponzi và hoạt động như một kế hoạch Ponzi nhưng phủ nhận nó là một kế hoạch
Ponzi, thì nó là gì?
Trung Quốc..
Và những người đầu tư vào nó?
Họ hoặc là đồng lõa hoặc là nạn
nhân. Dĩ nhiên, những kẻ lừa đảo - những kẻ đồng lõa - dùng thuật ngữ khác cho
các nạn nhân. Họ gọi các nạn nhân là các đích nhắm.
Hay những tên ngốc.
***
THÊM MỘT SỰ KHÁC BIỆT CHÓNG MẶT giữa thị trường
tài chính Trung Quốc và các thị trường phương Tây - một lần nữa nhấn mạnh sự
thiếu vắng thương mại tự do tồn tại ở Bắc Kinh và bản chất Ponzi đầy thủ đoạn của
con quái vật - liên quan đến thói quen áp dụng luật lệ chọn lọc của Trung Quốc.
Ở Hoa Kỳ, nếu IBM phát hành trái phiếu trên thị trường vốn, số tiền đó thuộc về
IBM, và các nhà đầu tư nên tin tưởng khá chắc chắn rằng số tiền huy động sẽ được
dùng để cải tiến công ty. Dù sao, đã có một ban giám đốc và một tổng giám đốc với
những trách nhiệm ủy thác để bảo đảm công ty đạt được những mục tiêu của mình. Ở
Trung Quốc, khoản vốn mới sẽ hướng đến nơi nào mà ĐCSTQ muốn nó đến - lần nữa,
một điều mà chúng tôi sẽ xem xét chi tiết hơn khi đi sâu vào những ám ảnh về
công nghệ của Trung Quốc.
Nuôi béo kế hoạch Ponzi của Trung
Quốc bằng đầu tư của Mỹ cũng tạo ra thứ rủi ro ba cạnh. Ngành công nghiệp tài
chính không chỉ tài trợ cho sự tăng trưởng của đối thủ toàn trị số một của Hoa
Kỳ và có nguy cơ đánh mất những khoản tiền đó bằng cách biến chúng thành vốn
không thể hoán đổi; mà nó còn đang làm cạn kiệt nguồn đô la đầu tư giá trị ở
Hoa Kỳ và các thị trường khác. Nếu quỹ hưu trí của bạn có ngân khoản đô la bị mắc
kẹt ở Trung Quốc mà không thể chạm đến, thì các quỹ đó không thể được tái đầu
tư để tái thiết cơ sở hạ tầng đổ nát của nước Mỹ, tài trợ cho các công ty khởi
nghiệp tiên phong, hoặc hỗ trợ những ngành sản xuất vừa được tái khởi động.. Lợi
nhuận của Phố Wall có thể tăng trưởng - tạm thời - nhưng nước Mỹ gặp trì trệ.
Là nhà sáng lập một quỹ đối trọng
tập trung vào đầu tư toàn cầu dựa trên các sự kiện, Kyle Bass dành nhiều thời
gian để nghiên cứu bảng cân đối kế toán của Trung Quốc. Ông xác nhận sự đánh
giá của Bannon về sự bất ổn của Trung Quốc.
Trong buổi nói chuyện của chúng
tôi hồi đầu tháng 1 năm 2019, Bass giải mã các con số của Trung Quốc và mô tả một
hệ thống kinh tế khép kín tận dụng đòn bẩy vốn quá mức một cách nguy hiểm theo
những cách thức khiến cho Hoa Kỳ trông như là một pháo đài của chính sách tài
khóa chặt chẽ, có trách nhiệm.
Kỳ lạ thay, theo Bass, chiến lược
tín dụng của Trung Quốc đi ngược lại hoàn toàn với cách lập chiến lược dài hạn
điển hình của ĐCSTQ. Nhưng có lẽ điều này có ý nghĩa khi ta xét rằng nước này cần
tiền mặt nhanh chóng để triển khai ráo riết các yếu tố của cuộc chơi dài hạn của
họ.
“Cách mà họ đạt được sự ổn định
tương đối trên sân nhà là, họ đã mở rộng bảng cân đối của ngân hàng trung ương
và in thêm nhiều nhân dân tệ hơn bất cứ quốc gia nào từng in tiền trong lịch sử
loài người,” Bass nói..
Khi Bass so sánh thực trạng tài
khóa đã làm sụp đổ thị trường Hoa Kỳ năm 2008 với tình trạng hiện thời của nền
tài chính Trung Quốc, ông rùng mình.
“Ngay trước cuộc khủng hoảng tài
chính,” ông nói, “Hoa Kỳ có GDP khoảng 17 nghìn tỷ đô la và khoảng 1,3 lần GDP
trong tài sản ngân hàng. Và chúng ta có khoảng một nghìn tỷ vốn cổ phần ngân
hàng. Khi bạn nhìn vào Trung Quốc ngày nay, họ có một hệ thống ngân hàng với số
nhân dân tệ trị giá 50 nghìn tỷ đô la, 2 nghìn tỷ đô la vốn cổ phần ngân hàng,
và nền kinh tế (GDP) là 13 nghìn tỷ đô la.”
Bass đưa ra các con số của mình dựa trên dữ liệu
từ Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, ngân hàng trung ương quốc gia và các cơ quan
khác, và ông cũng bao gồm những tài sản như sản phẩm quản trị tài sản, quyền của
người thừa kế và những khoản vay tín thác. Ông ước tính tổng tín dụng của Trung
Quốc là 48 nghìn tỷ đô la, gần gấp bốn lần tổng sản lượng quốc nội. Để so sánh,
Hoa Kỳ nắm giữ khoảng 24 nghìn tỷ đô la tín dụng vào năm 2019, nhưng nền kinh tế
nước này lớn hơn Trung Quốc 37%.
Nói cách khác, Trung Quốc có số
tiền lưu thông nhiều gấp ba lần Hoa Kỳ, trong khi tạo ra GDP ít hơn 4 nghìn tỷ
đô la. Ngay cả khi có gấp đôi số vốn cổ phần ngân hàng của Hoa Kỳ - nhờ kết quả
thu nhập dương từ năm 2001 đến 2015 – các con số đó vẫn đáng sợ. Lý thuyết kinh
tế và các quy luật cung cầu cho rằng việc in những khối lượng tiền khổng lồ sẽ
tự động dẫn đến lạm phát đáng kể. Nhưng cho đến nay, Trung Quốc vẫn tránh hạ
giá nội tệ bằng cách từ chối tham gia thị trường ngoại hối.
Họ cũng kiểm soát truyền thông, bảo
đảm không có tin tức gì về tình trạng thiếu hụt hoặc lạm phát hoặc bong bóng
nhà ở. Và họ kiểm soát điểm tín nhiệm xã hội - một hệ thống mới được thiết đặt
để theo dõi hành vi của công dân bằng cách sử dụng công nghệ nhận dạng khuôn mặt
và giám sát dữ liệu để theo dõi xem từng cá nhân có tuân theo những luật lệ do
ĐCSTQ đề ra hay không. Hệ thống mới này tồn tại như một cách kiểm soát và tưởng
thưởng dân chúng. Và như thế, hệ thống kinh tế khép kín của đất nước và sự đàn
áp toàn trị cùng nhau hoạt động để ngăn chặn lạm phát và củng cố sự ổn định một
cách giả tạo.
Địa ốc ảo.
Một ví dụ ý nghĩa về sự thao túng
thị trường của Trung Quốc là cách họ đối phó với một thị trường bất động sản mà
nhiều chuyên gia tin là phải đang sụp đổ. Toàn bộ những thành phố ma đã được dựng
lên, chứa đầy những tòa chúng cư cao tầng không có lấy một bóng người. Theo nhiều
ước tính, sự thặng dư xây dựng này đã tạo ra hơn 64 triệu căn hộ trống. Thông
thường, khi có một sự thặng dư bất động sản, giá cả liền sụt giảm. Thế thì
Trung Quốc làm cách nào đảo lộn được quy luật cung cầu? “Chỉ cần ngăn chặn việc
bán nhà,” Bass giải thích. Ông lưu ý rằng một căn hộ được mua với giá 100.000
nhân dân tệ vẫn nằm trên bảng cân đối kế toán ở mức giá đó - ngay cả khi những
lời chào mua duy nhất chỉ đưa ra cái giá bằng một nửa.
Thị trường thế chấp cũng dễ nhào
nặn trong tay ĐCSTQ. “Một trong những lý do lớn khiến bạn không nhìn thấy sự sụp
đổ nhà ở ngay bây giờ là vì họ không thực sự có thuế bất động sản,” Bass nói. Tại
Hoa Kỳ, một nhà đầu tư gánh mười căn hộ bỏ trống sẽ phải trả thuế bất động sản
cũng như phải trả mọi khoản tiền vay mua nhà. Nhưng ở Trung Quốc, các ngân hàng
cho phép người trễ trả tiền vay chỉ cần cộng dồn vào tổng số tiền vay và xem
như đó là tổng số mới. Trong những trường hợp này, nó trở thành một “khoản vay
tiếp,” Bass giải thích. “Vì vậy giả sử nếu bạn nợ 4.000 đô la trên khoản vay
100.000 đô la mà bạn không có tiền trả, ngân hàng sẽ chỉ biến khoản vay của bạn
thành 104.000 đô la, và nói, ‘Trả cho chúng tôi khi nào quý vị có thể.’”
Bass nói cách làm này đã truyền cảm hứng cho một
câu nói trong khắp công ty của ông: “Một khoản vay tiếp chẳng tạo ra mất mát
nào.”
Kẻ cướp, hàng nhái và bệnh mù.
Câu chuyện về triệu phú tự thân
A. J. Khubani là giấc mơ Mỹ bơm thuốc kích thích. Nhưng chương mới nhất trong
câu chuyện của ông là cơn ác mộng điển hình mà nhiều nhà sản xuất Mỹ đã gặp phải
trong suốt 30 năm qua. Thái độ coi thường luật pháp quốc tế trắng trợn của
Trung Quốc hiện đang đe dọa doanh nghiệp mà ông đã xây dựng từ hai bàn tay trắng.
Cha mẹ Khubani di cư đến Hoa Kỳ từ
Ấn Độ vào năm 1959. Đồng hóa là chính sách gia đình. “Gia đình tôi hết sức yêu
chuộng văn hóa Mỹ, chúng tôi không được phép nói tiếng nước ngoài trong nhà,”
ông nói.
A.J. là một đứa trẻ cần cù. Lớn
lên ở Lincoln Park, bang New Jersey, cậu tìm cách kiếm tiền bằng cách xúc tuyết,
cắt cỏ và giao báo. Cậu làm việc trong suốt thời gian theo học tại trường đại học
tiểu bang, như làm pizza và trông quầy rượu. Đến khi tốt nghiệp, cậu có 20.000
đô la tiền tiết kiệm. Cậu dành số tiền tiết kiệm của mình để nhập cảng hàng loạt
đầu máy phát thanh AM/FM, lấy ra một tờ quảng cáo trên một tờ báo lá cải, và số
phận của cậu thay đổi hoàn toàn kể từ đó.
Để tóm tắt câu chuyện, Khubani đã
dồn 20.000 đô la của mình vào một công ty - TeleBrands - chuyên thiết kế, phát
triển, và cấp phép khai thác thương mại cho các sản phẩm tiêu dùng độc đáo thường
được bán dưới thương hiệu “As Seen on TV” [tạm dịch: “Như được thấy trên TV”].
Công ty này đã tạo ra doanh thu hơn 1 tỷ đô la hàng năm trong một số năm.
Khubani có một giác quan thứ sáu
đối với những sản phẩm giải quyết vấn đề - cầu thang mini giúp thú cưng già và
thừa cân đi lại trong nhà, kính lúp Big Vision, ăng ten truyền hình kỹ thuật số
cho người không muốn thuê truyền hình cáp - và những vật gia dụng lý thú như
Star Show, chiếu những ngôi sao bằng tia laser lên ngôi nhà của bạn trong những
ngày lễ. Nhưng ông cũng biết cách tạo ra thị trường.
“Những sản phẩm của chúng tôi trở
thành phổ biến rất nhanh chóng,” Khubani nói, “nhờ hàng triệu đô la chúng tôi bỏ
ra để quảng cáo. Chúng tôi tiếp thị chúng trong nhiều năm, chủ yếu qua truyền
hình. Sau đó chúng tôi bắt đầu bán cho các chuỗi bán lẻ như Walmart, Target,
Walgreens. Tất cả các nhà bán lẻ lớn trên toàn quốc.”
Trong thập niên 1990, Khubani nhận
ra công ty của mình đã trở thành một mục tiêu của bọn làm hàng giả Trung Quốc:
“Đi vào một chợ trời, bạn sẽ tìm thấy hàng giả của các sản phẩm của chúng tôi.
Mọi thứ đều y hệt, bao bì y hệt, thương hiệu y hệt.”
Công ty của ông đã bỏ ra khá nhiều
nỗ lực trong việc săn lùng và đóng cửa các nhà kho chứa đầy hàng giả. “Giống
như một trò chơi đập chuột không bao giờ kết thúc, hễ bạn đập được một con thì
có mười con khác bật lên.”
Tuy nhiên, với sự phát triển của
internet, vấn nạn hàng giả đã tăng lên theo cấp số nhân. “Năm 2015, chúng tôi bắt
đầu nhận thấy hàng giả sản phẩm của chúng tôi xuất hiện trên Amazon dưới nhãn
hiệu của chúng tôi, sản phẩm được cấp bằng sáng chế của chúng tôi, sử dụng ảnh
của chúng tôi, sử dụng video của chúng tôi, sử dụng lời giới thiệu của chúng
tôi, sử dụng mọi thứ.”
Có hàng trăm danh mục cho những
món hàng giả thương hiệu “As Seen on TV,” và thường chúng được bán với giá chỉ
bằng nửa giá của TeleBrands hoặc thấp hơn. Khubani đã nhấp chuột vào các mục có
giá thấp và khám phá ra phần lớn các danh mục này là của những người bán ở
Trung Quốc.. Không còn gì để ngạc nhiên khi ông nhìn thấy doanh số của mình sụt
giảm.
Amazon có hai cách bán sản phẩm
cho người tiêu dùng. Một là thỏa thuận bán lẻ truyền thống mà Amazon gọi là
Vendor Central [tạm dịch nghĩa: “Nhà cung cấp giữ vai trò trung tâm”]. Công ty
mua sản phẩm trực tiếp từ một nhà cung cấp, cũng giống như mua từ bất cứ cửa
hàng nào trên phố.. Kênh bán hàng thứ hai được gọi là Amazon Marketplace [tạm dịch
nghĩa: “Khu rao hàng Amazon”] hoặc, mới đây hơn, là Seller Central [tạm dịch
nghĩa: “Người bán giữ vai trò trung tâm”]. Chủ yếu đây là một chợ trời kỹ thuật
số rộng lớn, nơi bất cứ ai có một trương mục thư điện tử và một trương mục ngân
hàng đều có thể liệt kê và bán hàng hóa của họ. Amazon hoạt động như một trung
gian tương tự như eBay, lấy 15% huê hồng cho mỗi thương vụ.
Theo như các thiết kế trang của
Amazon cho thấy, rõ ràng họ không thực sự quan tâm liệu họ đang bán một sản phẩm
mới qua phương pháp bán hàng truyền thống Nhà Cung cấp hay phương pháp Người
Bán - bởi vì họ có thể trưng bày sản phẩm của Nhà Cung cấp, nhưng đồng thời
cũng giới thiệu các đường dẫn đến những Người Bán trên cùng một trang, bao gồm
việc liệt kê các món hàng ở mức giá thấp nhất.
Nhưng Amazon không theo dõi từng
món trong hàng triệu danh mục trên trang nhà của họ để xem chúng có phải là
hàng giả hay không. Họ đùn đẩy trách nhiệm này cho những người bán. Đây là
chính sách của công ty mà tất cả người bán phải chấp nhận:
Đại diện và Bảo hành. Bạn đại diện
và bảo đảm rằng: (a) Dịch vụ của bạn và tất cả các khía cạnh của việc chào bán,
bán, và công dụng của chúng sẽ tuân thủ tất cả các luật lệ hiện hành, bao gồm mọi
yêu cầu thích hợp về cấp phép, ghi danh, hoặc đệ nạp hồ sơ....
Khi TeleBrands khiếu nại với
Amazon là có hàng ngàn danh mục người bán bất hợp pháp, Khubani cho biết công
ty của ông được thông báo, “Chúng tôi không có cách nào để xác minh rằng đây là
những mặt hàng bất hợp pháp. Ông cần phải làm sạch nơi rao bán của mình. Chúng
tôi không có trách nhiệm kiểm tra xem những người bán có liệt kê hàng giả hay
không. Ông cần phải tự truy lùng những kẻ giả mạo này.”
Bực mình, đội ngũ của Khubani đã
hỏi tên và thông tin liên lạc của những người bán đang liệt kê hàng giả, để họ
có thể truy lùng bọn này. Họ được thông báo, “Điều đó trái với chính sách của
chúng tôi. Chúng tôi không thể chỉ rõ họ là ai.”
Đã đành cuộc trao đổi ấy tạo ra bực
bội, có hai thực tế khác khiến Khubani cảm thấy còn tức giận và bất lực hơn nữa.
Đầu tiên là ngay cả khi ông có thể xác định được những người bán, ông không có
ngả đường pháp lý nào ở Trung Quốc - chính phủ ở đó đã tuyên bố rõ ràng từ ba
thập niên qua rằng họ sẽ không ngăn chặn hàng giả được sản xuất hoặc xuất cảng.
Nhưng thực tế thứ hai liên quan đến Amazon và chính phủ Hoa Kỳ.
Amazon là một công ty vận chuyển
tuyệt vời. Họ phải như vậy: hiệu năng tạo thêm lợi nhuận cho họ. Nếu họ không
thể vận chuyển sản phẩm nhanh chóng với chi phí thấp nhất có thể, lợi nhuận của
họ sẽ giảm. Vì vậy, họ tìm cách tối ưu hóa việc chuyển hàng cho chính họ và các
người bán nhằm cung cấp một trải nghiệm tuyệt vời cho khách hàng. Một cách để
thực hiện điều này là với một dịch vụ mang tên Fulfillment by Amazon [tạm dịch
nghĩa: “Hoàn tất thương vụ bởi Amazon”]. Người bán gửi hàng đến các trung tâm
hoàn tất thương vụ của Amazon và trả tiền cho việc lưu trữ và hoàn tất thương vụ
của từng mặt hàng. Amazon đã mở một số trung tâm hoàn tất thương vụ ở Trung Quốc.
Trong trường hợp của Khubani, sự hiện hữu của những trung tâm này có nghĩa là
Amazon về cơ bản đang tiếp tay cho hàng lậu và hàng giả - dựa trên những sản phẩm
mà ông đã đầu tư hàng trăm triệu đô la để phát triển, xin cấp bằng sáng chế, và
tiếp thị - đi đến tay người tiêu dùng và phá hủy doanh nghiệp của ông.
“Mọi người đều nghĩ Amazon là
công ty tuyệt vời này của Mỹ,” Khubani nói, đồng thời lưu ý rằng Amazon quả thật
đã bắt đầu loại bỏ những người bán giả mạo sau khi Thượng nghị sĩ Cory Booker từ
bang New Jersey thay mặt ông gọi điện thoại vào Amazon. “Nhưng một phần lý do
giúp họ kiếm được tiền là vì họ đang trợ giúp và khuyến khích việc bán các sản
phẩm giả. Và không ai biết điều này.”
Nhưng Amazon không phải là tác nhân duy nhất
giúp bọn kẻ cướp chuyên săn mồi này làm ăn phát đạt. Một đối tác thiện chí
nhưng có lẽ vô tình đã biến việc vận chuyển hàng hóa bất hợp pháp từ Trung Quốc
trở nên vô cùng hiệu quả về chi phí: Cơ quan Bưu chính Hoa Kỳ. Liên minh Bưu
chính Quốc tế (UPU), thành lập năm 1874, ấn định mức phí chuyển phát thư cho
các bưu cục quốc gia tại 192 nước. Theo một điều khoản năm 1969 nhằm giúp các nền
kinh tế đang gặp khó khăn, Cơ quan Bưu chính Hoa Kỳ đã đồng ý với một mức giảm
giá khổng lồ cho những bưu kiện gửi ra từ Trung Quốc có trọng lượng dưới 4,4
cân Anh. Mức giảm giá này lớn đến đâu? Đủ lớn để cơ quan bưu chính nói họ đang
lỗ 170 triệu đô la mỗi năm cho thỏa thuận này.
Một ví dụ: sẽ tốn nhiều tiền hơn
để gửi một bưu kiện nặng ba cân Anh đi một chặng đường dài 2,3 dặm từ số 1600 Đại
lộ Pennsylvania [địa chỉ Tòa Bạch Ốc] ở Washington, DC, đến Điện Capitol [tức
tòa nhà Quốc Hội] so với gửi cùng một bưu kiện đi 6.925 dặm từ Bắc Kinh tới Tòa
Bạch Ốc.
Khubani kinh hãi. Chính phủ Hoa Kỳ
đang bao cấp cho những chuyến hàng lậu vốn làm xói mòn lợi nhuận của công ty
ông và đe dọa sự ổn định của nó. Và ông bó tay trước sự thể này.
“Mỗi một nhà sản xuất hàng tiêu
dùng khác mà tôi tiếp xúc đều đang đối diện với vấn nạn khổng lồ này,” ông nói.
Và đây không chỉ là một vấn đề của
Amazon. Yair Reiner là nhà sáng chế có trụ sở tại Brooklyn của rào ngăn dầu
văng Frywall - một vật hình trụ bằng silicone màu sắc rực rỡ được thiết kế để đặt
bên trong một cái chảo nhằm ngăn chặn dầu mỡ sôi sùng sục khỏi văng ra khắp
nơi. Doanh thu của sản phẩm này bùng nổ sau khi Reiner xuất hiện trên chương
trình truyền hình Today và làm kinh ngạc các ngôi sao của Shark Tank, nơi chiếc
Frywall mẫu của ông đã dấy lên một cuộc chiến đấu thầu giữa các doanh nhân của
chương trình. Tuy nhiên, thành công này kéo theo lũ hàng giả đến từ Trung Quốc.
Buôn lậu trên Amazon chỉ là vấn đề nhẹ nhất đối
với Reiner. Trên thực tế, ông đã xác định Amazon là kênh mang về lợi nhuận cao
nhất cho công ty ông, vượt xa mọi phương tiện phân phối khác. Nhưng hàng nhái
Frywall sản xuất tại Trung Quốc - được đặt tên là Frywalls [chỉ thêm chữ “s”] –
đã xuất hiện đầy rẫy trên internet, chẳng hạn như trong kết quả tìm kiếm của
Google, trên eBay, trên các trang mạng cá nhân được tạo ra chỉ để bán những món
hàng giả này.
Reiner, vốn là cựu giám đốc quản
trị về nghiên cứu cổ phần tại ngân hàng đầu tư Oppenheimer & Co., nhận định,
“Có đủ mọi loại cơ sở hạ tầng, một số ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác và một
số có trụ sở ở Trung Quốc, tạo điều kiện cho việc sản xuất, tiếp thị, và phân
phối hàng nhái.”
Nhưng cơn ác mộng của Reiner bắt
đầu ở Trung Quốc, nơi các nhà sản xuất rao bán Frywalls giả trên Alibaba, trang
thương mại điện tử khổng lồ cho phép đặt hàng số lượng lớn - hãy nghĩ về nó như
eBay dành cho các tiệm buôn - và trên AliExpress, hoạt động như Marketplace của
Amazon và nhận đơn đặt hàng đơn lẻ từ nhiều người bán khác nhau. Những món hàng
này thường được rao bán với giá thấp hơn 25% so với giá mà Reiner đưa ra cho một
chiếc Frywall thật.
AliExpress là một điểm đến mua sắm
trực tuyến hết sức ăn khách ở Trung Quốc và nhiều thị trường khác. Nhưng nó vẫn
còn tương đối vô danh ở Hoa Kỳ. Vì vậy, việc bán các sản phẩm bất hợp pháp này
cho người tiêu dùng trong nước Mỹ vẫn diễn ra chủ yếu qua Amazon, eBay và các
trang mạng cá nhân.
“Nói một cách cốt yếu, các đại lý
này đang quảng cáo một sản phẩm mà họ chưa bao giờ sở hữu và thực sự tồn kho,”
Reiner cho biết. “Khi họ nhận được một đơn đặt hàng từ Amazon, eBay hoặc một cửa
hàng trên mạng do họ tạo ra vốn cũng cung cấp hàng trăm sản phẩm ‘hơi nước’
khác, họ chuyển nó đến các nhà cung cấp ở AliExpress và yêu cầu gửi hàng trực
tiếp từ Trung Quốc đến người tiêu dùng ở Hoa Kỳ. Và họ có thể thực hiện việc này
một cách liền mạch, bởi vì có những công cụ cho phép họ căn bản là mang danh mục
eBay hoặc Amazon của họ hoặc một trang mạng do họ tạo ra bằng Shopify kết nối
trực tiếp với một nhà cung cấp ở AliExpress.”
Trong khi Reiner tin rằng nhiều
danh mục được tạo ra bởi nhà sản xuất Trung Quốc, thực tế là bất cứ ai ở bất cứ
nơi đâu trên thế giới cũng có thể tạo ra một danh mục và thực hiện được một
thương vụ mà không bao giờ sở hữu món hàng lậu sản xuất ở Trung Quốc cũng như
không cần phải bỏ ra một cắc để chứa hàng tồn kho.
Và nếu hàng được gửi từ Trung Quốc
sang Hoa Kỳ, thỏa thuận UPU 1969 bảo đảm chi phí giao hàng sẽ rẻ hơn bất cứ thứ
gì Reiner có thể cung cấp từ văn phòng của mình ở Brooklyn. Ông tin rằng việc
chấm dứt bao cấp chuyển hàng sẽ chấm dứt tổn thất doanh thu trên mạng của ông =
sẽ không ai trả 15 đô la hoặc 20 đô la để gửi một món hàng từ Trung Quốc khi nó
được chuyển với giá 3,99 đô la bên trong Hoa Kỳ.
Về nạn nhập lậu số lượng lớn mặt
hàng nhái Frywalls, Reiner không xem đó là vấn đề.. Mô hình kinh doanh của người
bán hàng qua mạng, ông nói, “là làm mọi việc mà không thực sự chịu bất cứ rủi
ro nào về tồn kho. Vận chuyển hàng giả với số lượng lớn sẽ làm tăng rủi ro. Đầu
tiên, bạn phải mang nó đến đây, và sau đó hy vọng bạn bán được nó mà không bị
phát giác và hàng giả của bạn không bị thu giữ.”
Reiner ước tính rằng ông và người
đứng đầu bộ phận tiếp thị của ông dành khoảng 5% thời lượng trong tuần để lùng
sục các danh mục hàng giả và liên lạc với Amazon, eBay và Shopify để loại bỏ
chúng, cộng với hàng ngàn đô la tiền tham khảo luật sư. “Còn có thêm một loại
chi phí tinh thần cho việc này nữa,” ông cho biết. “Chúng tôi là một cơ sở rất
nhỏ, và chúng tôi cảm thấy mình đang phải đánh liên tục trận đánh ngược dốc
này. Chúng tôi đang cố gắng chiến đấu vì chính nghĩa. Chúng tôi đổi mới và tạo
ra một sản phẩm tuyệt vời và làm hài lòng khách hàng và chịu trách nhiệm cho mọi
thứ chúng tôi làm. Nhưng với tất cả mọi việc chúng tôi làm để xây dựng công ty
và sản phẩm, chúng tôi đang bao cấp cho những tên điếm săn mồi này.. Vì vậy,
khó có thể bình chân như vại được. Đó là lý do tại sao kết thúc chính sách bao
cấp sẽ là một bước tiến lớn theo đúng hướng.”
Hụt bước cầu tàu
Khoảng hai trăm triệu container vận
tải đã đi qua các cảng của Trung Quốc vào năm 2017, theo tạp chí Journal of
Commerce. Loại container được sử dụng nhiều nhất là 20’, hay đơn vị tương tương
hai mươi foot TEU, với dung tích bên trong khoảng 1.170 foot khối và trọng lượng
tối đa 67.196 cân Anh. Các tàu chở hàng khổng lồ như New-Panamax và loại tàu thực
sự khổng lồ Ultra Large Container Ship - những chiếc tàu lớn đến nỗi chúng
không thể cập vào hầu hết các cảng của Hoa Kỳ - chở được lần lượt 14.000 và
20.000 TEU. Việc tổ chức để vận chuyển mọi loại sản phẩm có thể tưởng tượng ra
trên trái đất - từ đồ chơi, muối và chuối đến lò phản ứng hạt nhân, dầu và bẫy
chuột - đã được tiêu chuẩn hóa bởi Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO). ISO đã
làm việc với hơn 160 quốc gia để mã hóa các kích thước chấp nhận được của các
container nhằm làm cho việc bốc dỡ hàng hóa càng đồng nhất và hiệu quả càng tốt.
ISO 9001 là tiêu chuẩn quốc tế
cho một hệ thống quản trị phẩm chất để tuân thủ các quy luật về vận chuyển. Được
chứng nhận ISO 9001 có nghĩa là một công ty đã tuân theo các hướng dẫn của tiêu
chuẩn này, đáp ứng các yêu cầu riêng của họ, đáp ứng các yêu cầu theo luật định
và quy định, và duy trì hồ sơ. Các công ty được cấp chứng nhận theo nhiều
phương diện kinh doanh khác nhau - kỹ thuật, sản xuất, v.v. - sau khi hoàn thành
một cuộc kiểm toán chính thức. Có chứng nhận này được cho là mang lại tính hợp
pháp cho công ty: các sản phẩm của họ an toàn, ổn định, và sẽ không bị vỡ khi mở.
Khoảng 12 triệu TEU được vận chuyển từ Trung Quốc
đến Hoa Kỳ mỗi năm, tính trung bình gần 33.000 container mỗi ngày. Hoa Kỳ chỉ
được phép cử bốn thanh tra vận tải sang làm việc ở Trung Quốc. Nghĩa là mỗi
thanh tra viên sẽ phải kiểm tra khoảng 8.250 container sắp lên đường tới Hoa Kỳ
mỗi ngày. Nhưng tất nhiên điều đó bất khả thi, vì có ít nhất 20 cảng ở Trung Quốc
được sử dụng cho vận tải quốc tế và không ai trong số bốn thanh tra viên này có
thể xuất hiện ở năm nơi cùng một lúc.
Ngay cả khi Trung Quốc cho phép Hoa Kỳ có 20 hoặc
2.000 thanh tra vận tải, các container này vẫn không được xem xét một cách có ý
nghĩa, bởi vì các thanh tra viên không được phép thực sự kiểm tra các
container. Tất cả những gì họ có thể làm là nhìn vào các tờ khai - nghĩa là, họ
nhìn vào danh sách những món hàng các công ty khai là có chứa trong container.
Một container có thể chứa 200 đôi vớ nằm trên 5.000 cân Anh fentanyl [một chất
ma túy tổng hợp], nhưng nếu tờ khai nói có “20.000 đôi vớ thể thao màu trắng”
được một công ty có chứng nhận ISO 9001 vận chuyển, thì không cần phải kiểm
tra. Container được bốc xếp lên tàu và chở đi.
ISO 9001 nên được coi là sự chứng
nhận tự động gần như vô nghĩa ở Trung Quốc, không phải là sự xác nhận về phẩm
chất tạo thêm sự tin cậy. Phụ trách 50% số cuộc kiểm toán và xác nhận kết quả
là việc của một công ty thuộc sở hữu của ĐCSTQ, và ĐCSTQ hoàn toàn không muốn
làm chậm các hoạt động sản xuất, bán hàng, hoặc xuất cảng có thể mang đô la về..
Ngoài ra, các kiểm toán viên bị mua chuộc dễ dàng.
Còn đối với các thanh tra viên
Trung Quốc làm việc tại các bến cảng, thái độ cảnh giác và việc khám phá ra những
chuyến hàng chứa những sản phẩm lậu hoặc không kê khai sẽ bị họ nhăn mặt. Mở một
container và lục soát cần thời gian. Và thời gian là tiền bạc. Các thanh tra
viên có thể bị phạt vì trì hoãn việc bốc xếp và giờ khởi hành của một chuyến
tàu.
Thế cho nên đây là cách nào và tại
sao thị trường Mỹ lâu nay tràn ngập hàng giả. Không có sự kiểm tra lẫn nhau ở
Trung Quốc để bảo đảm kiểm soát phẩm chất. Không có cơ quan bảo vệ người tiêu
dùng, không có cơ quan bảo vệ môi trường, văn phòng cấp bằng sáng chế hoặc nhãn
hiệu, không có FDA [Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Dược phẩm] hoặc IRS, không ai
quan tâm đến việc bảo đảm rằng các sản phẩm không gây hại và rằng có sự bảo vệ
bản quyền, khả năng bị truy cứu trách nhiệm, và sự quản trị tốt. Nếu lốp xe
phát nổ, nếu túi khí không mở, nếu một cảm biến phanh hết hoạt động sau 100 dặm,
nếu không thu được một khoản phí cấp phép, nếu sản phẩm chứa chất độc, thì có
sao đâu? Các sản phẩm đã biến mất. Thương vụ đã hoàn tất. Kế tiếp!
Gián điệp thương mại 2.0
Những vụ gián điệp thương mại và
trộm cắp tài sản trí tuệ hiếm khi được nói tới.
Nếu một cửa hàng trang sức hoặc một
viện bảo tàng bị cướp, cảnh sát được gọi. Báo chí đưa tin về vụ cướp và nói về
giá trị của những gì bị đánh cắp. Nó trở thành một sự kiện có thể định lượng -
“vụ trộm trị giá 2 triệu đô la” hoặc “bức tranh trị giá 10 triệu đô la.” Ai nấy
nói về tội ác tại nơi làm việc, trên Twitter, trên các chương trình truyền hình
giờ khuya. Khi nghi phạm được xác định, một cuộc săn lùng diễn ra.
Nhưng với nạn gián điệp thương mại
và trộm cắp tài sản trí tuệ của các công ty, thường chỉ có sự im lặng. Nếu thực
hiện giỏi, một vụ trộm thương mại là vô hình. Nó bao gồm sao chép các tài liệu,
bản kế hoạch kỹ thuật, công thức hóa học, mã máy tính, dữ liệu thô. Nó khác với
đánh cắp một bức Picasso trên tường viện bảo tàng. Tuy nhiên, hãy tưởng tượng
ra việc đánh cắp bức tranh và thay thế nó bằng một bức tranh giả xuất chúng, giả
mạo giỏi đến nỗi phải sau cả năm mới có một chuyên gia phát giác bản gốc đã biến
mất. Loại phản ứng “chúng ta đã bị trộm” chậm trễ này xảy ra quá thường trong
thế giới doanh nghiệp, nhưng nó cũng là phản ứng bị hãm thanh. Báo cáo vụ trộm
có thể làm giảm niềm tin của nhà đầu tư, làm tổn thương tinh thần nhân viên
công ty, và tiết lộ tin tức cho các đối thủ cạnh tranh..
Một số công ty kiểm toán và kế
toán nổi tiếng – Ernst & Young, Deloitte, PricewaterhouseCoopers, KPMG - thực
hiện các cuộc điều tra tư nhân về nghi án gián điệp thương mại. Mức độ các cuộc
tấn công do ĐCSTQ tài trợ mà các công ty này tìm thấy dao động từ mức căn bản
nhất - hối lộ nhân viên để sao chép tài liệu, đặt sinh viên vào các viện nghiên
cứu và áp lực để họ đánh cắp - đến những cuộc đột nhập tinh vi có sự tham gia của
nhiều tin tặc và cả những chiến dịch gián điệp toàn diện.
Năm 2014, chủ tịch một quỹ đối trọng
lớn gửi cho tôi một báo cáo được thuê thực hiện riêng về hoạt động bất hợp pháp
của Trung Quốc trong các tập đoàn Mỹ. Bản báo cáo gây choáng về phạm vi và chi
tiết. Và thông tin chứa trong đó đã làm lung lay thế giới quan của tôi đến tận
nền tảng.
Những trang minh họa gây lo ngại
nhiều nhất mô tả một cuộc tấn công để giành quyền kiểm soát công nghệ độc quyền
mà một công ty đang lên đã phát triển. Phương pháp tấn công khiến tôi nhớ đến sự
tinh vi của một chiến dịch không kích. Nó được đạo diễn một cách hoàn hảo để
đánh lạc hướng một cách tinh tế và khai thông mục tiêu cho cuộc tấn công chớp
nhoáng. Chiến dịch này nêu bật nguồn lực khổng lồ mà ĐCSTQ sẵn sàng dành ra để
phá hoại các đối thủ kinh doanh hầu giành quyền kiểm soát thứ công nghệ họ muốn
theo đuổi. Sau đây là những gì đã xảy ra.
Một công ty hóa chất Mỹ, sở hữu bởi một công ty
cổ phần tư nhân, đã được cấp bằng sáng chế cho một công nghệ xanh đột phá và
đang phát triển với tốc độ ổn định. Chủ nhân của nó bắt đầu phát triển một kế
hoạch 5 năm để bán cổ phần ra công chúng.
Nhưng đột nhiên, công ty bắt đầu
không bắt kịp các mục tiêu thu nhập của mình. Vấn đề dường như nằm trong khâu
bán hàng - số đơn đặt hàng sụt giảm - và trong khâu hậu cần, bộ phận phụ trách
dòng chảy của các sản phẩm. Người phụ trách khâu bán hàng bị sa thải, nhưng hiện
tượng mất máu tiếp diễn. Các chủ nhân họp với đội ngũ lãnh đạo và cảnh cáo họ
phải khắc phục các vấn đề, bởi vì những bước hụt liên tiếp sẽ đe dọa kế hoạch
IPO. Không lâu sau đó, công ty nhận được một lời chào mua không chờ đợi từ một
công ty Trung Quốc. Lời chào mua khiến các chủ nhân bị sốc - giá chào mua thấp
hơn 30% so với giá trị mà công ty đáng có, nếu không đuổi hụt các mục tiêu thu
nhập. Ban quản trị thì choáng váng: Làm cách nào mà phía chào mua đưa ra được một
sự định giá chính xác như vậy mà không nắm dữ liệu của công ty? Có vẻ như họ đã
biết rõ những tổn thất mới đây.
Các chủ nhân bèn thuê người điều
tra. Họ khám phá ra không chỉ công ty hóa chất đã bị tin tặc tấn công, mà cả
công ty cổ phần tư nhân sở hữu nó cũng bị. Bọn tin tặc nắm được các mục tiêu
thu nhập của công ty và những lằn ranh đỏ được xem là không thể chấp nhận được
đối với các chủ nhân.
Vụ phá hoại đạt mức độ sáng chói,
xét trên bình diện chuyên môn của nghề gián điệp. Các máy chủ điện thư đã bị tấn
công có chọn lọc, để mỗi khi công ty gửi thư chào mua ra ngoài, bọn tin tặc sẽ
xóa thư trước khi thư được gửi đi. Tương tự, khi đơn đặt hàng gửi vào, một số
đã không bao giờ vào tới hộp thư của đội ngũ bán hàng - vì bọn tin tặc đã chặn
thư. Sự phá hoại có chọn lọc này vừa đủ để phương hại doanh thu nhưng chưa đủ để
dẫn đến một cuộc điều tra.
Trong khi đó, bọn tin tặc cũng
phá hoại khâu hậu cần ở sân sau. Khi một đơn đặt hàng gửi vào mua, giả dụ như:
1.000 đơn vị, bọn tin tặc sẽ thay đổi số lượng thành 900. Khi sự thiếu hụt được
khám phá ra - thường là sau khi đợt hàng đã được gửi ra hoặc sắp được gửi ra -
một đơn đặt hàng thêm sẽ được tạo ra. Chi tiết tế nhị này tạo thêm phí tổn cho
các khâu lao động, giao hàng, v.v. và tác động đến lợi nhuận.
Một điệp vụ táo bạo. Tinh tế, gần
như không thể nào nhận ra. Thực thể duy nhất có những nguồn lực và trình độ để
tiến hành một âm mưu phức tạp như thế hẳn phải là nhà nước.
Quỷ kế này kết tinh mức độ chiến
tranh kinh tế mà Trung Quốc đang tiến hành. Nó không chỉ là trộm cắp - sao chép
tài liệu của một công ty tương đương với đập phá và trộm hàng hóa trong một cửa
tiệm. Đây là một vụ lừa đảo chiến lược trên nhiều cấp độ. Tại một thời điểm,
ĐCSTQ đã đặt ra chính sách công nghiệp và đưa công nghệ xanh lên hàng ưu tiên.
Một khi đã xác định được đích nhắm là công ty hóa chất mới khởi nghiệp của Hoa
Kỳ, một người nào đó đã khởi xướng một chiến dịch đòi hỏi cả kế hoạch tình báo,
hoạt động tin tặc của Quân đội Giải phóng Nhân dân, và sự giám sát cũng như
phân tích do một doanh nghiệp quốc doanh phụ trách. Mục tiêu là phá hoại và hạ
giá một công ty Mỹ để mua nó với giá thấp hơn thị trường, hầu thủ đắc công nghệ
mà ĐCSTQ coi là quan trọng. Đó không là gì khác hơn một cuộc tấn công được
chính quyền cho phép nhằm vào một công ty Mỹ.
Khi tôi tham gia Hội đồng Tham
mưu trưởng Liên quân, vào năm 2014, tôi chia sẻ báo cáo này với gần như mọi người
tôi gặp tại Ngũ Giác Đài. Phản ứng lúc nào cũng như nhau: “Chúa ơi, điều này thật
kinh khủng!” Sau đó, họ sẽ nói, “Đó không phải là công việc của tôi.” Và tất
nhiên, về mặt giữ đúng nhiệm vụ truyền thống của quân đội, thái độ đó hoàn toàn
hợp lý. Công việc của quân đội là lên kế hoạch chiến đấu, chuẩn bị cho cuộc chiến,
tiến hành cuộc chiến, hoặc duy trì trật tự. Còn việc bảo vệ các công ty Mỹ? Chẳng
liên quan gì tới chúng tôi!
Nhưng với tôi, đây là hành động
chiến tranh rõ rệt. Đây là sự thù địch, là hành vi săn mồi, vi phạm luật pháp
quốc tế. Và nó nhằm mục đích làm tổn hại quốc gia của chúng ta.
Tôi đã đến Bộ Tài chính và Bộ
Thương mại. Tôi đã gặp giới chức Bộ Ngoại giao. Tôi nhận được một câu trả lời
chung hết sức khôi hài: “Trung Quốc không phải là đối thủ của chúng ta, họ là bạn
của chúng ta. Chúng ta hợp tác với họ.” Tôi nhìn họ và nghĩ, “Nhưng tôi vừa cho
quý vị xem những nghiên cứu chứng minh rằng họ không phải là bạn của chúng ta.”
Tôi đi đến kết luận là sẽ không
ai làm bất cứ một điều gì đối với vấn nạn gián điệp thương mại và chiến tranh
kinh tế của Trung Quốc. Đó là đề tài nhạy cảm, và không ai muốn chạm vào nó. Cuối
cùng tôi tìm thấy một đồng minh trong Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. Tôi
không muốn nêu tên ông, nhưng tôi coi ông như một vị anh hùng. Không như nhiều
sĩ quan cao cấp khác, ông hiểu rằng chiến tranh kinh tế, trên thực tế, chính là
chiến tranh và quân đội có nhiệm vụ bảo vệ những biên thùy mới. Và ông cho phép
tôi tiếp tục nghiên cứu những hoạt động kinh tế thù địch của Trung Quốc và phát
triển chiến lược để ứng phó với các vấn đề.
Khi tôi nói với mọi người về công
việc tôi đang làm, phản ứng thường gặp là một câu hỏi đầy nghi ngờ: “Tại sao
anh lại để mắt tới điều này?”
Câu trả lời của tôi: “Vì không ai
khác để mắt tới.”
Khuynh đảo thương trường
Phá hoại và gián điệp chỉ là hai
cách để làm đảo lộn một thị trường. ĐCSTQ cũng dựa vào nhiều chiến lược khác để
kiểm soát và chiếm lĩnh thị trường, từ hạ giá nuốt trửng thị trường và nhử món
này bán kèm món nọ đến bắt nạt kiểu truyền thống.
Hãy bắt đầu với việc bắt nạt.
Trung Quốc là nhà sản xuất hải sản hàng đầu thế giới, tạo ra gần bảy mươi triệu
tấn trong năm 2017. Họ sử dụng khoảng một triệu người trong ngành công nghiệp
cá đông lạnh, cũng lớn nhất thế giới. Xuất cảng thủy sản Trung Quốc lên tới
19,3 tỷ đô la trong năm 2016.
Đáng chú ý là cá hoang dã đánh bắt trong các
vùng biển của Trung Quốc trong chín tháng đầu năm 2017 đã giảm 11,9%, nhưng
theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, cá đánh bắt ở vùng biển của các nước khác tăng
14,2% so với năm trước đó.
Nói cách khác, Trung Quốc, nước
chiếm hơn 60% sản lượng hải sản nuôi trồng toàn cầu, không thể duy trì sản lượng
hải sản hoang dã bằng cách dựa vào sản phẩm khai thác từ vùng biển ven bờ của
mình. Thế thì họ làm gì? Họ phái các tàu đánh cá của mình đi khắp thế giới để
càn quét các vùng biển ven bờ của các quốc gia yếu hơn, thường xuyên xâm lấn
các quốc gia không có hải quân mạnh hay thậm chí không có một lực lượng hải
quân nào.
Cần xác định rõ, việc đánh bắt cá
trong vùng biển quốc tế là hoàn toàn hợp pháp. Tuy nhiên, việc khai thác sự
giàu có, chẳng hạn, của quần đảo Galapagos thuộc Ecuador - nơi, vào tháng 8 năm
2017, hai mươi ngư dân Trung Quốc bị phát hiện với một mẻ đánh bắt gồm 6.600
con cá mập - là vi phạm luật pháp quốc tế. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật
Biển, các vùng đặc quyền kinh tế để đánh bắt cá trải rộng 200 hải lý từ bờ biển
của một quốc gia.
Ở Nam Mỹ, tàu Trung Quốc bị bắt gặp
đánh cá trong các vùng biển Argentina, Chile, Peru và nhiều quốc gia khác. Vào
tháng 3 năm 2016, lực lượng tuần duyên Argentina phát giác một tàu Trung Quốc,
chiếc Lu Yan Yuan Yu, đánh cá trong vùng biển của họ và bắn một phát súng cảnh
cáo để ngăn chặn.. Tàu Lu Yan Yuan Yu đã thử đâm vào tàu Argentina nhưng hành động
này phản tác dụng; phía Argentina nổ súng, và tàu cá chìm. Ngày nay, nhiều tàu
cá Trung Quốc biết tự trang bị những bộ phận đệm có thể dùng để đâm vào tàu
khác và ngăn các tàu khác tới gần.
Trong khi Trung Quốc tuyên bố họ
đang giám sát gắt gao tình hình, các tàu cá Trung Quốc vẫn được thấy xuất hiện ở
xa tận Nam Phi.
Chèn ép những quốc gia nhỏ hơn để
đánh cắp tài nguyên thiên nhiên của họ là một chiến thuật.. Cung cấp những thỏa
thuận phát triển hào phóng bên trong ẩn chứa những điều khoản cắt cổ là một chiến
thuật khác. Trung Quốc hiện đang trong tiến trình triển khai sáng kiến cơ sở hạ
tầng toàn cầu Vành đai và Con đường trị giá nhiều tỷ đô la để thống trị ngành vận
tải hàng hóa trên khắp hành tinh. Chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về ý nghĩa và mục
đích của Vành đai và Con đường trong một chương sau, nhưng do chúng ta đang đề
cập đến vấn đề kiểm soát thị trường, có hai điều đáng lưu ý: kiểm soát vận tải
là một phương pháp nắm huyết mạch của dòng chảy thương mại, và xây dựng cơ sở hạ
tầng cho các quốc gia đang gặp khó khăn về kinh tế là một diệu kế để giành lấy
đòn bẩy kinh tế tại các quốc gia mà bạn được cho là “đang giúp đỡ.” Các sáng kiến
này, theo một nghĩa nào đó, chính là nợ và bẫy tiếp cập thị trường.
Một ví dụ mới đây về cách Trung Quốc phù phép
biến một cuộc “viện trợ nước ngoài hữu ích” thành ra sự “kiểm soát” là dự án cảng
Hambantota khổng lồ ở Sri Lanka. Đây là một quốc gia bị chiến tranh tàn phá
không nằm cao trong danh sách đối tác thương mại của bất cứ nước nào trong nhiều
thập niên. Nhưng trong giai đoạn mười năm Tổng thống Sri Lanka Mahinda
Rajapaksa tại vị, công ty quốc doanh China Harbor Engineering Company đã đạt được
những thỏa thuận khổng lồ về hiện kim và tín dụng để xây dựng cảng nước sâu trị
giá nhiều tỷ đô la ở cực nam của hòn đảo.
Rajapaksa thất cử tổng thống năm
2015, để lại cho các lãnh đạo mới một núi nợ từ các thỏa thuận của ông với
Trung Quốc. Và Trung Quốc, hành động giống như một kẻ cho vay nặng lãi hơn là một
đồng minh nhân từ, đã từ chối giảm nhẹ các điều khoản đã được đàm phán. Năm
2017, chính phủ Sri Lanka đành bàn giao quyền kiểm soát cảng Hambantota và 15
ngàn mẫu đất xung quanh cảng trong 99 năm.
Trung Quốc giờ đây có một cảng vừa
sát sườn vừa đi vòng qua Ấn Độ, đối thủ cạnh tranh sản xuất lớn nhất của mình.
Và trong khi hợp đồng thuê Hambantota cấm Trung Quốc sử dụng cảng cho các mục
đích hải quân, có mối lo ngại đáng kể là họ sẽ cố gắng đàm phán các điều khoản
đó hoặc đơn giản là làm ngơ chúng, như họ rất thường làm với mọi vấn đề pháp
lý.
Tuy nhiên, xét về ý đồ và mục
đích, rõ ràng Trung Quốc đã không thực sự giúp đỡ Sri Lanka cải tiến cơ sở hạ tầng
- Trung Quốc chỉ khiến nước này chìm trong nợ nần và đến nay đã giành quyền kiểm
soát kinh tế đáng kể đối với quốc gia đang gặp khó khăn nhưng có vị trí chiến lược.
Đưa ra những thỏa thuận ngọt ngào cho những quốc
gia có nền kinh tế trì trệ trên thực tế là quy trình hoạt động thông thường của
một số công ty được ĐCSTQ hỗ trợ. Và những điều kiện kèm theo có thể không phải
lúc nào cũng rõ ràng. Trung Quốc đã cực kỳ năng động ở châu Phi. Năm 2018, Chủ
tịch Tập cam kết viện trợ 60 tỷ đến 80 tỷ đô la cho các quốc gia châu Phi.
“Trung Quốc không can thiệp vào các vấn đề nội bộ của châu Phi và không áp đặt
ý chí của mình lên châu Phi,” Tập nói. “Những gì chúng tôi đánh giá cao là việc
chia sẻ kinh nghiệm phát triển và sự hỗ trợ mà chúng tôi có thể cung cấp cho sự
thịnh vượng và hồi sinh quốc gia của Châu Phi.”
Nhưng nhận tiền của Trung Quốc sẽ kéo theo nhiều
vấn đề. Nếu Trung Quốc xây một mạng điện thoại, họ sở hữu tài sản trí tuệ. Nếu
một công ty Trung Quốc xây một nhà máy điện, công ty ấy sở hữu các kế hoạch và
hoạt động. Và các dự án này, giống như cảng của Sri Lanka, có thể là bẫy nợ. Việc
kiểm soát cơ sở hạ tầng quan trọng cho phép Trung Quốc sử dụng áp lực trong những
lĩnh vực khác. Nhiều bản tin ghi nhận các chính phủ châu Phi đã bị áp lực không
công nhận Đài Loan. Chắc hẳn họ cũng sẽ bị áp lực phải giữ im lặng trước việc
Trung Quốc đàn áp người Duy Ngô Nhĩ, Tây Tạng và những người ủng hộ tự do ngôn
luận. Theo cách này, tiền viện trợ có thể được biến thành cái có thể gọi là bẫy
tự do.
Trong một thời gian ngắn đáng chú
ý, Transsion Holdings, một công ty ở Thâm Quyến được thành lập năm 2006, đã chiếm
được thị trường điện thoại di động châu Phi và hạ bệ người khổng lồ toàn cầu
Samsung của Nam Hàn. Kẻ mới đến có một số sáng chế dành riêng cho Châu Phi, như
khe cắm cho nhiều thẻ SIM, cho phép chia sẻ điện thoại giữa những người dùng có
số điện thoại và nhà cung cấp dịch vụ khác nhau. Nhiều kiểu điện thoại được thiết
kế để pin có tuổi thọ dài hơn, vì điện là mặt hàng hiếm ở nhiều vùng của lục địa
này. Nhưng công ty đã thu hút được khách hàng bằng cách hạ giá thấp hơn thị trường;
có tin tức cho biết họ đang bán điện thoại với giá xuống tới 50 đô la.
Như thế Transsion Holdings đã
thành công qua việc cách tân và hạ giá mạnh tay. Việc định giá ấy có được bảo
lãnh bởi Ngân hàng Trung Quốc hay không? Ai mà biết được? Các khách hàng mới
này có nên cảm thấy thoải mái về sự riêng tư cho dữ liệu của họ hay không? Họ
có lý do để lo lắng. Với hầu hết các doanh nghiệp Trung Quốc, nguy cơ can thiệp
của ĐCSTQ luôn là một khả năng. Như đã lưu ý trong một đoạn trước, mọi tập đoàn
Trung Quốc phải có một đảng viên ĐCSTQ trong hội đồng quản trị. Và một quốc gia
châu Phi bị Transsion chiếm lĩnh hoặc bất cứ quốc gia nào phụ thuộc vào
viễn thông Trung Quốc - một ngày nào đó sẽ gặp nguy cơ dữ liệu của người dân bị
lạm dụng cho những mục đích kinh tế hoặc để duy trì kiểm soát xã hội.
Robert Spalding
Carl Trần chuyển ngữ
Posted by: lpk 116
No comments:
Post a Comment
Thanks