Từ Diễn Biến Hoà Bình
Tới Diễn Tiến Dân Chủ
Posted
By: Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLMon: October 28, 2015In: THỜI LUẬN, VIỆT
NAM NGÀY NAY -- VIETNAM TODAY
Khái
niệm “Diễn Biến Hoà Bình”, chuyển ngữ một cách thô thiển từ “Peaceful
Evolution”, vốn là một chủ thuyết có tính cách sách lược, phát khởi
trong thời Chiến tranh Lạnh, bởi John Foster Dulles,[1] cựu
Tổng Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, trong thập niên 1950. Sách lược “Peaceful
Evolution” chủ trương một [a] “tiến trình chuyển đổi” từ thể chế độc
tài toàn trị sang thể chế dân chủ [b] bằng con đường hoà bình [c]
tại các quốc gia cộng sản.[2]
I. Phản Ứng và Lo Ngại của Khối Cộng Sản
Tại Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã chống
lại “diễn biến hòa bình” từ năm 1959.[3] Một mặt Mao
Trạch Đông chê Nga Xô chuyển mình theo chủ nghĩa xét lại qua chiêu bài “sống
chung hoà bình”[4] của Nikita Khrushchev, mặt khác
khởi xướng và dùng chiêu bài “Đại cách mạng văn hóa” hay “Văn cách” trong
suốt 10 năm từ năm 1966-1976, để loại bỏ những phần tử “tư sản tự do” —
trong đó có đối thủ chính trị là Lưu Thiếu Kỳ — và đánh phủ đầu những đảng viên
bất đồng ý kiến khác như Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài…
Như vậy, cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản
nhằm chặn đứng mối nguy cơ của cuộc ”Diến Biến Hoà Bình” tại Trung Quốc
lúc đó, bằng cách đè bẹp những kẻ hữu khuynh muốn phá bỏ cấu trúc thượng tầng của
chủ nghĩa xã hội…[5]
Kể từ Mao Trạch Đông, nhà cầm quyền CS
Trung Hoa luôn luôn coi “Diễn Biến Hoà Bình” là mối đe doạ lớn nhất cho sự duy
trì của chế độ cộng sản trong nước và tại khu vực.
Thật vậy, Đặng Tiểu Bình dù có ý định cổ
võ phong trào xét lại Cách mạng Văn hóa, nhưng khi phong trào này kêu gọi “cải
tổ dân chủ”, thì lập tức Đặng Tiểu Bình ra lệnh Quân Đội Nhân Dân Cách Mạng dẹp
đám sinh viên, trí thức tụ tập biểu tình tại Bắc Kinh và sau đó gây ra vụ thảm
sát tại quảng trường Thiên An Môn trong năm 1989. Những cuộc đụng độ này
đã khiến 800 dân thường thiệt mạng, 10.000 người bị thương.
Và gần đây, ngay đầu năm 2012, Hồ Cẩm
Đào với tư cách Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng kiêm Chủ tịch nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa đã kêu gọi [a] chống lại “sự xâm nhập tư tưởng và văn
hóa” của các “thế lực thù địch, [b] đồng thời thắt chặt kiểm soát tư tưởng để
đàn áp các tiếng nói bất đồng.[6]
Tại Việt Nam, khái niệm “Diễn Biến
Hoà Bình” cũng được coi như là một trong những mối đe dọa lớn nhất tới sự tồn tại
của Đảng Cộng sản. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam viết: “Diễn biến
hòa bình là một trong những chiến lược có ý nghĩa và phạm vi toàn cầu của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động được hình thành từ những năm cuối thập kỷ
40 đầu thập kỷ 50 và hoàn chỉnh ở thập kỷ 80 của thế kỷ XX nhằm chống phá các
nước xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng tiến
bộ trên thế giới.”[7]
Vịn cớ vào hiện tượng đó, CSVN coi các
tiếng nói đối nghịch, các hoạt động cá nhân hoặc phong trào vận động dân chủ, nhân
quyền trong và ngoài nước là các hành vi “tuyên truyền chống nhà
nước Việt Nam”, hoặc vi phạm pháp luật Việt Nam.[8]
II. Những Đợt Diễn Biến Hoà Bình Trong
Khu Vực Cộng Sản Quốc Tế
Sau hơn nửa thế kỷ thử thách, “Diễn biến
hòa bình” đã vượt ra khỏi vị trí khái niệm/dự đoán để quy tụ thành một trào lực
bất khả cưỡng, làm lung lay những “màn thép” và xập đổ những “bức tường” ô nhục
vây quanh không gian chuyên chế, độc tài toàn trị cộng sản Châu Âu.
Thật vậy, sau nhiều đợt thi đua trang bị
vũ khí thời Hậu-Đệ-Nhị-Thế Chiến, chủ trương đầu tư quân sự và trường kỳ kháng
chiến theo cách mạng vô sản không còn là giải pháp thực tiễn để phát triển quốc
gia thuộc khối cộng sản Châu Âu.
Ngay giữa “Chiến tranh Lạnh”, vào năm
1956 tại Đại Hội thứ 20 Xô Viết Nga, Khrushchev đã khai mào đường lối “Sống
Chung Hoà Bình”[9] giữa hai siêu cường quốc Hoa Kỳ
và Nga Xô, cũng như giữa NATO (Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương)[10] và
Warsaw Pact (Khối liên minh quân sự các nước XHCN)[11]với
chủ đích:
- giảm thiểu áp lực thù địch, tránh
bỏ chiến tranh hạt nhân[12] giữa hai Khối Tự Do và XHCN;
- tham dự những cuộc nghị hội chủ
trương hoà bình;
- mặc nhiên chấm dứt tham vọng trực
tiếp xâm chiến thế giới tự do bằng bạo lực “Hồng Quân”;
- và hầu như xét lại nguyên tắc căn
bản của cuộc cách mạng vô sản theo XHCN.
Chủ trương “Détente” –Thư giãn/Bớt Căng
Thẳng– này đã đưa đến những cuộc Thảo luận Hạn chế Vũ Khí Chiến lược[13] phần
nào “ăn khớp” với chủ thuyết “Diễn Biến Hoà Bình”, dù bị Trung Cộng coi là phản
bội Cách Mạng Vô Sản.
Cuối cùng, phần nào do âm vang thôi
thúc của những cuộc biểu tình đòi dân chủ tự do tại Trung Quốc, dù biến cố này
thất bại bằng cuộc thảm sát ngày mùng 4 tháng 6 năm 1989 tại quảng trường Thiên
An Môn, Hiện tượng “Diễn Biến Hoà Bình” vẫn thêm khẩn trương, dồn dập qua những
cuộc chính biến liên tiếp giải thể chế độ cộng sản tại Châu Âu, đưa tới hiện tượng
xô đổ “domino effect” như sau:
- Tại Ba Lan, Phong trào Công đoàn Đoàn kết [SolidarityPolish:Solidarność]
đã toàn thắng tại Hạ Viện và Thượng viện và sau đó thành lập một chính phủ
Phi Cộng sản mới vào tháng Chín năm 1989.[14]
- Tại Hungary, ngày 20 tháng 10, Quốc hội đã
thông qua luật cho phép bầu cử quốc hội đa đảng và một cuộc bầu cử tổng
thống trực tiếp. Cộng hòa Nhân dân cũng đã chuyển thành Cộng hòa Hungary,
theo thể chế tam quyền phân lập.[15]
- Tại Đông Đức, sau khi bức tường Berlin bị phá
xập vào ngày 9 tháng 11 năm 1989, chế độ độc tài của Đảng
Thống nhất Xã hội chủ nghĩa [Socialist Unity Party(SED)] đã kết
thúc, đưa tới sự thống nhất của Đông và Tây Đức vào ngày 3 tháng 10 năm
1990.[16]
- Tại Tiệp Khắc, sau cuộc “Cách mạng Nhung” bất bạo
động trong tháng 11 năm 1989, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc công bố từ bỏ nhà
nước độc đảng và Václav Havel được chọn làm Tổng thống Tiệp Khắc vào ngày
29 Tháng 12 năm 1989.[17]
- Tại Bulgaria, Đảng Cộng sản đã tự giải thể
trong tháng 2 năm 1990 nhường chỗ cho cuộc bầu cử tự do đầu tiên vào tháng
6 năm 1990.[18]
- Tại Romania, đầu năm 1989, Ceauşescu được bầu
lại lãnh đạo Đảng Cộng sản để đương đầu với cuộc nổi dậy trong nước. Nhưng
ngày 22 Tháng 12, quân đội Rumania đột nhiên chuyển hướng sát nhập
với đám biểu tình để lùng bắt Ceauşescu và vợ ông, Elena. Vào ngày
lễ Giáng Sinh năm 1989, Ceauşescus bị xét xử và lãnh án tử hình.[19]
- Tại Nam Tư, sau cái chết của Tito vào năm
1980, Nam Tư đã phải đương đầu với nhiều căng thẳng sắc tộc. Vào tháng
Giêng năm 1990, Đại hội bất thường của Liên đoàn của Cộng sản Nam Tư đã
được triệu tập để trên thực tế tự giải thể. Cấp lãnh đạo các sắc tộc
Slovenia, Croatia, Macedonia, Bosnia, Herzegovina, Serbia, Montenegro,
Kosovo tiếp diễn kế hoạch ly khai khỏi liên bang Nam Tư để giành độc lập,
tuần tự từ nằm 1991 tới 2008.[20]
- Tại Liên Bang Xô viếtĐể thoát khỏi tình thế ứ đọng suy
thoái, Tổng Bí Thư Liên Xô Mikhail S. Gorbachev ngay từ năm 1985 đã đề
xướng hai chường trình “đổi mới”:[21]— “Perestroika” [“restructuring”)
hay chính sách “cải tổ” nhằm tạo thêm tự do về mặt chính trị, kinh tế và
tôn giáo. — “glasnost”
(“openness”/”transparency”) hay chính sách công khai hoá và minh bạch hoá
các hoạt động của những cơ quan nhà nước nhằm [a] tạo tự do thông tin và
ngôn luận cho đại chúng [b] thêm khả năng giúp giảm nạn tham nhũng và lạm
dùng quyền lực của Trung ương Đảng.
Những biện pháp trên, hoặc quá muộn, hoặc
phiến diện, hạn hẹp, nên dần dần gây thêm [a] bất mãn nơi đại chúng, [b] tranh
chấp nội bộ và [c] sự tan rã của Liên Bang Xô Viết.
Kể cả những bức “màn tre” bao vây Khu vực
Cộng sản Châu Á[22]cũng
dần dà bị rách toạc, chuyển biến từ cảnh lạc hậu bế-môn-toả-cảng sang thế thị
trường hé mở mánh mung.
Thật vậy, sau những cuộc chiến tranh
“bán cái/đánh hộ”[23]và
“viễn khiển/be bờ”[24] tại
Cao Ly và Việt Nam, chủ trương đầu tư quân sự khu vực hay trường kỳ kháng chiến
theo cách mạng vô sản quốc tế cũng không còn là giải pháp thực tiễn để phát triển
quốc gia thuộc Khu vực Cộng sản Châu Á nữa. Do đo, CSVN và CSTQ lập tức
chuyển hướng chính sách cai trị.
Trước tiên, ngay sau khi trở lại chính
trường, năm 1978 Đặng Tiểu Bình tung ra chương trình “Bốn hiện đại hóa” và để
cho dân dán “Đại tự báo” chống đối sai lầm của cuộc Cách Mạng Văn Hoá.
Năm 1979, Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ nhằm
bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, tạo dựng lòng tin với Hoa Kỳ để hưởng viện
trợ về công nghệ và khoa học kỹ thuật. Ngay sau đó, Đặng Tiểu Bình đã cải
cách đất nước theo hướng “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc”, dưới hình
thức “kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa”, với những trạng thái dị
hình như sau:
1. nền tảng kinh tế hỗn hợp;
2. chủ lực quốc doanh [doanh nghiệp do “Nhà Nước/Đảng” sở
hữu hay sát nhập vào quyền lợi Đảng và Lãnh tụ];
3. gia nhập kinh tế thị trưởng toàn cầu để thêm cơ hội vơ
vét, dụng võ cho giai cấp tài phiệt quốc doanh;
4. hậu quả: chế độ độc tài chuyên
chính [chính trị độc đảng] đã diễn biến/chuyển thành đảng phiệt tư bản đỏ[25] khi
tập đoàn tài phiệt CSTQ độc chiếm thị trường.
Trước đà “diễn biến” phương Bắc, Việt
Nam lập tức mượn gió bẻ măng, cũng tự diễn biến theo diện “Đổi Mới”[26] sao
y bá đạo “Kinh tế Thị Trường theo hướng Xã Hội chủ Nghĩa” với những nhập nhằng
chủ mưu chiếm đoạt như sau:
1. Tư hữu của dân thành quốc hữu;
2. Quốc hữu
thành tài sản của Đảng;
3. Tài sản của Đảng được hoá giá
thành tư sản của cấp Lãnh Đạo/Đại gia/Tài phiệt Đỏ[27]; Với
hiệu ứng tất nhiên phân tách xã hội thành hai khối: thiểu số cầm quyền cực kỳ
giầu có, tham nhũng, mánh mung đối mặt với đại chúng bị trị, cực kỳ nghèo khổ,
thất thế, bất lực, bó tay, sống còn trong vòng luẩn quẩn tha hoá, vô định.
III. Diễn “Biến” Hoà Bình Chưa Phải Là Diễn “Tiến”
Hoà Bình/Diễn Tiến Dân Chủ
Vậy, nếu chỉ muốn chuyển ngữ và quan niệm
“Peaceful Evolution” ở mức độ “Diễn Biến Hoà Bình” thì đó là một
ngộ nhận vĩ đại, và cũng là một trạng thái chẳng đặng đừng trong một khung cảnh
xã hội đổ vỡ, bất toàn, tranh sáng tranh tối.
Thực chất giới lãnh đạo cộng sản chỉ đủ
sở trường quan niệm “Peaceful Evolution” ở mức độ tiêu cực hay thụ động:
1. Như một mối đe doạ cho ý thức hệ của họ, nên cuống cuồng
chống đối, vùng vằng phản kháng như đỉa phải vôi;
2. Nhưng nếu thấy suy nhược trong thế cổ thủ, cô lập, thì
lại sẵn sàng tìm cách khúm núm, ăn có với địch cốt để sống còn. Như Đặng
Tiểu Bình đã làm, như cấp lãnh đạo Hànội đang làm: cúi đầu nhận tiếp viện, súng
ống, kỹ thuật, tài lực Tây phương như liều thuốc “diễn biến” cải tử hoàn sinh…cho
“đảng, cho mình”. Thế thôi.
3. Do đó trí tuệ mánh mung lẫn khôn ngoan xảo quyệt của giới
lãnh đạo CS không vượt ra khỏi tầm hiểu biết tham lam, vị kỷ, vị đảng của họ,
nên chẳng bao lâu “diễn biến đổi đời-đổi mới” của họ lại luẩn quẩn ứ đọng trong
ao tù thịnh vượng giả tạo, tham nhũng; cướp bóc, nuốt chửng lẫn nhau.
4. Hiện tượng diễn-biến-phát-tài-tự-nổ đang xẩy ra ở mọi môi
trương kinh doanh tập trung, mọi mặt đầu cơ đảng phiệt mafia gia truyền tại
Trung Quốc, như tại Việt Nam. Cấp lãnh đạo tài phiệt đỏ Chấu Á bề ngoài
thì lừa dân, bề trong nội đình thì lừa đảo lẫn nhau.
Có hiện tượng sai lầm như vậy vì quan
niệm “Diễn Biến Hoà Bình” vỏn vẹn thể hiện ở cấp lãnh đạo quốc gia, nên chỉ có
tính cách chuyển biến tiêu cực và thụ động [negative & passive transformation].
Cấp lãnh đạo cộng sản quốc tế đã cho thấy rõ chính sách cai trị và quản trị của
họ chỉ là những chắp nối thủ đoạn phá hủy, tự phản, tự phá.
Ngược lại, lời kêu gọi về “Peaceful
Evolution” của John Foster Dulles cần được xác định một cách chính xác, tích cực
và chủ động, vì:
1. “Evolution” không phải là “diễn biến”, “thay đổi”, “biến đổi” [Transformation]
vô định, luẩn quẩn, ngược xuôi, xuôi ngược. Như với trò chơi block-lego
gọi là “transformer”, trẻ em có thể biến đổi các cục lego thành người, rồi
thành xe, thành nhà, hay ngược lại. Từ vuông biến đổi thành tròn, từ tròn
thay đổi thành dài, bẹt, ngang, thẳng, muôn hình vạn trạng v.v Tất cả
những trạng thái hoán chuyển/diễn biến đó chỉ có thể được gọi là “thay
đổi/transformation” hay “biến dạng/déformation”, chứ không là “Evolution”.
2. Vì
muốn có “Evolution” thì sự đổi thay phải đưa tới “tiến hoá”, “tiến
triển”, phát triển” [progression/growth] từ thô sơ, hà tì
thành tinh vi, toàn hảo; từ thấp kém thành tiến bộ, thăng tiến v.v.
3. Do đó “Peaceful Evolution” phải
được dịch là “Diễn Tiến Hoà Bình”. Hiện tượng này chỉ đạt được bằng
một sự lựa chọn tích lũy phù hợp, nhằm cải tiến, tăng trưởng [Selection/
Adaptation/Improvement] một môi trường, một thể chế.
Như theo “Thuyết Tiến Hoá” [Evolutionism],
[a] loài khỉ dần dà diễn tiến thành loài người đứng thẳng, [b] rồi tiến triển
thành con người biết suy nghĩ, [c] có tư tưởng, tâm linh, [d] có văn hoá, có
sáng tạo, [e] mỗi lúc mỗi toàn hảo, tinh vi, tiến bộ. Do đó khi con người
bị chế độ cộng sản bất nhân, dã man đầy đoạ thành súc vật, ngủ ở chuồng
heo, ăn cám — đổi đời/diễn biến/transformed” thành nô lệ vô sản, nô lệ cuồng
tín, nô lệ tư tưởng, nô lệ lao động, nô lệ tình dục, thì “diễn biến” [transformation]
đó chỉ có nghĩa là suy thoái, là thụt hậu, là tận cùng tha hoá, tàn phá nhân bản
khác hẳn với “peaceful evolution”, với “tiến hoá hoà bình” mà John Foster
Dulles mong quảng bá; mà con người chân chính vẫn muốn thực hiện.
IV. Vậy làm thế nào có Diễn Tiến
Hoà Bình/Peaceful Evolution/Diễn Tiến Dân Chủ trong một quốc gia còn
theo chủ nghĩa cộng sản như Việt Nam?
Như đã định nghĩa sơ khởi, sách lược
“Peaceful Evolution” chủ trương một [a] “tiến trình chuyển đổi” từ thể chế độc
tài toàn trị sang thể chế dân chủ [b] bằng con đường hoà bình [c]
tại các quốc gia cộng sản.
Muốn thấy Việt Nam thực sự “diễn tiến
hoà bình” thì phải xác định mức độ “Diễn tiến dân chủ” hay “Dân Chủ Hoá” một
cách tích cực, chủ động.
Khi mục tiêu là Dân Chủ, thì việc đầu
tiên phải hoàn trà cho toàn dân vị trí nguồn gốc của mọi trào lực chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hoá, sáng tạo. Dân tộc đại chúng bất phân kỳ thị phải
là cứu cánh của mọi phúc lợi, an ninh và pháp trị, trên căn bản công bằng quyền
hành và trách nhiệm.
Do đó, những điều kiện dân chủ hoá cần
thiết dưới đây phải hội đủ trên bốn bình diện chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hoá:
1. Diễn
Tiến Dân Chủ ở Bình Diện Chính Trị và Công Quyền
Tiên quyết, chế độ CSVN và mọi hình thức
độc tài đảng phiệt, tập đoàn chuyên chính, quân phiệt và tài phiệt tại Việt Nam
phải tự giác, nhận giải thể một cách sòng phẳng, toàn diện, để tiến hoá hội
nhập một thể chế pháp trị, đa đảng, tuần hoàn đại diện dân trên căn bản tam quyền
phân lập. Theo hình thức chấp chính này, toàn dân sử dụng quyền lực chính
trị hay dân quyền để bầu cử và kiểm soát chính phủ. Do đó, chính thể dân
chủ có trọng trách thi hành việc nước theo ý dân, phục vụ qua sự ủy thác của
dân: nhà cầm quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp được dân chúng chọn để ủy
thác quyền chấp chính, để gián tiếp đôn đốc, bảo vệ quyền lực và quyền lợi của
chính người dân.
Vậy quyền chính trị, công quyền, sứ mạng
đảng phái chỉ có tính cách đại nhiệm[28] chứ
không có tính cách chấp hữu.[29]
Đó là đại diện dân và đại nhiệm quyền lợi của dân. Vì căn bản dân là thân chủ,
là sở hữu chủ của quyền lợi giao phó.
Mọi hình thức vượt hay chống lại quyền
“ủy nhiệm/đại nhiệm” trên sẽ phải coi là lạm quyền và tiếm quyền,[30] làm
mất tính cách chính thống/chính đáng [legitimacy] của nhà cầm quyền, của đảng
phái chấp chính. Những thành phần nhiệm chức vi phạm quyền hành, vị phạm
luật pháp sẽ bị tố cáo, thanh trừng, cách chức.[31]
Vậy, mọi thế lực công quyền, chính trị,
đảng phái phải thượng tôn luật pháp hiến định; sinh hoạt một cách công minh,
chân chính, tương xứng; nhằm phục vụ phúc lợi và tương lai dân tộc; bảo trọng sự
vẹn toàn và khả năng phát triển của lãnh thổ, thiên nhiên và tân tạo.
Quyền tư hữu phải được xác định một cách
công minh, nghiêm túc, sòng phẳng để giải quyết mọi bất công, oan ức của người
dân trước đây và sau này.
Quyền tư hữu phải được phối hợp chặt chẽ
với dân quyền và nhân quyền, một cách liên tục, bất khả tước đoạt, dưới mọi
hình thức, mọi điều kiện khả thi.
2. Diễn Tiến Dân Chủ ở Bình
Diện Kinh Tế Và Kinh Doanh
Việt Nam cần xác định và bảo trọng một
chính sách kinh tế mở, phục vụ người dân trong nước, qua sự hợp tác đa phương về
mặt kinh doanh và phát triển quốc gia bằng cách:
[a] bác bỏ chế độ quản trị quốc
doanh để tránh mọi hình thức thao túng độc quyền kinh doanh, độc chiếm thị trường[32] vốn
là những nguồn gốc của bế tắc kinh tế và tham nhũng dây truyền.
[b] tăng trưởng hệ thống kinh doanh tư,
trên căn bản
- tự do thương nghiệp, đầu tư theo
sáng kiến kinh doanh;
- cung ứng nhu cầu tiêu thụ và ý
muốn của người dân.
(c) tăng trưởng hệ thống
kinh doanh nhân bản:
- tiêu chuẩn hoá đạo đức nghề nghiệp
[professional ethics];
- tiêu chuẩn hoá đạo đức kinh doanh
[Corporate social responsibility];
- tái dụng và chuyên môn hoá nhân
công;
- đa dạng hoá quyền lợi của giới lao
động
- bảo vệ môi trường;
(d) hệ thống hoá kinh doanh kết
sinh:
- theo tiêu chuẩn phát triển quốc
gia và địa phương;
- theo tiêu chuẩn hợp tác khu vực;
- theo tiêu chuẩn thị trường toàn
cầu;
(e) kết hợp thực lực chính trị,
kinh tế và kinh doanh một cách ôn hoà, cân nhắc quyền lợi tư nhân và bổn phận
nghề nghiệp, sáng kiến và trách nhiệm kinh doanh, nhằm phục vụ công ích và tiến
bộ nhân loại.
3. Diễn
Tiến Dân Chủ ở Bình
Diện Xã Hội và Tổ Chức Xã Hội Dân Sự
Con người tự do có quyền và trách nhiệm
tụ họp; đóng góp khả năng, trí tuệ và tâm linh khi phục vụ xã hội, bằng cách tự
nguyện đoàn ngũ hoá thành tổ chức xã hội dân sự [XHDS], dưới hình thức tổ chức
bất vụ lợi, độc lập, hoặc tổ chức phi chính phủ, để hoạt động
trong các lĩnh vực xã hội, kinh tế, từ thiện, giáo dục, tôn giáo, nghề nghiệp,
điều nghiên, văn học, nghệ thuật, các phong trào dân vận bảo trọng nhân quyền
v.v.
Khi tự nguyện thành lập đúng theo khuôn
khổ và thủ tục pháp định, tổ chức XHDS có dịp công khai, minh bạch hoá mục tiêu
và sứ mạng theo đuổi, với kết quả đóng góp thế lực và ảnh hưởng dân chủ trong
lĩnh vực sinh hoạt cộng đồng.
Sinh hoạt hợp pháp của tổ chức XHDS
cũng cho phép lượng giá hệ thống công quyền hiện hữu là dân chủ tự do nếu tôn
trọng hoạt động chính thống của XHDS, còn không sẽ phải coi là chuyên chế, phản
dân chủ, khi cấm đoán, kìm kẹp, kiểm soát các tổ chức tập thể này. XHDS
phải được minh thị tôn trọng như một nhu cầu chính đáng của dân, do dân, vì
dân. Mọi hình thức tổ chức XHDS khác đều có tính cách trá hình, lươn lẹo,
vừa phản động ngược chiều, vừa vô hiệu, phí phạm nhân lực, tài lực.
Nhiều thống kê đã cho thấy, mức độ tăng
trưởng về dân chủ chân chính đưa tới tình trạng gia tăng lợi tức quốc gia và tức
nhiên gia giảm cảnh nghèo khó trong xã hội đó. Tuyệt nhiên, xoá đói
giảm nghèo không thể thực hiện bằng chính sách a tòng tài phiệt ngoại bang
bóc lột nhân công, xuất khẩu lao động, bán dâu cho ngoại quốc.
Ngoài các yếu tố tư bản và kỹ thuật tân
trang, phương thức đầu tư nhân sự một cách thiết thực, lâu bền, cùng thể thức
tôn trọng pháp luật, bảo trọng quyền tư hữu và tự do mậu dịch vẫn là những
thành tố của một môi trường hữu hiệu trong việc xoá đói giảm nghèo, với sự phối
hợp viễn kiến, lòng bác ái nhân từ của thế lực đa phương phục vụ quyền lợi và
nhu cầu nhân dân.
Hơn nữa, trong một xã hội vững bền, đầy
đủ tiện nghi, có văn hoá nhân bản bình đẳng, bình quyền, bình sản, tôn trọng
pháp luật, bảo trọng nhân phẩm thì nạn tham nhũng sẽ giảm thiểu tối đa.
4. Diễn
Tiến Dân Chủ ở Bình
Diện Văn Hoá Sáng Tạo
Dân chủ tự nó không có ý nghĩa gì cả.
Nó không phải là một tặng dữ có sẵn, bất biến, cho không, biếu không, như quả
sung văn minh rụng xuống miệng người tiêu thụ. Dân chủ chỉ khởi phát khi
chính quyền và người dân ở mọi tầng lớp trong nước [a] thực sự quan tâm tới dân
chủ, [b] có nhu cầu và khả năng hội nhập một nền văn hoá dân chủ,[33] với
chủ trương:
1. bảo trọng và phát huy một nền văn
hoá đa dạng trên căn bản tương nhượng, đối trọng, bình đẳng, không cho
phép bất cứ truyền thống, tư tưởng, tín ngưỡng nào trở thành độc tôn, độc chiếm
ảnh hưởng, hay có ưu thế lấn át những thành tố khác.
2. bảo trọng và phát huy một nếp sống hội
nhập sinh hoạt dân chủ, tự do, cởi mở, không quá khích, mà quyền lợi và trách
nhiệm phải đối xứng, cân bằng.
3. bảo trọng và phát huy một đạo sống tự
lập, tự giác, có khả năng hội nhập công ích và quyền lợi chung một cách công bằng,
tự nguyện, không bị áp lực, kìm kẹp.
4. bảo trọng và phát huy một tư
duy đối tác, một quan niệm lãnh đạo tự kiểm, tự trọng, nhận lãnh trách nhiệm,
không ỷ lại, đổ thừa.
5. bảo trọng và phát huy một nền giáo dục
toàn diện, đào tạo công dân toàn cấp [a] đầy đủ kiến thức sáng tạo, [b] tôn trọng
luật pháp, [c] có ý thức căn bản của một xã hội dân sự trưởng thành, tự duy, tự
phát [c] có tự do và khả năng tranh luận, đối kháng, [d] có khả năng và trách
nhiệm quyết định trong sáng, hoạt động minh bạch.
6. trau dồi đạo sống kết sinh những
truyền thống cũ và mới có giá trị diễn tiến nhân bản, [a] về mặt kiến thức sáng
tạo và kỹ thuật cập nhật, [b] về phúc lợi vật chất, tâm linh khả ứng nhu cầu địa
phương, khu vực và toàn thế giới, trên đà hội nhập và tiến hoá nhân loại.
7. xác định dân chủ [a] vừa là một hứa hẹn phát
huy tự do và phẩm giá nhân bản qua công bằng xã hội, chính trị, kinh tế, văn hoá,
[b] vừa là một thách đố tích cực khi lịch
trình tiến hoá dân chủ lại do chính người dân – thuộc mọi giới, mọi khả năng, mọi
xu hướng – đảm nhận, thực hiện, không ai khác.
Để Tạm Kết
Trước thời điểm kết thúc chế độ cộng sản
tại Châu Âu vào năm 1989, trong lúc Đông Đức còn ra uy cử hành kỷ niệm 40 năm
thống trị, Gorbachev khi tới tham dự đã cảnh cáo lãnh tụ Erich Honecker sớm cải
cách giải thể: “Ai chậm trễ sẽ mất mạng” [Wer zu spät kommt, den bestraft das Leben/He who is
too late is punished by life).[34] Chắc
chắn ngày hôm nay, các lãnh tụ CSVN cũng đã từng nghe những lời nhắn nhủ, cảnh
cáo tương tự, trong và ngoài nước.
Phải chăng những lời tuyên bố lập đảng
Dân Chủ Xã Hội của hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận
- là những phát biểu cá
nhân phản tỉnh; những phản kháng leo teo, lạc lõng, rồi nín
bật;
- hay là ý nguyện chung
của “cánh ly khai” đảng CSVN mỗi lúc mỗi ồ ạt để thực sự trở
thành lực lượng đối lập;
- hay là lời mở đường cho
giới lãnh đạo chuẩn bị giải thể chếđộ CSVN để
tự lột xác sống còn dưới trướng dân tộc tự quyết.
Cựu Tổng Thống Nga Boris Yeltsin
đã từng tuyên bố: “… Người Cộng sản bất trị, không có thuốc chữa,
mà phải trừ tiệt” (Communists are incurable, they must be eradicated).
Sớm muộn gì chế độ CSVN độc tài toàn trị sẽ phải giải thể hay tự hủy trước phong trào diễn tiến
dân chủ.
Riêng đối với đại chúng —
toàn dân mọi thế hệ, mọi giới, mọi khả năng, mọi xu hướng — khi đã ý
thức nhu cầu cấp bách của đại cuộc vận chuyển theo hoài bão và tương
lai dân tộc, sự chậm trễ nhập cuộc diễn tiến dân chủ chân chính,
có tự do và nhân quyền, là một lỗi lầm lịch sử cần phải chấm dứt
kịp thời.
TS & LS Lưu Nguyễn Đạt
Dec 31, 2014, cập nhậtậ Oct 28, 2015
Dec 31, 2014, cập nhậtậ Oct 28, 2015
[1] John
Foster Dulles (February 25, 1888 – May 24, 1959) served as U.S.
Secretary of State under President Dwight D.
Eisenhower from 1953 to 1959. He was a significant figure in the early
Cold War era, advocating an aggressive stance against communism throughout
the world.
[2] Asia
Times Online: Hu warns successors over “peaceful
evolution”’
[3] 1959:
Preventing Peaceful Evolution | China Heritage Quarterly
[4] The Soviet
theory of peaceful coexistence asserted that the United
States and USSR, and their respective political ideologies, could
co-exist together rather than fighting one another. See endnote #9.
[5] Michael
Schoenhals, ed., China’s Cultural Revolution, 1966-1969: Not a
Dinner Party (Armonk, N.Y.: M.E. Sharpe, 1996. An East Gate
Reader). xix, 400p. ISBN 1563247364.; MacFarquhar Roderick and
Schoenhals, Michael. Mao’s Last Revolution. Harvard
University Press, 2006. ISBN 0674023323
[6] Bài phát
biểu của Hồ Cẩm Đào đã được xuất bản bởi tờ Tìm kiếm Sự Thật,
một tạp chí hàng đầu của ĐCSTQ do Trường Đảng Trung ương điều hành, trong ấn bản
đầu tiên của mình cho năm 2012.
[7] T.Huyền, “Phòng,
chống “Diễn biến hòa bình” ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam, 9 tháng 3 năm 2009.
[8] BBC
Vietnamese – Việt Nam – Diễn biến hòa bình, May 27, 2009.
[9] Khrushchev solidified
the concept in Soviet foreign policy in 1956 at the 20th Congress of the
Communist Party of the Soviet Union. The policy arose as a temptation to reduce
hostility between the two superpowers, particularly in light of the possibility
of nuclear war. The Soviet theory of peaceful coexistence asserted that
the United States and USSR, and their respective political
ideologies, could co-exist together rather than fighting one another, and
Khrushchev tried to demonstrate his commitment to peaceful coexistence by
attending international peace conferences, such as the Geneva Summit, and
by traveling internationally, such as his trip to America’s Camp
David in 1959. The World Peace Council founded in 1949 and
largely funded by the Soviet Union attempted to organize a peace
movement in favor of the concept internationally.
[10] NATO ký kết 4 April 1949.
Các quốc gia thành viên sáng lập & gia nhập trong chiến tranh Lạnh gồm Anh,
Bỉ, Bồ Đào Nha, Canada, Đan Mạch, Hà Lan, Hoa Kỳ, Iceland, Luxembourg, Na Uy,
Pháp, Ý, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, CHLB Đức, Tây Ban Nha. [11] Warsaw
Pact [Khối liên minh quân sự các nước XHCN] ký kết tại Warsaw năm 1955,
gồm Liên Xô, Albania (rút ra năm 1968), Ba
Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, Romania, Tiệp Khắc[12] hostilities
& nuclear war [13] Strategic
Arms Limitation Talks (SALT –I) and the Helsinki Accords
[14] Lech
Walesa. The Struggle and the Triumph: An Autobiography. Arcade (1991).
Tagliabue, John (13 September 1989). “Poles Approve Solidarity-Led Cabinet”.
The New York Times.
[15] József Bayer, “The Process of
Political System Change in Hungary”, inSchriftenreihe des Europa Institutes
Budapest, 2003. “Hungary Purges Stalinism From Its Constitution”. The New York
Times. 19 October 1989.
[16] Mary
Fulbrook. History of Germany, 1918-2000: the divided nation;Bleiker ,
Roland. “Nonviolent Struggle and the Revolution in East Germany” The Albert
Einstein Institution. 1993.
[17] Nelson,
Lars-Erik. New Czechoslovakian Leaders Are As Stunned As Their People. New York
Daily News, 1990-02-21; Wolchik, Sharon L. “Czechoslovakia’s ‘Velvet
Revolution.’” 1990. Current History. 89:413-416,435-437. Retrieved March 11,
2009; Glenn, John K. “Competing Challengers and Contested Outcomes to State
Breakdown: The Velvet Revolution in Czechoslovakia”. September 1999. Social
Forces. 78:187-211. Retrieved March 11, 2009
[18] Crampton,
R.J., A Concise History of Bulgaria, 2005, pp.205, Cambridge
University Press
[19] Sebetsyen,
Victor (2009). Revolution 1989: The Fall of the Soviet Empire. New York City
[20] Glenny,
Misha (1996). The fall of Yugoslavia: the third
Balkan war. Penguin Books
[21] Sebetsyen,
Victor (2009). Revolution 1989: The Fall of the Soviet Empire.
New York City
[22] Trung
Hoa, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Lào, Cao Mên
[23] proxy
war
[24] remote
war of containment
[25] state
capitalism
[26] Renovation [27] Oligarchic
privatization; déceptive acquisition & détournement de fonds publics; [28] attribution de pouvoir
représentatif[29] attribution de pouvoir
possessif ou de mainmise
[30] abuse of
power/accaparement de pouvoir
[31] mise
en accusation/removal, impeachment
[32] Marché
de monopole
[33] cultural
democracy
[34] Wer
zu spät kommt, den bestraft das Leben/He who is too late is punished by life).Sebetsyen,
Victor (2009). Revolution 1989: The Fall of the Soviet Empire. New York City
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks