....Sau khi
nghe xong bản nhạc, bạn hãy nghĩ đến những nhạc sĩ miền Nam trước
năm 1975.
Sau đó, bạn hãy tự hỏi, ‘’Liệu có nhạc
sĩ hay thi sĩ nào sống trong chế độ cộng sản tại Việt Nam có thể
viết được câu nào hay như những câu trong nhạc miền Nam trước năm 75 ?’’
HỒN LỠ SA VÀO ĐÔI MẮT EM
VỀ
ĐÂU MÁI TÓC NGƯỜI THƯƠNG
‘’Hồn
lỡ sa vào đôi mắt em’’
Cao Đắc Tuấn
Tóm lược:
Câu
‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt em’’ trong bản nhạc Về Đâu Mái Tóc Người
Thương là một trong những câu ca hay nhất, phản ảnh nền văn hóa nhân
bản của miền Nam Việt Nam trước năm 1975 vì ý tưởng sâu sắc và cách
dùng chữ tinh tế. Lối diễn tả tha thiết chân thành này có được là
vì sức sáng tạo trong nền văn hóa miền Nam trước năm 1975 được nuôi
dưỡng và phát huy trong xã hội tự do của miền Nam dưới chính thể
Việt Nam Cộng Hòa. Câu này thực ra chỉ là một trong hàng ngàn hàng
vạn câu nhạc hay, đầy ý nghĩa, trong những bản nhạc tại miền Nam
trước năm 1975 mà người cộng sản cho là ủy mị, yếu đuối, và ru ngủ.
Tuy nhiên, sự sống lại và thịnh hành hiện nay của âm nhạc miền Nam
trước năm 1975 cho thấy sức mạnh bền bỉ của tình người qua những câu
ca tha thiết chân thành và cách dùng tiếng Việt sâu sắc nhẹ nhàng.
***
Đa số người Việt ưa chuộng âm nhạc đều biết ‘’Hồn lỡ sa
vào đôi mắt em’’ là câu đầu của bản nhạc Về đâu mái tóc người thương
do Nhạc Sĩ Hoài Linh viết vào năm 1964 Theo tôi nghĩ, bản nhạc Về đâu
mái tóc người thương là một trong những bài nhạc tình hay nhất trong
giòng nhạc miền Nam trong giai đoạn 1954-1975. Chắc chắn sẽ có nhiều
người không đồng ý; nhưng mỗi người thưởng thức thi ca và văn chương
khác nhau, và sự đánh giá thi ca và văn chương rất chủ quan. Do đó,
tôi không muốn tranh cãi về sự đánh giá đó. Trong bài này, tôi chỉ
muốn trình bày lý do tại sao tôi cho rằng câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt
em’’ là một trong những câu tiếng Việt hay nhất trong thi ca Việt Nam
và chuyện đó có được là nhờ xã hội tự do của miền Nam trước năm
1975. Tôi sẽ không thảo luận về khía cách âm nhạc mà sẽ chỉ chú
trọng vào tính chất văn chương của câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt em.’’
Âm nhạc miền Nam trước năm 1975 là cả một kho tàng quý
báu của văn hóa miền Nam, đại diện một nền văn hóa nhân bản, đầy
tình cảm con người, của cả dân tộc Việt Nam. Tôi chọn câu ‘’Hồn lỡ sa
vào đôi mắt em’’ trong bài này là một thí dụ để chứng minh nền văn
hóa miền Nam trước năm 1975 là một nền văn hóa dồi dào, đẹp đẽ, đạo
đức, phù hợp với bản chất dân tộc Việt. Ngoài ra, tôi cũng muốn chứng
minh tiếng Việt là một tiếng phong phú, nhẹ nhàng, súc tích, và có
sức diễn tả tình cảm mãnh liệt.
Tôi đã viết một chút về chính tả và ngữ pháp tiếng
Việt (Cao-Đắc 2014, 451-487). Ngoài sự trình bày ý kiến về chính tả
(thí dụ như diễn hành/ “diễu hành”, dòng/ “giòng”, sử dụng/ “xử
dụng”, phản ảnh/ “phản ánh”) và từ ngữ Hán Việt, tôi có bày tỏ
nỗi lo âu là liệu người Việt, nhất là giới trẻ hiện nay, dưới sự
tràn ngập của những từ ngữ kỳ lạ, đặc biệt Hán Việt, đang được
dùng rộng rãi tại Việt Nam, còn nhớ, hoặc biết cách diễn tả ý
tưởng với từ ngữ đơn sơ nhưng có tác dụng mãnh liệt. Bài này cho
một thí dụ về cách dùng chữ tuyệt diệu trong tiếng Việt qua lời
một câu trong một bài hát của nền âm nhạc miền Nam trước năm 1975.
Trước hết hãy phân tách ý nghĩa của câu ‘’Hồn lỡ sa vào
đôi mắt em’’ trong nội dung bài nhạc Về đâu mái tóc người thương.
Nguyên văn lời bản nhạc như sau:
Hồn lỡ sa vào đôi mắt em
Chiều nao xõa tóc ngồi bên rèm
Thầm ước nhưng nào đâu dám nói
Khép tâm tư lại thôi
Đường hoa vẫn chưa mở lối
Đời lắm phong trần tay trắng tay
Trời đông ngại gió lùa vai gầy
Lầu kín trăng về không lối chiếu
Gác cao ngăn niềm yêu
Thì thôi mơ ước chi nhiều
Bên nhau sao tình xa vạn lý cách biệt mấy sơn
khê
Ngày đi mắt em xanh biển sâu, mắt tôi rưng rưng sầu
Lặng nghe tiếng pháo tiễn ai qua cầu
Đường phố muôn màu sao thiếu em
Về đâu làn tóc xõa bên rèm
Lầu vắng không người song khép kín
Nhớ em tôi gọi tên, chỉ nghe lá rơi bên thềm
Bài hát là lời tâm sự của một chàng trai về mối tình
của anh. Đó là chuyện tình giữa một chàng trai nghèo (Đời lắm phong
trần tay trắng tay) và một cô gái kín cổng cao tường (Lầu kín, Gác cao).
Mối tình đó là mối tình câm một chiều, nghĩa là chàng trai chỉ yêu
thầm trộm nhớ cô gái (Thầm ước nhưng nào đâu dám nói), và chưa bao giờ
tỏ tình với nàng mà chỉ biết nhìn nàng xõa tóc bên màn cửa (Chiều
nao xõa tóc ngồi bên rèm) trên gác cao (Gác cao ngăn niềm yêu). Sau đó nàng
lên xe hoa về nhà chồng (Lặng nghe tiếng pháo tiễn ai qua cầu), và chàng
trai chỉ còn biết khóc (mắt tôi rưng rưng sầu) và nhớ nàng (Nhớ em tôi
gọi tên) qua mái tóc xõa bên rèm cửa sổ (Về đâu làn tóc xõa bên rèm).
Câu chuyện chỉ có vậy thôi, khó mà được gọi là chuyện
tình éo le phức tạp. Nhiều người còn gọi bài nhạc là nhạc sến.
Nhưng bài hát này, như rất nhiều bài hát miền Nam trong 1954-1975
khác, rất được ưa thích không những vì lời nhạc tuyệt diệu, mà còn
âm thanh trầm bổng, giai điệu du dương, nhất là khi được phụ họa với
tiếng đàn bầu não nuột, tiếng đàn tranh rả rích, hoặc giọng hát
truyền cảm của người ca sĩ được yêu thích nào đó.
Trước khi đi sâu vào vấn đề, ta cũng nên biết chút đỉnh
về tác giả bài hát, Nhạc Sĩ Hoài Linh. Nhạc Sĩ Hoài Linh (đừng lẫn
lộn với nghệ sĩ Hoài Linh thường đóng vai hài trong các vở kịch) tên
thật là Lê Văn Linh, sinh năm 1925 tại miền Bắc Việt Nam và mất năm
1995 tại Sài Gòn.
Không rõ ông vào Nam năm nào, nhưng ông từng phục vụ
dưới chính thể Việt Nam Cộng Hỏa trong đoàn văn nghệ Vì Dân (thuộc Nha
Cảnh Sát Quốc Gia) với cấp bậc Trung Úy (Wikipedia 2014). Ngoài bài Về Đâu
Mái Tóc Người Thương, ông là tác giả của nhiều bài hát nổi tiếng như
Sầu Tím Thiệp Hồng, Căn Nhà Màu Tím, Hai Đứa Giận Nhau, Nhịp Cầu Tri Âm, Lá Thư
Trần Thế…Ông có tài đặt lời ca rất hay, văn hoa, có vần có điệu. Theo Wikipedia
(2014), ‘’mỗi lần soạn nhạc, ông viết ra giấy cả một lô danh từ hay tính từ
cùng vần với câu trên để ông để lựa chọn. Hoài Linh thích sử dụng từ Hán Việt.’’
Ông viết lời nhạc hay đến độ ‘’nhiều nhạc sĩ đã nhờ ông viết lời nhạc của
mình như Minh Kỳ, Tuấn Khanh, Tấn An, Song Ngọc, Mạnh Phát, Văn Phụng, Nguyễn
Hiền…’’ (Wikipedia 2014).
Hoài Linh không phải là nhạc sĩ được ưa chuộng nhất trong
giòng nhạc vàng. Thực ra, ông không nổi tiếng hơn những nhạc sĩ khác
như Phạm Duy, Trúc Phương, Trịnh Công Sơn, Trần Thiện Thanh, Y Vân, Hoàng
Thi Thơ. Nhiều người còn không biết ông là ai. Ngay cả nghệ sĩ hài
Hoài Linh cũng không biết là anh lấy tên của ông. Chỉ sau này có
người nói, anh mới tìm tòi và biết đến ông. Nhưng câu ‘’Hồn lỡ sa
vào đôi mắt em’’ là một trong những câu hát hay nhất diễn tả tình
cảm nhẹ nhàng và sâu sắc bằng từ ngữ đơn sơ trong sáng.
Ý nghĩa và cách dùng chữ trong câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi
mắt em’’
Câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt em’’ có ý nghĩa trực tiếp là
hồn của chàng trai rơi vào đôi mắt cô gái. Sau đây, tôi sẽ phân tách ý
nghĩa của câu và cách dùng chữ trong câu này.
Khi nói đến ‘’đôi mắt’’ và ‘’hồn,’’ ai cũng sẽ liên tưởng
đến câu ngạn ngữ Anh ‘’Con mắt là cửa sổ linh hồn.’’ Nguồn gốc của
câu này được cho là đến từ Kinh Thánh, Matthew 6:22-23. Ngoài ra, người
Pháp nói, ‘’Les yeux sont le miroir de l’âme’’ (The eyes are the mirror of
the soul – Đôi mắt là gương của linh hồn).
Dù là cửa sổ hay gương, cả
hai đều có cùng nghĩa là con mắt phản ảnh cái sâu xa bên trong của
một người.
Đôi mắt của người con gái trong bài hát, do đó, phản ảnh
tâm hồn cô ấy. Vậy thì tại sao Hoài Linh lại viết hồn của anh ta rơi
vào đôi mắt cô ? Hoài Linh có nghĩ đến cái ví von con mắt là cửa sổ
linh hồn khi ông viết câu đó không ? Theo tôi nghĩ, câu trả lời là
không. Cái diễn tả đơn giản và chính xác nhất là đôi mắt của cô gái
quá đẹp nên đã hớp hồn chàng trai. Người Việt dùng chữ ‘’hớp hồn’’
để diễn tả sự mê mẩn, ngẩn ngơ đến độ như người không còn hồn vía.
Cái mê mẩn, ngẩn ngơ đó thường do bởi một sắc đẹp quyến rũ, một
hình ảnh thôi miên, hoặc một giọng nói thu hút. Một trong những nét
đẹp quyến rũ của người con gái là đôi mắt. Đôi mắt của thiếu nữ đã
là đề tài của biết bao nhiêu bài thơ và lời nhạc (Xem, thí dụ như,
Vương 2003). Do đó chuyện chàng trai bị mê hoặc bởi đôi mắt cô gái
không lấy gì là lạ. Nhưng cách Hoài Linh diễn tả nỗi mê mẩn đôi mắt
đó thật là tuyệt vời, như sẽ được trình bày sau đây.
Trong cả bài, Hoài Linh chỉ nhắc đến hai khía cạnh về
nhan sắc của nàng: Đôi mắt và mái tóc. Với câu mở đầu, Hoài Linh cho
thấy chính đôi mắt cô gái đã khiến chàng trai mê mệt. Sau này, khi cô
ta đi lấy chồng, cũng chính đôi mắt cô đã khiến chàng đau khổ vì
‘’mắt em xanh biển sâu’’ nói lên nỗi hạnh phúc, mơ mộng, trong khi mắt
chàng ‘’rưng rưng sầu.’’
Một câu hỏi là chàng trai mê cô ta vì đôi mắt hay vì mái
tóc ? Nếu dựa vào nhan đề của bản nhạc (Về đâu mái tóc người
thương), có người sẽ nghĩ rằng chàng si mê mái tóc của cô hơn. Tuy
nhiên, tôi nghĩ chàng si mê đôi mắt cô ta hơn. Câu đầu đã khẳng định
chuyện đó một cách rõ ràng. Lý do Hoài Linh dùng ‘’mái tóc’’ trong
nhan đề không phải là hàm ý rằng chàng yêu mái tóc cô hơn đôi mắt cô,
mà vì mái tóc là hình ảnh chàng ghi nhận được nhiều nhất qua những
lần nhìn nàng xõa tóc bên song cửa sổ trên gác cao. Cái hình ảnh đó
trở nên quen thuộc với chàng khiến chàng ngẩn ngơ khi không còn thấy
nàng xõa tóc bên song cửa sổ nữa vì song cửa sổ đã bị khép kín,
và tự hỏi làn tóc xõa bên rèm đó nay đi về đâu. Chính cái nhớ nhung
mái tóc diễn tả tâm trạng của chàng và đó là lý do Hoài Linh dùng
mái tóc trong nhan đề của bản nhạc. Chàng trai yêu đôi mắt cô gái qua
câu mở đầu rất mạnh mẽ và sâu sắc, nhưng lại nhớ mái tóc của cô khi
cô gái đi lấy chồng. Trong tình yêu, cái bạn yêu không nhất thiết là
cái bạn nhớ. Hoài Linh hiểu rõ chuyện đó hơn ai hết thẩy.
Quan trọng hơn, Hoài Linh diễn tả mối tình chàng trai qua
đôi mắt cô gái một cách tinh tế và sâu sắc, bằng cách dùng thể chủ
động và tác nhân chủ động là hồn chàng trai (thay vì đôi mắt cô
gái): Hồn chàng trai sa vào mắt cô gái. Dùng thể chủ động (active
voice) thay vì thụ động (passive voice) và dùng tác động hậu quả sa
vào cho thấy chính chàng trai là người chịu trách nhiệm cho chuyện
bị hớp hồn.
Có hai cách để diễn tả việc đôi mắt cô gái hớp hồn
chàng trai:
(1) Đôi mắt nàng thu hút hồn chàng trai.
(2) Hồn chàng trai rơi vào đôi mắt nàng.
Có hai tác động: Tác động nguyên nhân là tác động tạo ra
một phản ứng từ đối tượng và tác động hậu quả là tác động do bởi
phản ứng với tác động nguyên nhân. Thu hút là tác động nguyên nhân
tạo ra hậu quả là phản ứng rơi vào. Câu (1) dùng tác động nguyên nhân
và tác nhân là đôi mắt cô gái Câu (2) dùng tác động hậu quả và tác
nhân là hồn chàng trai.
Tuy hai câu (1) và (2) diễn tả cùng một cảnh tượng, cách
dùng thể và dùng chữ của mỗi câu có ý tưởng và hàm ý khác nhau.
Câu (1) hàm ý đổ lỗi cho đôi mắt của cô gái. Câu (2) hàm ý chàng trai
là người chịu trách nhiệm cho việc si mê nàng. Bằng cách dùng thể
chủ động và tác nhân chủ động là hồn chàng trai với tác động hậu
quả diễn tả qua câu (2), Hoài Linh diễn tả cái tình cảm ‘’anh hùng’’
và cao thượng trong tình yêu một cách tế nhị và sâu sắc tuyệt vời.
Chàng trai không trách đôi mắt cô gái quá đẹp đã hớp hồn anh, mà anh
tự nhận là chính hồn anh đã rơi vào đôi mắt cô gái. Cái tinh tế đó
là bản chất của người Việt. Người Việt, khi diễn tả một hành động
về một đối tượng đáng kính đáng yêu, không bao giờ nói hay viết một
cách thẳng thắn vì không muốn xúc phạm đến đối tượng đáng kính
đáng yêu đó.
Nếu cái tính chất cao thượng và sâu sắc của hồn chàng
trai rơi vào đôi mắt cô gái được diễn tả một cách tinh tế như trên,
cách dùng từ ngữ của Hoài Linh còn cho thấy ông lột trần được sức
diễn tả kỳ diệu của tiếng Việt.
Từ lỡ trong câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt em’’ được dùng
một cách tuyệt diệu. Hoài Linh đã biến một từ rất là đơn giản
thành một từ có sức diễn tả thâm thúy và tinh vi. Trong câu này, lỡ
là trạng từ, hàm ý một hành động đáng tiếc, thiếu cẩn thận. Thí
dụ, ‘’Tôi lỡ làm đổ ly nước,’’ ‘’Cô ta lỡ mua cái áo đắt tiền đó.’’
Đi với sa vào, lỡ hàm ý chuyện hồn chàng trai rơi vào đôi mắt cô gái
là chuyện đáng tiếc, không nên làm (nhưng đã làm rồi). Tại sao đó là
chuyện đáng tiếc ? Chàng trai biết là mình không nên yêu nàng vì đó
là một mối tình vô vọng khi anh nghèo khó, tay trắng tay, trong khi
nàng là con gái nhà giàu, kín cổng cao tường. Anh biết là anh không
nên ‘’mơ ước chi nhiều’’ nhưng anh không thể kềm được, vì anh đã lỡ yêu
nàng rồi. Anh tự trách mình. Bằng cách dùng từ lỡ, Hoài Linh thể
hiện hai ý tưởng. Thứ nhất, chuyện hồn anh sa vào đôi mắt nàng là
chuyện không toan tính hoăc chuyện không nên làm. Thứ nhì, chàng trai
nhận trách nhiệm trong lỗi lầm đó, và tự trách mình.
Về hình thức, Hoài Linh thể hiện cách dùng tiếng Việt
một cách tuyệt vời. Từ lỡ hàm ý một ý thức về một hành động.
Dùng với hồn, lỡ nhân cách hóa cái linh hồn, và cho linh hồn là một
thực thể có ý thức. Thay vì viết ‘’Tôi lỡ để hồn tôi sa vào đôi mắt
em,’’ ông viết ‘’Hồn tôi lỡ sa vào đôi mắt em’’ như thể hồn là một
thực thể có ý thức, hoặc hồn có một trí tuệ có khả năng điều
khiển hành động. Ngoài ra, từ lỡ mang ý nghĩa nhẹ nhàng và dè dặt.
Một từ tương tự là trót, cũng có nghĩa là làm một chuyện sai lầm.
Trót và lỡ đều là vần trắc, do đó cả hai đều có thể có cùng vần
điệu cho bài hát; nhưng trót có ý nặng hơn và hàm ý sự sai lầm đó
là dại dột (trót dại), điên rồ, hoặc vô đạo đức (tay trót nhúng chàm).
Chàng trai không nghĩ là chuyện hồn anh sa vào mắt cô gái là chuyện
dại dột hoặc điên rồ, mà chỉ là chuyện lẽ ra không nên làm thì tốt
hơn.
Nếu Hoài Linh dùng từ lỡ một cách tuyệt diệu, ông còn
dùng từ sa vào như là một đũa thần linh hoạt đem đến mầu sắc rực
rỡ cho toàn câu.
Cũng như lỡ, sa vào rất là đơn giản. Không cầu kỳ, không
trau chuốt, và rất là Việt Nam. Một cách đơn giản, sa vào có nghĩa
là rơi vào; nhưng sa có một ý nghĩa sâu sắc hơn rơi. Sa có hàm ý tiêu
cực, không tốt, tai họa, không may hoặc may mắn một cách không chân
chính, không ngờ, có thể do bởi một cái bẫy, một cám dỗ, một sự
bất cẩn, hoặc một tai ương nào đó. Có nhiều thành ngữ dùng sa với
ý nghĩa tiêu cực như chuột sa chĩnh gạo, bút sa gà chết, chim sa cá
lặn, gió táp mưa sa, sa cơ lỡ vận. Sa vào còn ngụ ý vướng víu, không
thoát ra được như con ruồi sa vào vũng mật ngọt. Động tác sa còn tạo
ra hình ảnh rơi thẳng, nhanh, và không có gì cản trở được (chim sa cá
lặn), hoặc với một cường độ mãnh liệt (gió táp mưa sa).
Trong câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt em,’’ sa vào vẽ ra một
hình ảnh sống động của hồn chàng trai rơi vào đôi mắt cô gái đột
ngột một cách không cưỡng lại được, và hồn anh ta giẫy giụa trong
vũng lầy níu kéo của đôi mắt cô gái. Một khía cạnh quan trọng của
sa vào trong nội dung câu này là sa vào, khác với lỡ, không có hàm ý
tự trách mình. Ngược lại, sa vào hàm ý đổ lỗi cho cái cạm bẫy của
đôi mắt cô gái. Đôi mắt đẹp của cô gái như bãi mật ngọt, lưới nhện
giăng là bẫy để hớp hồn chàng trai. Sự đổ lỗi rất là tế nhị và
sâu sắc, như một lời trách móc nhẹ nhàng: ‘’Tại em đẹp quá nên tôi
mới yêu em.’’
Hai từ lỡ và sa được đặt sát bên cạnh nhau. Cả hai có ý
nghĩa tương tự (hành động sai lầm) nhưng một thì tự trách mình và
một thì trách đối tượng. Ý nghĩa trách móc rất là tinh tế nhẹ
nhàng và có tác dụng đối nghịch nhau, như thể bào chữa cho nhau;
nghĩa là tuy mỗi người chịu trách nhiệm trong chuyện này nhưng khi xem
xét toàn bộ, cả hai đều không có lỗi gì cả. So sánh câu đó với câu
‘’Hồn đã rơi vào đôi mắt em,’’ ta thấy ngay sức mạnh của hai từ lỡ
và sa vào như thế nào.
Toàn bộ câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt em’’ gói ghém những
ý nghĩa tinh tế, sâu sắc, đầy tình cảm, và nhẹ nhàng. Đọc lên câu
đó, ai cũng có thể hiểu được tâm trạng và tình cảm của chàng trai
dành cho cô gái. Tình yêu của chàng không nồng nàn, vũ bão, cuồng
nhiệt, vị kỷ, mà thanh khiết, cao thượng, lãng mạn, nhẹ nhàng, và
dè dặt.
Đọc tới đây, chắc nhiều độc giả cho rằng tôi phân tách câu
‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt em’’ quá đáng, và Hoài Linh chắc là không suy
nghĩ kỹ lưỡng như vậy đâu. Đúng, tôi đồng ý. Tôi không tin là Hoài
Linh phải suy nghĩ hàng giờ hoặc hàng ngày khi viết câu ‘’Hồn lỡ sa
vào đôi mắt em.’’ Thực ra, vì câu đó quá hay, tôi tin rằng Hoài Linh
nghĩ ra câu đó trong chớp nhoáng, có thể khi ông đang gẩy đàn tìm
lời. Những gì tự phát, không chuẩn bị, không cân nhắc kỹ lưỡng,
thường là những gì trung thực, phản ảnh tâm trạng và nỗi lòng người
viết. Và những gì trung thực, phản ảnh tâm trạng con người là những
gì hay nhất.
Hoài Linh quả là một thiên tài trong âm nhạc, tạo dựng
một bài hát có âm điệu da diết và lời lẽ tinh tế. Thêm vào đó,
tiếng Việt, với những từ ngữ kỳ diệu như lỡ, sa vào, đã giúp ông
viết được những lởi nhạc mê hồn. Điểm đặc biệt trong bài là Hoài
Linh chỉ dùng ba từ Hán Việt: Phong trần, vạn lý, và sơn khê. Trái
với lời đồn, hầu như tất cả những bản nhạc của Hoài Linh dùng rất
it từ ngữ Hán Việt. Ngược lại, theo tôi nghĩ, ông dùng tiếng Việt đơn
giản, it màu mè trau chuốt. Có những câu rất mộc mạc nhưng tha thiết
(Hậu Giang tôi cũng kiếm/ Miền Trung tôi cũng tìm trong Nhịp Cầu Tri Âm), đơn
giản nhưng sâu sắc (Trẻ thơ yên tâm sách đèn trong Lá Thư Trần Thế), trẻ
con nhưng nồng nàn (Nắm tay hết giận hết hờn trong Hai Đứa Giận Nhau).
Lối diễn tả thiết tha chân thành tự phát trong thi ca được
tạo ra từ một xã hội tự do
Ngoài chuyện những bài hát viết trong miền Nam năm
1954-1975, còn gọi là nhạc vàng, có âm điệu trữ tình, nhẹ nhàng, du
dương, những lời nhạc cũng rất là thiết tha, chân thành, và đầy tình
cảm, dùng tiếng Việt trong sáng, đơn sơ, phong phú. (Tôi sẽ không đi sâu
vào sự khác biệt giữa ‘’ âm nhạc/ tình khúc miền Nam 1954-1975’’ và
‘’nhạc vàng’’ nhưng trong bài này, tôi dùng hai biểu hiện đó như nhau)
Như đã trình bày ở trên, Hoài Linh không phải là nhạc sĩ nổi tiếng
nhất. Câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt em’’ đương nhiên không phải là câu hay
nhất trong âm nhạc miền Nam năm 1954-1975. Còn có cả ngàn, vạn câu hay
như vậy. Tôi không thể viết hết ra được. Nhưng hãy lắng nghe những câu
sau đây:
– Và se tơ kết tóc – giam em vào lòng thôi trong Ngày Đó Chúng
Mình – Phạm Duy
– Sóng vỗ về ru giấc quê hương/Nhưng quê hương chưa ngủ trong
Biển Mặn – Trần Thiện Thanh
– Mơ thấy một ngày con níu chân cha trong Trộm Nhìn Nhau – Trầm
Tử Thiêng
– Ngày nao súng phải thẹn thùng trong Đa Tạ – Anh Việt Thu
– Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ trong Tình Xa
– Trịnh Công Sơn
– Cỏ may đan dấu chân tròn trong Bông Cỏ May – Trúc Phương
– Tóc buông giữ vẹn lời thề trong Xa Vắng – Y Vân
– Lòng tuôn đong đầy trang giấy trong Phút Đầu Tiên – Hoàng Thi
Thơ
– Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết trong Áo lụa Hà Đông – Ngô
Thụy Miên
– Cho em môi hôn vội vàng trong Tình Khúc Cho Em – Lê Uyên
Phương
– Tình yêu là những ngôi sao bay vèo trong đêm trong Tình Là
Sợi Tơ – Anh Bằng
– Trả súng đạn này, ôi sạch nợ sông núi rồi trong Một Mai Giã
Từ Vũ Khí – Trịnh Lâm Ngân (Nhật Ngân).
Giống như câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt em,’’ các câu hát
trên rất là đơn sơ nhưng thiết tha, chân thành, và có mãnh lực rung
động tình cảm. Cách dùng chữ rất tinh tế và sâu sắc. Vi những câu
đó quá đơn giản, quá chân thành, và thể hiện tình cảm con người một
cách chân thật tự nhiên không màu mè, tôi tin rằng những nhạc sĩ miền
Nam trước năm 1975 không nghiền ngẫm từ điển, hoặc tốn hàng ngày hàng
giờ cố tìm lời ca, mà chỉ viết những câu đó một cách tự phát.
Đa số nhạc sĩ, văn sĩ, hoặc thi sĩ thường có cái hứng
‘’tự phát’’ như vậy. Nhưng không phải ai cũng có thể ghi nhận được,
hoặc có được cái hứng ‘’tự phát’’ phản ảnh trung thực tâm trạng
mình. Để làm được chuyện đó, người viết nhạc, văn, thơ phải được
sống trong một môi trường xã hội khuyến khích tự do và sáng tạo.
Chính cái môi trường sinh hoạt cho phép tự do tư tưởng giúp người
viết nhạc, văn, thơ tích tụ và phát huy được những ý tưởng tuyệt
diệu và biết cách diễn tả các ý tưởng đó một cách hữu hiệu.
Môi
trường sinh hoạt đó hiện hữu trong miền Nam trước năm 1975. Chính thể
Việt Nam Cộng Hòa, tuy còn chập chững trong những bước chân đầu tiên
của nền dân chủ, là một chính thể dựa vào nguyên tắc căn bản của
tự do. Xã hội miền Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa là một xã
hội tự do. Người miền Nam ưa chuộng hòa bình và tự do. Người miền
Bắc cũng vậy, nhưng cộng sản miền Bắc đem học thuyết ngoại bang đô
hộ dân miền Bắc và chà đạp tinh thần tự do cố hữu của dân Việt, qua
những quái trạng như vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm.
Dưới sự kiểm soát tư
tưởng và chính sách tẩy não và nhồi sọ, người dân miền Bắc không
có tự do để tích tụ và phát huy những ý tưởng chân thành của con
người Mọi chuyện đều phải hướng về đảng cộng sản, cuộc chiến tranh,
hoặc tôn thờ Hồ chí Minh. ‘’Ở miền Bắc, mọi thông tin mà quần chúng
biết được qua bất kỳ phương tiện truyền thông đại chúng nào đều bị
gạn lọc qua một thể thức kiểm tra được chính quyền, và sau cùng là
đảng cộng sản, kiểm soát chặt chẽ; trong miền Nam, mặc dù kiểm
duyệt hiện hữu, những quan điểm rất khác biệt về các vấn đề xã
hội, kinh tế, quân sự, và ngay cả chính trị luôn luôn được biểu lộ
với sự tự do rộng rãi hơn không thể so sánh được’’ (Jamieson 1995,
290). Chính ‘’sự tự do rộng rãi hơn không thể so sánh được’’ đã nuôi
dưỡng và phát huy sức sáng tạo mãnh liệt về phương diện văn chương
và thi ca, nhất là âm nhạc, tại miền Nam trước năm 1975.
Mối liên hệ giữa tự do và sáng tạo được hiểu rõ trên
nhiều khía cạnh. Đức Đạt Lai Lạt Ma từng tuyên bố (2010), ‘’Không có
tự do, sự sáng tạo không thể nào nẩy nở.’’ Trong âm nhạc, tự do và
sáng tạo luôn luôn đi đôi với nhau. Johnson-Laird, khi nghiên cứu mối liên
hệ này, nhận xét (1988, 207), ‘’Tự do lựa chọn xảy ra hay nhất trong
những hoạt động sáng tạo.’’ Trong giáo dục, không có tự do, khó mà
có được sáng tạo: ‘’Tự do là điều kiện cần thiết cho sáng tạo’’
(Erez 2004, 134). Chế độ cộng sản tại miền Bắc Việt Nam hạn chế tự
do trong nhiều lãnh vực, nhất là về văn học. Ngược lại, miền Nam
trước năm 1975 hưởng tự do gần như là không hạn chế trong lãnh vực văn
học, thi ca, và âm nhạc; và do đó đã giúp cho sự phát huy cực thịnh
của nền âm nhạc tuyệt diệu sống mãi trong lòng người dân Việt.
Giả sử một người có khả năng như Hoài Linh sống dưới chế
độ cộng sản cố viết một câu tương tự như câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt
em.’’ Có thể ông ta vẫn có được ý tưởng, nhưng ông ta sẽ phải đắn đo
suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi viết ra lời nhạc. Ông ta sẽ phải nghĩ
đến câu đó sẽ có hậu quả gì, chính quyền có cho phép ông ta xuất
bản bài hát không. Ông ta sẽ phải sửa đổi lời nhạc cho thích hợp
với ý thích của chính quyền. Hai câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt em/
Chiều nao xõa tóc ngồi bên rèm’’ có thể sẽ biến thành hai câu lãng
nhách như ‘’Lòng vẫn u hoài thương Bác yêu/ Càng thương càng nhớ càng
yêu nhiều.’’ Chuyện tình câm của chàng trai nghèo với cô gái xõa tóc
bên rèm cửa sổ có thể sẽ biến thành chuyện chàng trai ‘’dũng cảm,
hy sinh tính mạng cho nổ lựu đạn giết quân Ngụy theo lời dậy dỗ của
Bác Hồ’’.
Âm nhạc miền Nam trước năm 1975 có ‘’đồi trụy, ủy mị, yếu
đuối, và ru ngủ’’ hay không ?
Nói đến văn hóa mà không nói đến cái bối cảnh chính trị
là một sự thiếu sót. Văn hóa và chính trị hầu như không thể tách
rời được (Xem, thí dụ như, Nguyễn 2014). Nói đến âm nhạc miền Nam
trong giai đoạn 1954-1975 mà không đề cập đến bối cảnh chính trị là
một sự thiếu sót to tát. Tại sao ? Vì âm nhạc miền Nam trong giai
đoạn 1954-1975 đã bị khai tử khi cộng sản chiếm đóng miền Nam ngày 30
tháng 4 năm 1975, bị chính quyền cộng sản coi là ‘’phản động, ủy mị,
đồi trụy, và ru ngủ.’’ Tuy bị cấm đoán, người dân cả khắp ba miền
Nam, Trung, Bắc vẫn thích nghe nhạc vàng Sau hơn mười năm cấm đoán,
cuối cùng cộng sản phải chịu thua và dần dần cho phổ biến lại một
số bản nhạc của miền Nam trước năm 1975. Nhưng tiếc thay, cho dù các
bài hát của miền Nam được sống lại sau một thời gian câm nín, sự
hồi sinh của âm nhạc miền Nam không thể giúp phát huy nền âm nhạc
Việt Nam vì cái môi trường sinh sống của nền âm nhạc đó không còn
nữa. Chế độ cộng sản đã hủy hoại tính chất nhân bản của văn hóa
và làm suy đồi khả năng sáng tạo của người Việt.
Nền âm nhạc miền Nam Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 thể
hiện bản chất dân tộc Việt Nam một cách tuyệt vời: Hiền hòa, ưa
chuộng hòa bình, đơn sơ, nhún nhường, biết kính trọng, cao thượng, vị
tha, chân thật, mộc mạc, bình dân, lãng mạn, và tình tứ. Trong hoàn
cảnh chiến tranh trong giai đoạn 1954-1975, âm nhạc miền Nam vẫn có
tình thương, kêu gọi hòa bình, ghi nhận những hãi hùng của cuộc
chiến, và những mối tình ngây thơ của tuổi học trò hoặc với người
lính đang xả thân trong lằn tên mũi đạn. Tuy cũng có vài bài nói đến
giết giặc thù, những bài này không chửi rủa phe cộng sản, hoặc kích
động chém giết. mà chỉ ghi nhận thực tế của chiến tranh.
Ngược lại, âm nhạc miền Bắc, còn gọi là nhạc đỏ, đượm
màu sắc kích động chiến tranh, tuyên truyền, hoặc ca ngợi Hồ chí
Minh. Rất it bài chỉ nói về tình yêu trai gái đơn sơ hoặc ước vọng
hòa bình. Người cộng sản tự hào là âm nhạc họ ‘’hào hùng, mạnh
mẽ, phát huy tinh thần dân tộc chống Mỹ diệt Ngụy’’, và coi âm nhạc
miền Nam là ‘’đồi trụy, ủy mị, yếu đuối, ru ngủ tinh thần chiến đấu’’.
Sự đánh giá trị này về âm nhạc miền Nam trước 1975 hoàn toàn sai
lầm.
Nếu âm nhạc miền Nam trong giai đoạn 1954-1975 là ủy mị,
yếu đuối, ru ngủ, và đồi trụy, thì tại sao bây giờ những bài hát
đó được phổ biến khắp nơi trên Việt Nam và hầu như ai cũng ưa chuộng
? Người cộng sản sẽ trả lời rằng trong thời bình, thì những bài đó
không ủy mị, yếu đuối, ru ngủ, và đồi trụy; nhưng trong thời chiến
thì chúng là như vậy. Câu trả lời đó sai lầm vì nhiều lý do.
Thứ nhất, tính chất ủy mị, yếu đuối, ru ngủ không có thời
gian tính và không gian tính. Âm nhạc, giống như thơ văn, phản ảnh con
người. Tính chất của âm nhạc, do đó, phản ảnh bản chất con người.
Chiến tranh có thể thay đổi sự biểu lộ bản chất con người, nhưng
không thay đổi bản chất con người.
Thứ nhì, có chắc là âm nhạc miền Nam trong giai đoạn
1954-1975 là ‘’ủy mị, yếu đuối, hoặc ru ngủ’’ ngay cả trong thời
chiến tranh ? Tôi tin sự thật là ngược lại. Âm nhạc miền Nam 1954-1975
phản ảnh trung thực tâm trạng, cuộc sống, ước vọng, và bản chất
người miền Nam lúc bấy giờ; và cái gì trung thực đều mạnh mẽ, bền
bỉ, và vững chãi.
Đó là lý do tại sao mặc dù đã bị khai tử và
cấm đoán hơn mười năm, âm nhạc miền Nam 1954-1975 vẫn sống lại và còn
được phát huy mạnh mẽ hơn xưa, và được cả dân ba miền ưa chuộng. Ai
dám nói rằng các câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt em, Mơ thấy một ngày con
níu chân cha, Tóc buông giữ vẹn lời thề là ‘’ủy mị ? yếu đuối ? hay ru
ngủ’’ ? Ca ngợi tình yêu là ‘’đồi trụy’’ ? Mơ ước chiến tranh chấm
dứt để trả súng đạn, sạch nợ sông núi là ‘’ủy mị ? đồi trụy’’ ?
Thứ ba, trong một cuộc mâu thuẫn, một phe không thể áp đặt
cái suy nghĩ chủ quan của họ lên phe kia Trong chiến tranh Việt Nam, phe
cộng sản chủ trương phải giết kẻ đối đầu để giành chiến thắng.
Nhưng người miền Nam không nghĩ như vậy. Trong khi phe cộng sản điên
cuồng tấn công miền Nam, người miền Nam chỉ biết giữ thế thủ và tự
vệ, hoặc bảo vệ người thân và dân vô tội. Đặt trường hợp bạn đang
sống an vui trong nhà, một người anh em trong gia đình đi xa từ đâu về đánh
đập con cái bạn, xúi giục chúng chém giết lẫn nhau, và kết tội bạn
là kẻ phục tòng một ông nhà giàu nào đó.
Bạn có coi đó là cuộc
chiến để giành chiến thắng hay không ? Phản ứng bạn đương nhiên là tự
vệ, bảo tồn gia đình và vợ con; nhưng bạn có muốn hô hào con cái
bạn giết người anh em đó không ? Có thể bạn sẽ hô hào con cái bạn
chống trả người anh em đó, nhưng bạn sẽ cố tránh không đào sâu mối
hận thù bằng những lời chửi rủa hoặc chém giết. Ngược lại, bạn sẽ
cố gắng hàn gắn vết thương và thảm khốc của chiến tranh qua những
lời thương yêu, và khuyên nhủ người anh em bạn buông súng ‘’về bên bếp
hồng tay cầm tay.’’ Đó là cái bản chất nhân bản của dân tộc Việt. Cái
bản chất nhân bản thể hiện một phần qua nền âm nhạc chứa chan tình
cảm và yêu thương của miền Nam 1954-1975 mà phe cộng sản gọi là ‘’ủy
mị, yếu đuối, và ru ngủ’’.
Kết luận
Trong bài này, tôi chỉ dùng câu ‘’Hồn lỡ sa vào đôi mắt
em’’ trong bài Về đâu mái tóc người Thương của Hoài Linh để đưa ra
nhận xét rằng lời nhạ̣c trong đa số những bản nhạ̣c của miền Nam
1954-1975 phản ảnh bản chất nhân bản của dân Việt, với lời đơn sơ diễn
tả tình con người thắm thiết. Tôi có thể viết cả ngàn bài tương tự,
mỗi bài cho một câu trong một bản nhạ̣c của miền Nam; nhưng chuyện đó
là chuyện thừa thải. Ai cũng có thể làm được chuyện đó. Bạn thử
làm đi. Hãy nhắm mắt lại, và nghe những bài hát của miền Nam trước
ngày 30 tháng 4, 1975. Bạn hãy để hồn bay bổng theo điệu nhạc du
dương, tiếng đàn réo rắt, và giọng ca truyền cảm của người ca sĩ
bạn yêu thích.
Bạn sẽ thấy muôn hình vạn trạng của bản chất dân tộc
Việt như những bức tranh đầy màu sắc, những nét phác họa đơn sơ,
những đường kẻ tỉ mỉ, những sắc thái tinh tế, và những nét chấm
phá tuyệt vời. Bạn sẽ chóng mặt và hoảng kinh khi nghe những biểu
hiện đơn sơ nhưng mạnh mẽ của con níu chân cha, giam em vào lòng, súng
phải thẹn thùng, đong đầy trang giấy, môi hôn vội vàng, lã chã đầm đìa trên
xác con lạnh giá, vì thương những người không tình yêu, trăng ngà lả lơi, có
con chim sâu chỉ lối, vừa đi đã mỏi, thành phố ngả nghiêng, hiu hắt cơn sầu.
Sau khi nghe xong bản nhạc, bạn hãy nghĩ
đến những nhạc sĩ miền Nam trước năm 1975
Sau đó, bạn hãy tự hỏi, ‘’Liệu có nhạc
sĩ hay thi sĩ nào sống trong chế độ cộng sản tại Việt Nam có thể
viết được câu nào hay như những câu trong nhạc miền Nam trước năm 75 ?’’
Cao Đắc Tuấn
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks