Trong thời gian nước Việtnam
được Pháp bão bộ (chớ không phãi đô hộ), thì Việtnam vẫn còn Ãi Bắc Quan.
Nhưng kễ từ khi
csVN chiếm giữ Miền Bắc Việtnam, csVN đã đễ cho Trung cọng phá sập Ãi Bắc
Quan (vùng đất nầy nay bị TC chiếm mất). Như vậy, bọn Tàu phù đã chiếm một vùng
đất rộng hằng mấy trăm ngàn cây số vuông !!!!
Mời độc giã xa gần xem
các hình ãnh lịch sữ còn lưu cho hậu thế như là bằng chứng.
MT
SỰ NHẦM LẪN THẾ KỶ:
Ải Nam Quan hay Ải Bắc Quan?
Nguồn : Việt Nam Hình Ảnh Xưa
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí (1882)
đoạn nói về Ải Nam Quan:
"Ải Nam Quan cách tỉnh thành
(Lạng Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu Bằng
Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi là
Trấn Nam Quan.
Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà
Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 (1725) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam
Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là "Đại Nam Quan", phía đông là một dải
núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường,
gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quãng giữa có biển đề "Trấn Nam Quan",
dựng từ năm Ung Chính thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi
nào có công việc của sứ bộ mới mở.
Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4
chữ "Trung ngoại nhất gia", dựng từ năm Tân Sửu [1781] đời Càn Long
nhà Thanh. Phía bắc cửa có"Chiêu đức đài", đằng sau đài có "Đình
tham đường" (nhà giữ ngựa) của nước Thanh; phía nam có"Ngưỡng đức
đài" của nước ta, bên tả bên hữu, có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến
cửa quan thì dùng chỗ nầy làm nơi tạm nghỉ."
Theo "Địa dư các tỉnh Bắc
Kỳ" của Ngô Vi Liễn, Phạm Văn Thư và Đỗ Đình Nghiêm (Nhà in Lê Văn Tân
xuất bản, Hà Nội, 1926):
"Cửa Nam Quan ở ngay biên giới
Trung Quốc và Việt Nam. Kể từ Hà Nội lên đến tỉnh lỵ Lạng Sơn là 150 km; đến
cây số 152 là chợ Kỳ Lừa; đến cây số 158 là Tam Lung; đến cây số 162 là
Đồng-Đăng; đến cây số 167 là cửa Nam Quan đi sang Long Châu bên Tàu. Như vậy từ
Đồng Đăng lên cửa Nam Quan có 5 km; từ Kỳ Lừa lên Nam Quan mất 15 km [về phía
tây nam chợ Kỳ Lừa có động Tam Thanh, trước động Tam Thanh có núi Vọng Phu hay
tượng nàng Tô Thị là những danh thắng của tỉnh Lạng Sơn] và từ tỉnh lỵ Lạng Sơn
lên Nam Quan là 17 km."
Các bức ảnh trong entry này sắp xếp
không theo trình tự thời gian, mà theo trình tự không gian của chuyến đi từ
Đồng Đăng sang Long Châu - Trung Quốc.
Trong số đó có các bức ảnh do vợ
chồng Imbert chụp vào khoảng thời gian cuối năm 1906, trong chuyến đi tới vùng
biên ải Trung Hoa.
Hình 1: Thị xã Đồng Đăng nhìn từ đỉnh
cao của trạm quan trắc, nơi đóng quân của một đội trưởng bộ binh bản xứ và một
trung úy Pháp. Ảnh: Imbert Edgard (cuối 1906 - trang Ecpad)
Hình 2: Ga Đồng Đăng, ga cuối trên
biên giới của tuyến đường sắt đường sắt Hà Nội - Vân Nam. Ảnh: Imbert Edgard
(cuối 1906).
Hình 3: Một trong những bức ảnh của
tạp chí LIFE về Việt Nam thời thuộc Pháp. Hình ảnh chuột Mickey cầm súng đứng
gác giúp ta ước đoán bức ảnh được chụp vào những năm 30, khi hình tượng chuột
Mickey trở nên nổi tiếng khắp thế. Bảng chỉ dẫn mang dáng hình cửa ải
ghi rõ khoảng cách từ Đồng Đăng đến Ải Nam Quan do nhà Thanh dựng lên là 4 km.
Hoạt động canh giữ cửa khẩu biên giới thể hiện qua số lượng binh sĩ và các xe
quân sự. Ghi chú bức ảnh này thiếu sót rất quan trọng là không ghi cổng Ải Bắc
Quan, hoặc là cổng này đã bị Tàu nó phá rồi. Cũng như các cột mốc biên giới ở
phía Bắc, Tàu phù nó âm thầm thủ tiêu và dựng các cột mốc giả mới lấn sang bên
đất Việt.
Hình 4: Chỉ dẫn ghi trên tường: Đường
sang Trung Hoa đi tới cổng Nam Quan. Hình này chụp từ bên đất Đồng Đăng.
(Hình 5: Ảỉ Nam Quan nhìn từ phía
Đồng Đăng)
Hình 6: Đường lên biên giới Việt -
Trung đi qua những ngọn núi. Đường mòn quanh co, gập ghềnh qua những sườn dốc
nguy hiểm.
Hình 7: Cùng một góc chụp với bức
trước
Hình 8: Đồng Đăng - Đồn canh của
Pháp trên đường biên giới. Nhìn về phía Nam của Ải Nam Quan. Đã hiện ra vệt
mờ của bức tưòng thành trên sườn dốc của ngọn núi bên phải dẫn tới điểm cao nơi
đặt đồn canh của Pháp
Hình 9: Đồn Pháp nhìn từ Ải Nam
Quan
Hình 10: Một bức trong loạt bưu ảnh "Đồn và lô cốt địa đầu Bắc
Bộ" - Nam Quan: Cửa khẩu sang Trung Quốc. Đồn biên giới Trung quốc và lô
cốt Pháp
Hình 11: Hình chụp từ cao điểm thấy
rất rõ hai cửa quan.
Quan sát bức hình cho thật kỹ ta
thấy: Có một căn nhà nhỏ, tường xây ... Đó chính là "CỬA BẮC
QUAN" hay là "CỔNG BẮC QUAN" hay là 'TRẤN BẮC QUAN", hay là
" ẢI BẮC QUAN". Có nghĩa là khách trước khi đi sang bên kia đất Trung
Hoa phải trình giấy tờ ở cửa (cổng) này. Cổng này gọi là "Công quán",
bây giờ gọi là "Cửa khẩu", "Cửa ải", hay là "Đồn biên
phòng", hay là:"Trạm hải quan". Cổng này chính là ẢI BẮC QUAN do
triều đình An nam xây lên.
Khoảng đất giửa "CỔNG BẮC
QUAN" và "CỔNG NAM QUAN" có một bức tường thành hơi cao xây chạy
lên đỉnh núi. Đó là bức tường thành ngăn chia biên giới hai nước.
Tổ Tiên ta trong công cuộc dựng nước
và giữ nước , muốn đứng vững trước kẻ láng giểng rộng lớn hung hãn, để
"thủ đất", để giữ "thế nước" mảnh đất nhỏ hẹp phương Nam,
Tổ Tiên ta chỉ xây "CỔNG BẮC QUAN" nhỏ xíu chỉ bằng 1/10 "TRẤN
NAM QUAN" của Tàu. Ý nói rằng: Chúng tôi không có ý nhòm ngó đất Bắc, (dù
trong lịch sử thời nhà Lý, Tướng quốc Lý Thường Kiệt đã từng cất quân Đại Việt
qua đánh hạ 3 thành châu Liêm, Khâm, Ung đất Quảng Châu, Quảng Tây 1075-1076. Ở
đây chúng tôi cũng xin nấn mạnh ý nghĩa của từ "Trấn Nam Quan"; đấy
là Tàu ở đất Quảng Châu Quảng Tây vẫn còn ngay ngáy sợ quân Đại Việt của Lý
Thường Kiệt). Ý của RTo63 Tiên chúng tôi là muốn bày tỏ sự khiêm cung của một
nước nhỏ, thưa dân, tài vật ít ... chỉ xây cổng nhỏ như thế thôi.
Nay chúng ta hay nhầm lẫn mỗi khi nói
tới vùng đất biên giới vài trăm mét vuông hai nước Việt- Hoa vì trong trí nhớ
học hành, trong quán tính sai lầm riết trở nên tập tục, ta chỉ nhớ tới từ ngữ
ẢI NAM QUAN. Ta cứ nghĩ rằng ẢI NAM QUAN do ta dựng lên mà đúng ra là của Tàu
dựng lên để nhìn, để quan sát, để dòm ngó về mảnh đất phương Nam. Ta không tới
ẢI BẮC QUAN tức là CỔNG BẮC QUAN do Vua Quan Binh lính triều đình An nam dựng
lên để canh phòng bọn giặc phương Bắc.
Khi ta nói tới biên giới đất nước ta.
ta chỉ nói từ ẢI NAM QUAN tới MŨI CÀ MAU, bọn Tàu phù nó bịt mũi cười cho thúi
óc, trong bụng nó chê ta dốt, nó cười ta ngu: tự ta bán đất, bán biển của ta
cho nó mà ta mà ta ngu dại không biết.
Dải đất chữ S của ta nếu tính từ ẢI
BẮC QUAN cho tới thước đất cuối cùng là mũi NAI ở đất HÀ TIÊN (sát biên giới
Cambodia). Đất của ta không chỉ dừng lại ở mũi CÀ MAU!!!
Từ bờ biển CÀ MAU tới thước biển cuối
cùng của ta ở Mũi NAI bờ biển HÀ TIÊN dài đến hàng trăm cây số bờ biển!!!
Sự NHẦM LẪN THẾ KỶ này là do các nhà
giáo dục trong bộ giáo dục truyền bá, viết lách dạy dỗ trong sách giáo khoa mà
ra.
Một phần lớn sự nhầm lẫn là thói quen
gọi từ ẢI NAM QUAN cũng vì do một số bài hát của một số nhạc sĩ miền nam VN đặt
ra. Họ chỉ biết sáng tác, chỉ biết đặt lời hát cho thuận nốt, cho thuận dòng
nhạc. Âm thanh phát ra từ ẢI NAM QUAN thật ra dễ nghe dễ hát hơn từ ÀI BẮC
QUAN. có thể các nhạc sĩ tài tử này họ cũng không học lịch sử cho đến nơi đến
chốn, cứ thế mà sáng tác, rồi bộ thông tin, bộ văn hóa, các đài phát thanh, các
ca sĩ cứ thế mà phát hành, nhai nhải. Ngay trong các bài học dạy về địa lý lịch
sử của ta ngày xưa cũng vậy, học sinh chỉ biết đất nước ta "TỪ ẢI NAM QUAN
TỚI MŨI CÀ MAU!!!"
Cho đến nay vẫn chưa thấy sách giáo
khoa nào giảng dạy đất nước ta từ "ẢI BẮC QUAN" cho tới "HÀ
TIÊN."
Một sự nhầm lẫn thế kỷ không thể tha
thứ được!!!
Hình 12: Toàn cảnh Ải Nam Quan nhìn
từ phía Đồng Đăng. Đã thấy rõ hai cửa quan: cửa của Việt Nam nhỏ bé, khiêm
nhường, một tầng mái, cửa của Trung Hoa lớn hơn, hai tầng mái. Một dải tường
thành chạy lên núi từ hai bên cửa quan Trung Hoa. Trên con đường chạy về cận
cảnh bức ảnh có một số nhân vật đang di chuyển. Rõ ràng, mặc dù về mặt tự nhiên
đây là vùng rừng núi, nhưng cả người Pháp và nhà Thanh đều chủ ý để khu vực cửa
khẩu trơ trọc nhằm theo dõi mọi biến động.
Hình 13: Ải Nam Quan (trước) năm
1905. Dù hướng chụp chính diện làm cho cửa quan của Việt Nam lẫn vào công trình
đồ sộ của nước lớn Trung Hoa, nhưng vẫn thấy rõ ba tầng mái của hai cửa quan.
Hai phía Ải Nam Quan của Việt Nam cũng có hai bờ tường chạy về hai ngọn núi,
nhưng ngắn hơn và có hình bậc thang.
Hình 14: Khoảng cách chụp gần lại,
phân biệt rất rõ hình dáng của hai cửa ải
Hình 15: Hướng chụp từ trên điểm cao
cho thấy giữa hai cửa quan là một vùng đệm. Bưu ảnh gửi đi ngày 6.03.1907
Phụ ảnh với chú thích của người sử
dụng
Hình 16: Vị trí chụp từ đường đi.
Hình 17: Việc ghi thời điểm chụp bức
ảnh này là ngày 2 tháng 8 năm 1940 như phụ ảnh dưới hoàn toàn không có cơ sở.
Đến cuối năm 1906 cửa quan của Trung Hoa chỉ còn một mái lầu (xem hình 2...6),
nhưng trong bức ảnh này ta vẫn thấy rõ hai mái lầu giống như các bức ảnh chụp
trước đó.
Hình phụ: có thể suy luận ngày 02
tháng 8 năm 1940 là ngày đăng bức ảnh này trêm một tài liệu (báo) nào đó, chứ
không phải ngày chụp.
Phụ ảnh: Bức tô mầu hình 16
Hình 19: Một bức bưu thiếp rất đẹp và
có giá trị bởi dòng lưu bút của người sử dụng cho biết vị trí Ải Nam Quan và vị trí
Ải Bắc Quan, Ải Bắc Quan nhỏ như cái trạm kiểm soát do triều 9di2nh An Nam xây
cách tỉnh lỵ Lạng Sơn 17 km. Phíasau là Mục Nam Quan của Tàu xây.
Hình 20: Một tốp lính và sĩ quan Pháp
trước cổng Ải Bắc Quan.
Hình 21: Cận cảnh Ải Bắc Quan. Chính
người Pháp chụp ảnh còn sai lầm giửa Ải Nam Quan và Ải Bắc Quan. Bức ảnh tr6en
thấy rõ ràng về hai cổng ải. Trạm nhỏ phía trước chính là Ải Bắc Quang. Phia
sau to lớn hai tầng chính là Mục Nam Quan. Người Pháp gọi là cổng Nam Quan. Ta
gọi là Ải Nam Quan. Thật ra ta phải gọi là Mục Nam Quan mới nói lên thâm ý của
Tàu (nhìn về phương Nam)._
Hình 22: Hoạt động bang giao diễn ra
nơi cửa khẩu có vẻ rất hòa hảo. Còn nhớ sau Công ước Thiên Tân 1885, người Pháp
đã xúc tiến một dụ án rất tham vọng: xây dựng mạng lưới đường sắt từ phần lãnh
thổ Đông Dương sang Vân Nam. Tuyến đường này khánh thành ngày 31 tháng Ba năm
1910. Ảnh tr6en cho thấy dân chúng tụ tập trước cổng Bắc Quan của An Nam.
Hình 23: Một bức ảnh vô cùng quý hiếm
với cận cảnh hình trang trí trên cửa ải Bắc Quan.
Hình 24: Đây là một cận cảnh Ải
Bắc Quan.
Hình 25: Vùng đệm nằm giữa hai cửa
quan. Hướng chụp vẫn từ phía Việt Nam. Người chụp đứng trên sườn núi, ngay sau
phia bức tường đá. Quả là người Trung Hoa rào rậu rất kĩ. Trấn Nam Quan (cửa
quan của Trung Hoa) xây liền sau bờ tường thành chạy từ trên ngọn núi đá vôi
xuống. Chỗ cao nhất của bờ thành gần tới mái của cửa quan. Bên trái bức ảnh, ở
lưng chừng núi có một công trình giống ngôi miếu (ở hình số 15 ta đã có thể
nhìn thấy nó).
Hình 26: Đây chính là Mục Nam Quan,
Pháp và ta hay gọi là Ải Nam Quan có hai tầng lầu.
Hình 27: Viên quan nhà Thanh phụ
trách Trấn Nam Quan
Hình 28: Một viên quan nhà Thanh chỉ
huy quân đội trấn giữ cửa ải
Hình 29: V.iên quan nhà Thanh cùng
tùy tùng mang cờ phướn khi sang giao tế vùng đất thuộc Pháp
Hình 30: Sang địa phận Trung Hoa. Đối
diện với cổng có một bức bình phong chắn ngang.
Bức bình phong này che chắn khôgn cho
người ở cổng Bắc Quan dòm ngó sang đất Tàu.
Quan chức Pháp trong bộ Âu phục
trắng, cưỡi ngựa trắng và quan chức nhà Thanh đội nón, cưỡi ngựa ô trong số các
nhân vật trong ảnh. Hãy chú ý đến cụm nhà ngói có tường bao ở góc trái bức ảnh
có thể là nhà ở của quan quân Trung Hoa.
Hình 31: Bức ảnh có dòng lưu bút đề
ngày 9.08.1907. Các quan chức Pháp - Hoa chụp ảnh kỉ niệm bên bức bình phong
Hình 32: Những đứa trẻ Trung Hoa
trong đất Mục Nam Quan. Mục này được tu sửa thêm do các viên quan trông nom,
nhưng vẫn còn giữ bức bình phong che chắn. Ảnh: Imbert Edgard (cuối 1906)
Hình 33: Thời gian trôi qua thể hiện
qua chiều cao cây cối. Ta dễ dàng nhận thấy Trấn Nam Quan chỉ còn một mái lầu
và xuất hiện hàng lan can.
Hình phụ: Dấu bưu điện 1911. Hãy
để ý đến hai người đàn ông mặc Âu phục mầu trắng đứng gần bức tường bao của cụm
nhà trước cổng quan. Vóc dáng, tư thế, và đồng phục cho biết họ có thể là những
viên chức Pháp làm việc tại văn phòng quản lý biên giới. Cụm nhà nhỏ nơi họ
đứng trước kia Quan Đế Miếu (miếu thờ Quan Công) và Đền Chiêu Trung.
Năm 1896 trong chương trình khảo sát
biên giới giữa Trung-Pháp đã xây trên nền này một văn phòng quản lý cùng với 9
điểm khác trên biên giới Trung-Việt. Năm 1914 văn phòng được
xây lại lần hai thành kiến trúc nhà lầu kiểu Pháp, nên còn gọi là “Pháp Lầu”
hoặc “Pháp Quốc Lầu”. Công trình vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, nhưng thông
tin không rõ ràng, có phần mâu thuẫn về niên đại lịch sử khiến Pháp Quốc Lầu có
một lai lịch mờ ám (Đọc thêm tại đây)
Hình 34: Trấn Nam Quan nhìn từ điểm
cao phía Trung Hoa. Vẫn thấy rõ bức bình phong và cụm nhà ngói trước cổng quan.
Trên đỉnh núi bên trái có một danh trại khá lớn.
Hình 35: Toàn cảnh Trấn Nam Quan bên
phía Trung Hoa. Ngôi làng trong thung lũng nằm hai bên con đường nhỏ, phía
trước là khu doanh trại. Cuối con đường chính dẫn về phía Trấn Nam Quan vẫn
thấy cụm nhà nơi đặt văn phòng quản lý biên giới Pháp - Trung. Thời điểm này
văn phòng chưa được xây lại thành toà nhà 2 tầng mà người ta quen gọi là Lầu
Pháp Quốc.
Phụ ảnh: Dòng lưu bút ghi ngày
17.04.1911. Bưu cục Lạng Sơn đóng dấu ngày 19.04.1911
Hình 36: Ngôi làng Trung Hoa hay Việt
Nam???(trong khung mầu vàng của phụ ảnh 34). Hai dãy nhà lá nằm bên con đường
lát đá. Đây có lẽ là khu dân cư, cuối đường có một khu nhà ngói khang trang hơn
có lẽ là doanh trại hoặc khu gia binh
Hình 37: Ngôi làng nhìn từ điểm cao
Hình 38: Xử trảm một người Hoa tại
khu vực Ải Nam Quan
Hình 39: Một lễ hội người Hoa ở Lang
Cang Tchap gần Mục Nam Quan
Xen vào loạt ảnh của Union
Commerciale Indochinois, chụp cùng một thời gian, đánh số từ 228 đến 233, miêu
tả con đường từ Ải Nam Quan sang Long Châu, là những bức ảnh của vợ chồng
Imbert Edgard chụp cuối 1906
Vợ chồng Imbert được những người
Trung Hoa đưa tới ngôi làng Loc Kan Thiap.
233. Đường đi Long Châu chạy qua khu
vực những đồi cỏ
232. Phong cảnh đường đi Long Châu
229. Một dinh thự trên đường đi Long
Châu. Không rõ Loc Hang Thiap là địa danh gì?
Vợ chồng Imbert chụp ảnh trước dinh
thự của chỉ huy tên Sen ở Loc Hang Thiap
Cùng người đồng hương và chủ nhà
Trung Hoa đến thăm một nhà hát ở Loc Hang Thiap
228. Những ngôi miếu....
Ải Nam Quan do Tàu xây ngày xưa có
phải là Hữu Nghị Quan ngày nay? Người ta sẽ chẳng tranh cãi khi xung quanh nó
không có những bức màn bí ẩn. Dù thế nào, trong tâm thức mỗi chúng ta dải đất
hình chữ S bắt đầu từ Mục Bắc Quan đến Mũi Cà Mau. Bấm vào đây để bắt đầu hành trình
thời hiện tại.
(Anh 5)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks