Hoa
Kỳ và Việt Nam: Lòng Tin hay Quyền Lợi Chung?
Nguyễn Tiến Hưng
Bàn tới
lịch sử của cuộc chiến Việt Nam và kinh nghiệm bang giao với Mỹ, cần nhớ lại và
mở một dấu ngoặc về “bài học” cũ của VNCH.
Viết về
hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson cập cảng Tiên Sa ở Đà Nẵng,
Báo Lao Động online thuật lại việc ông Timothy
Liston - Phó Tổng Lãnh sự Mỹ tại Sàigòn lên thăm tầu và bế một cậu
bé, ông cho em ngồi lên chân rồi cùng vỗ tay với những người bạn nhỏ. Họ cùng
hoà ca bài “Trái đất này là của chúng mình”. Câu hát “màu da nào cũng quý cũng
yêu” như chính thông điệp của cuộc gặp gỡ.
Tờ báo
dẫn lời ông Liston về nỗ lực xây dựng niềm tin giữa hai nước khi ông nói: “Không
chỉ có con tàu, chúng tôi đến để xây dựng lòng tin”.
Nghe câu
này, chắc nhiều người có thể phản hồi và đặt câu hỏi “nhưng liệu
Việt Nam có tin được Mỹ hay không?” Đây cũng là câu hỏi của chính TT Nguyễn Văn
Thiệu đặt ra cho Mỹ vào tháng Ba, 1975 (xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Chương 9).
Như
chúng tôi đã có dịp bình luận: câu trả lời là “tin được nếu” niềm tin ấy được
xây dựng trên căn bản chắc chắn và bền vững là QUYỀN LỢI CHUNG của
cả hai nước.
Tôi thật
ấn tượng về câu nói của ông Henry John Palmerston, cựu Thủ
tướng
Anh nói tại Quốc Hội nước này ngày 1 tháng 3 năm 1848: “Nước Anh
không có đồng minh vĩnh cửu, và chúng ta cũng chẳng có kẻ thù vĩnh viễn. Quyền
lợi của chúng ta mới là vĩnh viễn và vĩnh cửu.”
Trong
những thập niên 50, 60: vì quyền lợi của Mỹ đòi hỏi phải ngăn chận TQ khỏi tràn
xuống Biển Đông nên Mỹ nhảy vào Việt Nam.
Đến năm
1972 Nixon-Kissinger hòa hoãn được với TQ vì Kissinger
nói với Mao và Chu khi bay qua Bắc Kinh là Mỹ sẵn sàng ký thỏa hiệp
để ra di khỏi Việt Nam và nếu sau khi chúng tôi đã ra đi vài năm mà
Cộng sản tiến tới chiếm trọn Miền Nam Việt Nam thì Mỹ cũng không trở lại nữa.
Do đó Trung Quốc mới sẵn sàng biến thành bạn để còn được hưởng những ân huệ của
Mỹ. Khi TQ thành bạn rồi thì hành động ra vẻ như không còn đe dọa an ninh của
Mỹ nữa.
Trong
bối cảnh ấy, Mỹ không còn lý do gì để đổ xương máu tiếp tục ở Miền Nam VN để be
bờ mối đe dọa từ Trung Quốc , cho nên đã bỏ Miền Nam không thương tiếc.
Một
trong những bài học rút ra từ cuộc chiến là như thế này: Mỹ nhảy vào Việt Nam
không phải là để "bảo vệ tự do của nhân dân Miền Nam"
như Washington luôn luôn tuyên bố (và nhân dân Miền Nam luôn luôn tin tưởng) mà
là để bảo vệ QUYỀN LỢI của chính Mỹ.
Cho nên
sau khi ông Nixon bắt tay được với ông Mao thì quyền lợi của Mỹ
không còn đòi hỏi phải có một “tiền đồn” để chống TQ ở Biển Đông nữa: mở cửa
Bắc Kinh đóng cửa Sài Gòn đơn giản là như vậy. Hai ông Nixon-Kissinger đã hùng
hồn biện hộ cho TQ khi Kissinger soạn bài cho TT Nixon viết cho Quốc Hội Hoa Kỳ
rằng: “Trung quốc và Hoa kỳ chia sẻ nhiều quyền lợi song hành và có
thể cùng nhau hành động để làm cho đời sống của nhân dân hai nước thêm phong
phú.”
Nhưng
lịch sử đã diễn ra ngược lại: sau 40 năm ru ngủ được Mỹ, hứa hẹn sẽ
tuân hành các quy tắc của luật kinh tế thị trường để Mỹ chấp thuận cho TQ vào
WTO (Tổ Chức Thương Mại Toàn Cầu) giúp sản xuất và bán thật nhiều
hàng qua Mỹ và thị trường thế giới, TQ đã làm giầu quá nhanh, trở thành cường
quốc kinh tế số 2.
Vì
TQ cạnh tranh bất chính với Mỹ, không tuân thủ các quy luật thị
trường cho nên bây giờ nhiều người Mỹ tiếc rẻ đã cho TQ vào WTO, giúp nước này
mạnh đủ để ra mặt chống Mỹ!
Nixon-Kissinger
đã sai lầm mà cho rằng quyền lợi của Mỹ đi đối với quyền lợi của
TQ vì nước này đã thành bạn đồng phường của Mỹ (Kissinger quá siêu
trong việc thuyết phục Nixon về điểm này).
Bây giờ
Mỹ rất hối tiêc về sự sai lầm ấy. Và Kissinger phải chịu trách nhiệm rất lớn
cho sự sai lầm này cùng những thiệt hại to lớn của nước Mỹ về địa chính trị và
chiến lược toàn cầu.
Mỹ bừng
tỉnh nhưng đã quá muộn! Dù sao "better late than never:" (thà rằng muộn
còn hơn là không bao giờ), Mỹ phải gấp rút xoay trục về Biển Đông.
Và khi
muốn quay về Biển Đông thì Mỹ rất cần Việt Nam vì đây là "địa
điểm chiến lược quan trọng nhất" như Bộ Ngoại Giao đã phân
tích ngay từ năm 1950 (xem ‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào,’ Chương 3).
Một điều
chắc chắn: đó là từ nay, sẽ không bao giờ TQ bỏ tham vọng đẩy Mỹ ra khỏi Biển
Đông, rồi ra khỏi Western Pacific, rồi khỏi các đại dương khác. Cho
nên vì quyền lợi an ninh lãnh thổ của chính mình, Mỹ
sẽ không bao giờ phạm phải cái lầm lỗi thứ hai là tháo chạy khỏi
Biển Đông nữa.
Tại sao
TQ sẽ không bao giờ ngừng đẩy Mỹ ra khỏi Biển Đông để rút về tới bờ California?
Lý do là vì TQ đã đặt ra một mục tiêu chiến lược bí mật và quan
trọng nhất: đó là tới năm 2049 khi kỷ niệm 100 năm
thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân TQ, nước này sẽ thay thế Mỹ để trở
thành cường quốc số một trên thế giới.
Đây là
tiết lộ động trời của tác giả nổi tiếng về TQ, ông Michael Pillsbury trong cuốn
sách The Hundred Year Marathon (Cuộc chạy đua 100 năm – xuất
bản năm 2015) một cuốn sách đã làm thức tỉnh các nhà chiến lược Mỹ.
Pillsbury
là một chuyên gia về Trung Quốc đã từng làm việc với tất cả các tổng
thống Hoa Kỳ kể từ thời Nixon, và như ông viết, "tôi đã có thể có nhiều
thông tin của các cơ sở tình báo và quân sự của Trung Quốc hơn bất kỳ người
phương Tây nào khác."
Ông
viết: "Từ hàng thập kỷ nay, chính phủ Hoa Kỳ đã quá hào
phóng, trao thật nhiều thông tin, công nghệ, bí quyết quân sự, thông
tin tình báo và những lời cố vấn về các khía cạnh chuyên môn cho
người Trung Quốc. Thật vậy, rất nhiều điều đã được cung cấp và cung cấp quá
lâu. . . không thể có kế toán đầy đủ được về việc này! Và những gì chúng ta đã
không đưa cho người Trung Quốc, thì họ đã ăn cắp. "
Tất cả
chỉ để phục vụ cho tham vọng trở thành siêu cường số một
để thay thế cho Mỹ khi TQ kỷ niệm 100 năm ngày ông Mao
Trạch Đông tiến vào Bắc Kinh.
Chỉ còn 31 năm nữa là tới năm 2049 cho nên từ nay Mỹ sẽ không bao giờ ngừng việc tập
trung vào chiến lược chận lại tham vọng của TQ. Vì vậy mới có kế hoạch điều
động tới 60% của hải lực Mỹ về Thái Bình Dương vào năm 2020.
Tất cả
14 Tổng thống Mỹ kể từ Harry Truman tới Donald Trump đều muốn duy trì vai trò
lãnh đạo số một của nước Mỹ trên thế giới này – một vai trò phát xuất từ sau
Thế Chiến II, nhưng 13 ông trước chỉ nói úp úp mở mở.
Tới thời
ông Trump – một con người bộc trực – thì ông thẳng thừng đưa ra chính
sách “America First” – không chỉ có nghĩa là
dành mọi ưu tiên kinh tế, thương mại, nhập cư để phục vụ quyền lợi vật chất của
người Mỹ mà nó còn có một ý nghĩa chiến lược sâu xa về vai trò lãnh đạo của
Mỹ. Lập trường này làm cho tất cả các đồng minh đều nhìn vào Trump với con
mắt nghi ngờ.
Nhưng
Washington đồn rằng: sau khi hạ nhiệt được khủng hhoảng Bắc Hàn, chính phủ
Trump sẽ tập trung vào chiến lược xoay trục về Biển Đông, vì đây là nơi ông
Trump hay bất cứ tổng thống Mỹ nào từ nay trở đi cũng bắt buộc phải tranh đấu
để giữ được vai trò “America First.”
Kết luận: Ít
nhất là trong Thế Kỷ 21 quyền lợi của Mỹ ở Biển Đông đi song hành và
trực tiếp với quyền lợi của Việt Nam.
Việt Nam
là địa điểm chiến lược quan trọng nhất ở Biển Đông, nhưng đồng thời, cái vị thế
ấy luôn đặt nước này vào cái thế gọng kìm giữa các cường quốc.
Hơn nữa
Việt Nam lại nằm sát cạnh Trung Quốc nên áp lực của TQ rất là mạnh mẽ. Vì
vậy có lẽ Việt Nam không còn một con đường nào khác ngoài chiến lược
cân bằng (“đu dây”) giữa hai cường quốc để sống còn.
Tuy
nhiên vì áp lực của TQ càng ngày càng gia tăng một cách nguy hiểm,
cho nên chính cái chiến lược cân bằng ấy lại bắt buộc Việt Nam phải
gần Mỹ hơn để lấy lại và duy trì thế cân bằng.
Vì vậy,
có khả năng cao là quan hệ Việt - Mỹ sẽ sớm tiến tới “đối
tác chiến lược toàn diện” – trở thành quan hệ thứ tư sau ba
quan hệ Việt – Nga, Việt – Trung và Việt -Ấn.
Trên
bình diện vĩ mô, sự sắp xếp để Việt Nam cân bằng giữa hai khối: một bên là Nga-Trung và
một bên là Mỹ-Ấn xem ra có vẻ hữu lý và chắc chắn sẽ
được dư luận quốc tế ủng hộ.
“Toàn
diện” bao gồm cả an ninh cả kinh tế. Về an ninh quốc phòng, khi có hàng không
mẫu hạm Mỹ ra vào Đà Nẵng và chiến hạm, tầu ngầm Mỹ ra vào Cam Ranh, tất nhiên
TQ sẽ phải cân nhắc cho thật kỹ khi muốn gây hấn về quân sự với Việt Nam.
Về kinh
tế, thị trường Mỹ - hiện đã là thị trường để Việt Nam xuất cảng nhiều nhất - sẽ
mở rộng ra thêm nữa cho Việt Nam với những lợi ích về đầu tư, kỹ thuật, và thuế
nhập cảng (như thép, nhôm – miễn là không phải xuất xứ từ TQ). Từ
Thế Chiến II, chưa có nước nào trên thế giới này giầu mạnh lên được mà không
nhờ thị trường Mỹ.
Mặt
khác, qua cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979 (và việc Trung – Mỹ ôm nhau
bắt đầu năm 1972), Việt Nam cũng đã thấy rõ ràng rằng: Trung Quốc
chẳng có bạn vĩnh cửu, và cũng chẳng có thù vĩnh viễn. Quyền lợi của
TQ mới là vĩnh viễn và vĩnh cửu.”
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks