KHOA BẢNG
Trần Xuân Thời
"Sơn
hạ hồng trần Nam Thoán lộ
Bất
tri quan đái kỷ nhân hồi”
Dưới núi, bụi hồng, đường Nam Thoán,
không biết có bao nhiêu người lãnh áo mão cân đai trở về. Hai câu thơ này thể
hiện sự cam go của sĩ tử phấn đấu, thi thố tài năng qua trường thi trận bút hầu
mong đỗ đạt để được tiến cử ra làm quan từ thời nhà Hán, cách đây hơn hai ngàn
năm về trước. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời đại nào vẫn có vấn đề "Học
tàỉ thi phận”. Thế nên, mặc dầu vào thời nhà Hán một số người Việt khoa bảng
như Lý Tiến, Lý Cầm, Trương Trọng đã đỗ đạt, vinh quy bái tổ và được Hán triều
bố nhiệm ra làm quan, mãi đến đầu thế kỷ thứ 20, Tú Xương than thở vì thi mãi vẫn
chưa hết phạm trường quy:
"Đau
quá đòn hằn
Rát
hơn lửa bỏng
Hổ
bút hổ nghiên
Hổ
lều hổ chõng”
Thi hỏng liên tiếp, Tú Xương quả đã thất
vọng.
”
Phen này tớ hỏng tớ đi ngay
Cúng
giỗ từ đây nhớ tới ngày
Học
đã sôi cơm nhưng chửa chín
Thi
không ngậm ớt thế mà cay!"
Cụ Nguyễn Công Trứ cũng đã trải qua những
âu lo khắc khoải của cuộc đời khoa hoạn, mãi đến tứ tuần mới đỗ Cử Nhân và được
đề cử ra làm quan. Đối với Nguyễn Tiên sinh đỗ đạt ví như:” Bẻ cành đơn quế cho
rồi liền tay" chẳng những để khỏi: "Thẹn đèn hỗ lửa đau lòng mẹ. Nay
thét mai gầm rất cổ cha" mà còn đạt đến ước nguyện (self actualization) của
cuộc đời. Đắc chí, hay đạt được lý tưởng vì được liệt vào hàng "Kẻ sĩ”.
Theo triết gia Maslow, nhân thế có 5 nhu cầu chính yếu (1) Nhu cầu về sinh vật
lý (physiological needs) như đói ăn, khát uống...(2) nhu cầu được sống an toàn
( security needs) không bị đe doạ, áp bức, kỳ thị ; (3) nhu cầu hội nhập (
belonging needs), nhu cầu kết hợp, nhóm họp, thân hữu (4) nhu cầu được tôn trọng
( respect needs) và (5) nhu cầu thực hiện được lý tưởng của mình (self
actualization needs).
”
Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt
Dân
hữu tứ sĩ vi chỉ tiên
Có
giang sơn thì sĩ đã có tên
Từ
Chu, Hán vốn sĩ này là qúi”.
Với
danh tước Nho Sĩ, thì tiến vi quan thối vi sư. Trước hết, phải tích cực tiến
theo tấc bóng của mặt trời, "Nhật tân chi vị thịnh đức" mỗi ngày một
mớỉ và mỗi ngày một thêm mới mới là đức thịnh. Đem lờỉ hay ý đẹp phụng sự xã hội
lúc chưa gặp thời:
"Lúc
vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
Hiêu
hiêu nhiên điếu Vị canh Sằng
Xe bổ luân dầu chứa gặp Thang,
Văn
Phù thế giáo một vàỉ câu thanh nghị”.
Và khi gặp thời thì:
”
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Đem
tất cả sở tồn làm sở dụng
Trong
lăng mỉếu ra tài lương đống
Ngoài
biên thùy rạch mũi can tương
Làm
cho bách thế lưu phương
Trước
là Sĩ sau là Khanh, Tướng."
Sau
khi đem tài kinh bang tế thế để giúp nước trị dân, kẻ sĩ mới được thung dung thụ
hưởng cảnh an nhàn:
"Nhà
nước yên sĩ mớỉ được thung dung
Bấy
giờ sĩ mớỉ tìm ông Hoàng Thạch
Năm
ba chú tiểu đồng lếch thếch
Tiêu
dao nơi hàn cốc thanh sơn
Nào
thơ nào rượu nào địch nào đờn
Đồ
thích chí chất đầy mội túỉ
Mặc
ai hỏi mặc ai không hỏi đến
Ngẩm
việc đời mà ngằm kẻ trọc thân
Này
này sĩ mới hoàn danh."
Tuy
vậy, cũng có nhiều vị khoa bảng chỉ chuyên nghề dạy học và không màng danh lợi
như Cụ Chu Văn An, có thể vì:
”
Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt
phong trần nắng rám mùi dâu.
Nghĩ
thân phù thế mà đau
Bọt
trong bể khổ, bèo đầu bến mê”!
Cũng
có thể vì không muốn dấn thân vào vòng tục lụy xích xiềng để rồi phải ân hận:
"Về
đi sao chẳng về đi,
Ruộng
hoang vườn rộng còn chi không về
Đem
thân để hình bia sai khiến,
Còn
ngậm ngùi than vản với ai."
Vấn đề thi thố tài năng qua trường thi
trận bút đã bắt đầu từ thế kỷ thứ 11, đời nhà Lý. Vua Lý Nhân Tôn đã mở khoa
thi đầu tiên vào năm 1075 để chọn Minh Tinh Bác Học, ra giúp nước trị dân. Năm
1195 lại mở khoa thi Tam Giáo, khảo sát kiến thức về triết học Nho Giáo, Phật
Giáo và Lão Giáo. Qua đời nhà Trần, chế độ thi cử được cải tiến quy cũ hơn.
Vua Trần Tháỉ Tôn mở khoa thi Thái Học Sinh năm 1232. Năm 1247, nhà Trần đặt ra
Tam Khôi: Trạng Nguyên, Bảng Nhãn và Thám Hoa.
Các khoa thi, cứ 7 năm thi một kỳ. Đến
đời nhà Hồ đổi thành 3 năm, nhưng mãi đến đời vua Lê Thánh Tôn (1463) lệ thi 3
năm một lần mới được thông dụng. Các kỳ thi để tuyển dụng nhân tài được tổ chức
cho đến thời mạt diệp nhà Nguyễn với kỳ thi Hương cuối cùng năm Mậu Ngọ 1918.
Về nội dung các khoa thi, tuy có gia
giảm tùy thời đại, nhưng đại để các khoa thi chia thành 4 phần chính:
- Trường Nhất: Thi Kinh - Nghĩa: Luận
về ý nghĩa của kinh truyện, còn gọi là tinh nghĩa, hiểu rõ ý nghĩa của triết lý
thánh hiền.
- Trường Nhì: Thi thơ, phú theo quy luật
và đề tài do ban giám khảo định.
- Trường Ba: Thi Chiếu, Chế, Biểu: Soạn
thảo các loại công văn dùng trong triều đình. Chiếu là lệnh của Vua, như sắc lệnh
của Quốc Trưởng. Chế là lệnh ân thưởng, phạt cho quân thần và Biểu là Sớ dâng
lên nhà Vua để tán tụng hoặc xin thỉnh nguyện, một hình thức kiến nghị.
- Trường Tư: Thi Văn sách: Thi Văn
sách nhằm trắc nghiệm óc suy luận và kiến thức về một đề án.
Đã gọi là học tài thi phận, sĩ tử
ngoài việc thuộc làu kinh sử, còn phải có biệt tài suy luận, văn hay và chữ thật
đẹp mới có nhiều hy vọng trúng tuyển. Nếu không có biệt tài, thì dù có thi cả
chục lần, cũng chưa chắc đạt được bảng vàng, bia đá. Cụ Nguyễn Khuyến đã đỗ đầu
3 kỳ thi Hương, thi Hội và thi Đình được lừng danh là Tam Nguyên Yên Đỗ, thật
là một nhân tài. Đọc lại một số bài Kinh Nghĩa, Thơ, Phú, Văn sách còn
truyền lại với cách hành văn và ý nghĩa thật khúc triết mới thấy, dù là từ
chương trích cú, chế độ thi cử thật là khó khăn, đúng là: "Thi không ăn ớt
thế mà cay."
Tú xương đã thể hiện được tâm trạng của
người thi hỏng:
"Một
đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó
đỗ khoa nầy có sướng không?
Trên
ghế bà đầm nhoi đít vịt
Dưới
sân ông cử ngổng đầu rồng”.
Định Chế Giáo Dục
Về định chế giáo dục, Việt Nam đã
thành lập Đại Học, từ thế kỷ thứ 11. Văn Miếu đã được lập từ năm 1070 để thờ Đức
Khổng Tử và làm cơ sở diễn giảng triết lý thánh hiền. Vua Lý Nhân Tông lập Quốc
Tử Giám năm 1076. Vào đời nhà Trần, Quốc Học Viện được thành lập để diễn giảng
Tứ Thư và Ngũ Kinh. Các định chế giáo dục này, tồn tại cho đến thế kỷ thứ 20.
Ngày nay trong thành nội Huế, Quốc Tử
Giám vẫn là nơi trang nghiêm biểu tương cho nền quốc học. Đến năm 1917, các định
chế mới về giáo dục do Dụ Cải Cách Học Chánh năm 1908 và năm 1917 ra đời thay đổi
cả phần danh xưng lẫn nội dung các môn học. Kỳ thi Mậu Ngọ năm 1918 là kỳ thi
cuối cùng của chế độ thi cử theo Hán học.
Viện Đại Học Đông Dương được thiết lập
năm 1906 tại Hà Nội, sau đó vì sinh viên bãi khoá nên bị đóng cửa đến năm 1917
mới được mởi lại và đổi danh thành Đại học Hà Nội. Viện Đại học Hà Nội có chi
nhánh tại Saigòn. Năm 1955 được đổi thành Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam và đến
năm 1957 đổi thành Viện Đại học Sàigòn.
Ngoài các đại học chuyên khoa về các
ngành nhân văn và khoa học, chính quyền còn lập thêm trường chuyên nghiệp về
ngành quản trị công quyền như trường Hậu Bổ lập năm 1903 tại Hà nội và tại Huế
năm 1911. Đến năm
1912, trường Hậu Bổ được đổi thành Trưòng Sĩ Hoạn (École des Mandarins) và đến
năm 1917 được đổi thành Trường Pháp Chính (École de Droit et d’Administration)
hay Trường Luât và Hành chính / School of Law and Administration) để đào tạo
các viên chức cai trị cho chính quyền trung ương và địa phương, các cấp Tri Huyện, Tri Phủ,
Tổng Đốc, Thượng Thư... cho Triều Đình Huế. Hậu thân của trường uyên bác nầy là
Học Viện Quốc Gia Hành Chánh được tái lập năm 1952 và sau đó được sự bảo trợ của
Đại học Michigan State University của Hoa Kỳ với chương trình huấn luyện về quản trị tân tiến cho đến 1975.
Một số Đại học công khác cũng được
thành lập vào thời kỳ Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa như Viện Đại Học Huế được
thành lập năm 1957, Đại Học Cần Thơ (1966), Viện Đaị hoc Bách Khoa Thủ Đức
(1974) và các Đại học Cộng Đồng (Community Colleges) như Đại học Tiền Giang - Mỹ
Tho (1971), Đại học Duyên Hải-Nha Trang (1974), Đại học Đà Nẵng (1974)
Các đại học tư được thành lập như Đại
học Đà Lạt (1957), Đaị học Vạn Hạnh (1964), Đại học Phương Nam (1967), Đaị học
An Giang (1970) Đại học Cao Đài-Tây Ninh (1972), Đại học Regina Pacis (1973).
Vào
cuối thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20, một số cơ sở giáo dục được thành lập:
Tại Sàigòn, như trường Taberd lập năm
1890, trường Gia Long năm 1915, trường Petrus Ký năm 1928. Tại Huế, trường Quốc
Học Huế năm 1896, trường Pellerin năm 1904, Đồng khánh năm 1917. Tại Hà nội,
Trường Puginier năm 1897 và Trường Bảo Hộ năm 1908. Sau 1945, trường Bảo Hộ được đổi thành Trường Chu Văn An
(Trường Bưởi). Trường Đồng Khánh Hà Nội mở năm 1917, sau đổi thành Trường Trưng
Vương......là những trường nỗi tiếng trong thời Pháp thuộc và Đệ Nhất, Đệ Nhị
Công Hòa sau trước năm 1975.
Việt Nam đã chú trọng đến nền
giáo dục quốc gia từ năm
1070 là một đặc nét của nên văn minh Việt Nam. Từ ngàn xưa, ý nghĩa cuả
danh từ đại học dành cho sinh đồ được minh định trong sách Đại học, một trong 9
cuốn sách giáo khoa của nền cồ hoc Trung Hoa, gồm Tứ Thư: Đại học, Trung Dung,
Luận Ngữ, Mạnh Tử và Ngũ kinh: Kinh Thi, Kinh thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh
Xuân Thu hợp lại thành chín bộ sách giáo khoa của Nho học làm nền tảng
cho nền giáo dục Việt Nam gần
một ngàn năm lịch sử qua các triều đại cho đến khoa thi Hương cuối cùng năm Mậu
Ngọ 1918.
Triết lý giáo dục Nho học chú trọng đến
luân thường đạo lý, biến hoá tùy thời, thực tiển từ cách vật trí tri, thành ý,
chánh tâm đến tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ... Giáo dục ngành đại học
cốt để
(1) Làm sáng cái đức tính của mình;
(2) Để cải tiến dân sinh, giúp dân bỏ
cái xấu, theo cái tốt và
(3) An trụ ở nơi chí thiện.” Đại
hoc chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”. Ba cương
lĩnh nầy được cụ thể hóa bằng sách lược đào luyện qua tám phương cách để giúp
con người trở thành đại trượng phu, mẫu người quân tử theo quan niệm của Nho học
(1) Cách vật: tiếp cận và tìm hiểu sự
vật.
(2) Trí tri: đạt sự hiểu biết thấu
đáo.
(3) Thành ý: làm cho ý của mình được
thành thực.
(4) Chánh tâm: làm cho tâm được trung
chính.
(5) Tu thân: tu sửa chính mình.
(6) Tề gia: xếp đặt mọi sự cho gia đạo
hài hoà.
(7) Trị quốc: khiến cho nước được an
trị.
(8) Bình Thiên hạ: khiến cho thiên hạ
được thái bình.
Tại Mỹ, mãi đến thế kỷ thứ 17 mới
thành lập Đại Học. Đại Học Harvard được lập vào năm 1638. Viện Trưởng Increase
Matter, không được Đại Học Anh cấp bằng Tiến Sĩ. Hội đồng khoa Đại Học Harvard
quyết định cấp bằng Tiến Sĩ cho ông Matter để ông có đủ thẩm quyền cấp bằng cho
ban giảng huấn và sinh viên tốt nghiệp. Hơn 300 năm sau Đại Học Harvard mới được
công nhận vào quy chế Đại Học chung do Khu giáo dục công nhận (Accredition) vào
năm 1949.
Nền giáo dục ở Mỹ, mỗi Đại Học có quy
chế riêng và tự trị, mặc dù đa số các Đại Học phải theo các tiêu chuẩn về tài
chánh, giảng huấn, cơ sở và học liệu do 1 trong 6 khu định chuẩn công nhận. Các
Hội đồng này do tư nhân thành lập và quản trị. Một số đại học do Tiểu bang cấp
giấy phép và không màng liên hệ đến các Hội đồng này. Hiện nay có trên 2000 Đại
Học tại Mỹ, là một quốc gia cung cấp nhiều khoa bảng nhất thế giới. Theo tài liệu
của US Department of Labor thì chỉ trong niên khóa 1985-86:
- 1,300,000 SV được cấp bằng cử nhân
(BA, BS…)
- 288,000 SV được cấp bằng Cao Học
(MA, MS…)
- 32,000 SV được cấp bằng Tiến Sĩ
(Ph.D, Ed…)
chưa kể đến các văn bằng Trung cấp như
Associate Degrees (AA,AS..)
cán sự học 2 năm hoặc các chứng chỉ
(Certificate học dưới 2 năm như chứng chỉ về thương mại, kế toán, khả
năng luât, kỹ thuật v.v...). Số
sinh viên tốt nghiệp hằng năm tính đến 2018 thay đổi theo dân số và các ngành học
cũng gia tăng theo nhu cầu phát triển về nhân văn và khoa học.
Danh từ BA (Bachelor of Art) được hiểu
như là một "Bồ chữ” (A batch of Knowledge) như Cao Bá Quát cho rằng trong
nhân gian có 4 "Bồ chữ", ông ta và gia đình chiếm hết 3 bồ, còn lại một
bồ cho thiên hạ!
Ngày trước, danh từ Bachelor chỉ dùng
cho nam giới, còn nữ giới không được dùng vì không "xứng đáng"! Đàn
bà đỗ Cử Nhân chỉ được gọi là Mistress of Art hoặc Maid of Science. Dù bị kỳ thị
nhưng vẫn còn khá hơn ở Trung Hoa và Việt Nam. Theo quan niệm cổ thì nữ giới
"chỉ lo việc trong nhà, khi vào canh cửi khi ra thêu thùa. Trai thì đọc
sách ngâm thơ, dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa, mai sau nối được nghiệp nhà,
trước là tỏ mặt sau là ấm thân". Mạnh Lệ Quân phải giả trai mới được dự
thi và được bổ nhiệm ra làm quan.
Ngày trước đỗ Cử Nhân (BA, BS...) là
thành công trên đường học vấn và thành danh được liệt vào hàng "kẻ sĩ”. Sĩ
rồi mới đến Nông, Công, Thương và được tiến cử vào hàng Công Hầu Khanh Tướng.
Ngày nay, với cấp bằng Cử Nhân cũng đủ sống với đời về cả "Danh" cũng
như "Phận".
Có thể nói rằng hấp thụ kiến thức cần
thiết là trình độ học vấn ở bậc Cử Nhân. Nghiên cứu thêm để tinh luyện suy luận
ở bậc Cao Học và phát triển sáng tạo ở bậc Tiến Sĩ. Cao học thường nghiên cứu lại
các môn đã học ở bậc Cử Nhân, tùy ngành, và nghiên cứu thêm về thực trạng của một
vấn đề. Tiến Sĩ cũng thường thâm cứu lại những môn đã học, thêm phần suy diễn,
đặt giả thuyết (hypotheses) và tìm cách chứng minh bằng thực nghiệm (test) hoặc
áp dụng kiến thức nghiên cứu sự liên hệ nhân quả giữa các hiện tương chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hoá....
Tại Việt
Nam trước năm 1975, các văn bằng đại học thường được cấp chuyên ngành học từ cấp
cử nhân, cao học đến tiến sĩ phỏng theo hệ thống giáo dục từ thời Pháp thuộc. Tại
Mỹ đa số ngành chuyên môn cũng vậy. Tuy nhiên ở VN các ngành như Luật khoa, Y
khoa thì sinh viên có bằng Tú Tài II có thể ghi danh theo học, nhưng tại Mỹ,
các trường luật, y khoa chỉ nhận các sinh viên đã có văn bằng cử nhân trở lên mới
được xin nhập học... Sinh viên tốt nghiệp bậc Cử nhân các ngành kỹ thuãt, khoa
học, kinh tế, nhân văn,... đều có thể nạp đơn xin vào ban Cao học Kinh doanh,
Tiến sĩ luật khoa, Tiến sĩ y khoa ...sau khi trải qua một kỳ thi Admission
Test, với số điểm cao, thường trên 500, và cũng tuỳ trường và các điều kiện
khác mới được cứu xét....
Chung quy mục đích của giáo dục là
phát triển kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo. Vể
phương diện luân lý, giáo dục
nhằm đào tạo con người trở nên cao thượng hơn vì giáo dục mà thiếu lương tâm chỉ
làm thêm bại hoại tâm hồn "Science sans conscience n'est que ruine de
l’âme". Cụ Nguyễn Công Trứ đã nêu rõ sứ mệnh của Kẻ Sĩ: "Trong
lăng miếu ra tài lương đống, ngoài biên thùy rạch mũi Can tương" để phụng
sự quốc gia dân tộc.
Sự thành công ở đời, phần thì do khoa
bảng, phần khác do kinh nghiệm. Học và Hành đều nhằm mục đích tinh luyện kỹ
năng (skill). Thế thì, nếu thành công trong một ngành chuyên môn nào đó, do
kinh nghiệm hoặc do các phương thức khác, sự thành công này không thua gì khoa
bảng.” Nghề nào cũng trọng cũng hay. Đi buôn cũng quý, đi cày cũng
sang”. Trong một số
trường hợp, dù có bằng cấp vẫn bị sa thải sau thời gian thử thách (probation),
nghĩa là “Không cần biết anh, chị có bằng cấp gì nhưng chúng tôi cần biết anh
chị có làm được việc hay không”.
Tại các nước tân tiến, ngoài ngành
văn, ngành võ cũng được phát triển.Trường West Point của Hoa Kỳ huấn luyện sinh
viên cả văn lẫn võ. Sau khi xuất ngũ, cựu sinh viên West Point thường được trọng
dụng trong các ngành kinh doanh, kỹ thuật và các sĩ quan cấp tướng phải có bằng
Cao học.
Tại Việt Nam, tuy khoa bảng thường nói
đến văn tài, nhưng võ lược dưới thời quân chủ cũng có văn bằng Võ Cử Nhân. Các
quân trường sĩ quan huấn luyện quân sự 1 hoặc 2 năm của QVNCH, tương đương với
bằng Trung Cấp (AA hay Associate Degree in Military Sciences) hay 4 năm tương
đương với Cử Nhân Khoa Quân Sự. Tại Việt Nam trong thời quân chủ có Võ Cử Nhân và tại
Trung hoa, ngoài Cử Nhân Võ, còn có Võ Trạng Nguyên.
Không phải khoa bảng nào cũng thành
công, ngoài kiến thức, kinh nghiệm thu nhận được, mỗi người còn có biệt tài
thiên phú, hoặc do khả năng tự đào luyện thành người hữu dụng. Khi quân Minh
xâm lăng, Việt Nam, vua quan trốn chạy. Lê Lơị người dân áo vãi đất Lam Sơn đã
dựng cờ khởi nghĩa, quy tụ quần hùng, 10 năm (1418-1428) nếm mật năm gai, đã cứu
giang sơn ra khỏi nơi đắm đuối, lập nên triều đại Hậu Lê.
Bên phương trời Tây có triết gia
Socrate, được mệnh danh là sư tổ của nền triết học Tây phương. Ông nỗi tiếng là
người giỏi nhất vì đi đâu ông cũng nói” Điều tôi biết rõ là tôi không biết gì cả
- As for me, all I know is that I know nothing”. Thế là ông được mọi người đua
nhau giải thích cho ông những gì họ biết. Học như vậy, khỏi mất tiền mà được
nhiều người thương là hiếu học!
Trái lại, triết gia Khổng Tử ở phương
trời Đông nỗi tiếng vì đã chu du lục quốc để thuyết minh về đạo lý làm người,
tu, tề, trị, bình. Đức Khổng Tử (551-479 BC và Socrate (470-399 BC) có điểm
tương đồng là chủ trương “cái gì biết thì cho là biết, cái gì không biết thì
nói là không biết”, chú trọng vào vấn đề công lý, đạo đức, nhân cách làm người...
và cũng gần có chung một quan niệm” Thuận Trời thì sống, chống Trời thì chết”!.
Trong lúc Socrate chủ trương muốn sống
xứng đáng phải biết luôn tự xét mình vì ”The unexamined life is not worth
living for a human being” và ”I do not fancy that I know what I do not know”.
Thì Đức Khổng Tử khuyên nhân thế. ”Từ thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai
dĩ tu thân vi bản”. Từ vua cho đến thứ dân, ai ai cũng lấy sự sữa mình làm gốc.
Đúng là thượng trí gặp nhau.”Les grands esprits se rencontrent- Great minds
think alike”.
Ảnh hưởng của hai nhà hiền triết nầy
thật sâu rộng nhất là về thái độ làm người. Người Tây phương nghe nhiều hơn nói
và thích nghe để học hỏi. Người Đông phương thích làm thầy, nói nhiều hơn
nghe!? Trường đời là Đại Học hữu hiệu nhất tôi luyện con người làm nên sự nghiệp.
Hiện nay, có trên 300 ngành học khác nhau và xã hội tân tiến như Hoa Kỳ có trên
2000 nghề chuyên môn.
Người Mỹ quan niệm ”thầy” của
ngành nầy là ”học trò” của ngành khác, nên khi gặp vấn đề không thuộc ngành
chuyên môn của mình, thường trả lời ”I don’t know”. Phần khác vì tinh thần
trách nhiệm, người Mỹ không ”advise” người khác về những vấn nạn không thuộc
ngành chuyên môn của mình. Còn người Việt, ít khi nghe nói” I don’t know”. Nhân
viên các cấp, các ngành trong công ty, công sở đều phải học hỏi trong thời gian
làm việc để thăng tiến nghề nghiệp, để đủ điều kiện hành nghề theo luật định,
nên vấn đề tu nghiệp rất quan trọng để cập nhật kiến thức.
Thường
các bậc phụ huynh khuyên con cháu lo học hành vì hiểu rõ tầm mức quan trọng của
sự học trong đời sống. “Nhân bất học, bất tri lý. Ấu bất học lão hà
vi ”. Ngày trước ở Việt Nam
đỗ Tú Tài như Tú Xương không có cơ hội thăng tiến. Ngày nay tại các quốc gia
tân tiến mà chúng ta đang cư ngụ, mọi ngành hoạt động đều cần chuyên viên có kỹ
năng tinh luyện, được chứng minh bằng kiến thức và kinh nghiệm. Nếu không có
nghề chuyên môn, cạnh tranh với đời thật là vất vả. Thôi thì văn chương phú lục
chẵng hay, trở về làng cũ học cày cho xong”!
Đa số những người có kiến thức và kinh
nghiệm ở Việt Nam, sau ngày di tản, tuổi tác đã chồng chất, lại phải lo gánh nặng
gia đình, còn đâu thì giờ để theo lũ em học hành như xưa. Vì vậy, các bậc tiền
bối chỉ trông nhờ vào lớp hậu sinh, con cháu chuyên tâm nghiên bút, chẳng những
để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, vinh thân, phì gia, mà còn làm: "Nở nang
mày mặt, rỡ ràng mẹ cha. Trên vì nước, dưới vì nhà. Một là đắc hỉếu, hai là đắc
trung."
Hiếu thảo với mẹ cha, đem tài năng phục
vụ nhân quần xã hội là niềm mong ước chung của các bậc phụ huynh vậy.
Trần Xuân Thời
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks