----- Forwarded
Message -----
From: VanGiang Tran <
To: VanGiang Tran <>
Sent: Thursday, July 16, 2020, 11:42:36 AM PDT
Subject: "Tiếng Việt: Có còn trong sáng?" -
của TS Phạm Văn Tình
Cuối tuần, mời quý
vị đọc 1 bài viết khá hay.
"Tiếng Việt: Có còn trong sáng?"
- của TS Phạm Văn Tình
TVG viết "Lời giới thiệu."
Xin tùy ý sử dụng.
Thân mến,
Trần Văn Giang
*
Tiếng
Việt: Có còn trong sáng?
Lời giới thiệu của người sưu tầm
Tôi xin phép được ghi
lại nguyên văn bài viết khá lý thú của PGS – TS Phạm Văn Tình. TS Phạm
Văn Tình là một người hiện đang sống và dạy học ở Việt Nam. Mặc dù nội
dung bài viết có sử dụng nhiều chữ nghe rất “lạ tai” (tôi tạm gọi là chữ
vi-xi!) đối với người Việt Hải ngoại - Nhất là những người như bỉ nhân – sống
đời lưu vong, tị nạn cs đã lâu và bị dị ứng khá nặng với loại chữ nghĩa kỳ lạ
này (!)... Nhưng thành thật mà nói, TS Phạm Văn Tình có cái nhìn rất thực về
tình trạng chữ nghĩa mà ông gọi là “không có gì trong sángcả / có nguy cơ vẩn
đục” hiện nay của Việt cộng!
Trần Văn Giang
*
Lời mở đầu của tác giả
Kể từ khi cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng (?) phát động công cuộc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”
(Tạp chí Học tập, s. 4-1966) cho đến nay đã tròn 44 năm. Phong trào này đã được
toàn xã hội, đặc biệt là giới Việt ngữ học hưởng ứng với một “lộ trình” lúc
lên, lúc xuống, lúc rầm rộ, lúc âm ỉ… Nhưng chưa bao giờ vấn đề giữ gìn và bảo
vệ tiếng Việt lại được dư luận quan tâm nhiều như thời gian vừa qua.
TS Phạm Văn Tình
*
Tiếng Việt đang ở đâu?
Tiếng Việt đang là ngôn ngữ chính
thức của nước CHXHCN Việt Nam, có hơn 90 triệu dân (mà người Việt chiếm đa số).
Với một diện tích hơn 329 ngàn km2, kéo dài trên một dải đất hình chữ S, tiếng
Việt phân nhánh ra nhiều vùng phương ngữ khác nhau (tiêu biểu là 3 phương ngữ
Bắc, Trung, Nam). Nhưng dù đã qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, tiếng Việt
vẫn là một ngôn ngữ thống nhất, giữ vai trò là công cụ giao tiếp quan trọng
trong một cộng đồng cư dân rộng lớn, đa dạng… Tiếng Việt chính là một nhân tố
không thể thiếu được làm nên đặc thù và bản sắc văn hoá Việt Nam.
Nhưng ít có ngôn ngữ nào chịu sức ép
từ các nhân tố lịch sử - địa ly mạnh mẽ như tiếng Việt. Lịch sử bốn ngàn năm
của chúng ta “lên bổng xuống trầm” mà dấu ấn rõ nét nhất là chúng ta phải chịu
gần 1.000 năm Bắc thuộc và hơn 80 năm đô hộ của Pháp. Không thể nói là ngôn ngữ
(một hiện tương xã hội đặc biệt) lại đứng ngoài những biến cố đó. Trái lại,
chính ngôn ngữ lại là nhân tố đầu tiên đứng trước sự đồng hoá. Chính phủ ngoại
bang nào cũng muốn áp đặt các thiết chế quyền lực, trong đó có chính sách ngôn
ngữ đối với quốc gia họ vừa thôn tính. Và thực tế, nhà nước phong kiến Việt Nam
đã dùng chữ Hán trong các văn bản hành chính quốc gia trong suốt quá trình tồn
tại. Tiếp đó, khi các giáo sĩ phương Tây vào truyền giáo rồi thực dân Pháp xâm
lược, chữ Quốc ngữ xuất hiện và đây là bước thay đổi quan trọng trong tiến
trình phát triển ngôn ngữ Việt. Cả tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Hán cùng tồn
tại nhưng đó chỉ là một dạng “Tam ngữ bất bình đẳng.” Tiếng Pháp dần dần giữ
vai trò độc tôn, đẩy chữ Hán vào miếu đường cổ hủ của các nhà Nho và coi chữ Quốc
ngữ là một văn tự “không chính thống,” sống “kí sinh” trong lòng tiếng Pháp.
Một trong những sự khác biệt rõ rệt
của mỗi dân tộc chính là ngôn ngữ. Tiếng Việt với sức sống kỳ lạ, lâu bền của
mình đã trường tồn cùng lịch sử. Giờ đây, ta vẫn nhận chân được giá trị của
tiếng Việt ngàn đời qua các tác phẩm còn lưu truyền của Lý Thường Kiệt, Trần
Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… và vô vàn những tác phẩm dân
gian truyền khẩu (ca dao, dân ca, tục ngữ…). Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng
phải thừa nhận một điều: Dấu ấn của văn hoá Hán và tiếng Hán, văn hoá Pháp và
tiếng Pháp còn biểu hiện rất rõ trong tiếng Việt. Hơn 60% từ Việt có gốc Hán
(theo thống kê của H. Maspéro, 1972) và khoảng hơn 2.000 từ gốc Pháp (thống kê
của Nguyễn Quảng Tuân và Nguyễn Đức Dân, 1992). Gần đây, tiếng Việt thu nhận
thêm nhiều từ ngoại lai nữa (chủ yếu là tiếng Anh). Từ điển từ mới (Viện Ngôn
ngữ học, 2002) đã thu thập khoảng 3.000 từ mới các loại trong vòng 15 năm
(1985-2000).
Đây là hệ quả của nhiều năm mở cửa,
đổi mới, hội nhập. Và không chỉ tiếng Việt, nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới
(kể cả các ngôn ngữ mạnh như tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Trung) cũng phải
“gồng” lên chống đỡ cơn bão tiếng Anh thổi khắp hoàn cầu. Yếu tố kinh tế,
thương mại trong bối cảnh hoà nhập vô hình trung đã biến tiếng Anh thành ngôn
ngữ “number one (số 1)” trên thế giới.
Tiếng Việt hôm nay: Có còn trong
sáng?
Đứng trước thực trạng thay đổi khá
nhanh chóng gần đây của ngôn ngữ, dư luận xã hội, rất nhiều người lo lắng và
lên tiếng cảnh báo về hiện tượng sử dụng ngôn ngữ tuỳ tiện, cẩu thả làm “vẩn
đục” tiếng Việt, thậm chí nhiều người còn cho rằng “tiếng Việt đang bị làm
hỏng,” “sự xuống cấp trầm trọng của tiếng Việt” và “chúng ta phải có thái độ
kiên quyết và rõ ràng để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, phải hành động
trước khi quá muộn,” v.v…
Những bức xúc như vậy không phải là
không có căn cứ. Đó là hiện tượng nói và viết tiếng Việt tuỳ tiện, bừa bãi,
trong đời sống hàng ngày và cả trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chả
cần bước chân ra ngõ là đã có thể nghe thanh thiếu niên nói bậy, chửi tục, nói
trống không, trái với thuần phong mĩ tục… Sách báo thì in sai, in lỗi hoặc để
cho nhiều phát ngôn kém văn hoá ngang nhiên tồn tại (ngày xưa báo, nhất là sách
lỗi in sai rất ít). Nhưng ngôn ngữ trên mạng mới thực sự là đáng sợ. Nó bát
nháo, tuỳ hứng trăm hình vạn vẻ. Từ chuyện nói năng văng mạng (nói cho hả, nói
lấy được) đến chuyện viết văng mạng, bất chấp các chuẩn mực chính tả tối thiểu.
Đáng lo ngại là hiện tượng nói bậy, viết sai, nói lóng… lại phổ biến trong giới
trẻ, ở tuổi học đường. Mà thế hệ này lại chiếm một tỉ lệ lớn trong cơ cấu dân
số (chỉ riêng học sinh phổ thông năm 2009-2010 đã xấp xỉ 24 triệu). Họ sẽ là
chủ nhân tương lai của đất nước. Không rõ là cứ với đà này, tiếng Việt sẽ ra
sao?
Theo tôi, muốn nhìn nhận, đánh giá
đúng vấn đề này chúng ta phải có cái nhìn biện chứng, toàn cục, phải xuất phát
từ quan điểm toàn diện, cụ thể. Và, trước tiên chúng ta phải cùng xác lập một
vấn đề: Thế nào là trong sáng?
Có thể dẫn nghĩa 2, mục từ trong
sáng trong Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học - Hoàng Phê chủ biên, 2006) là
“ở trạng thái giữ được bản sắc tốt đẹp, không có hiện tượng pha tạp” để
áp dụng cho tổ hợp “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.”
Một tiếng Việt trong sáng là phải cơ
bản thuần nhất, có cách nói, cách dùng từ chuẩn với đại đa số, mang tư duy dân
tộc. Tôi chắc là đại đa số mọi người không phản đối cách định nghĩa trên. Tuy
nhiên, cách hiểu “thế nào là trong sáng” đang có sự phân hoá, chưa thống nhất.
Thể hiện rõ nhất là thái độ đối với việc sử dụng từ nước ngoài.
Nhiều người cho rằng, phải căn cứ
vào nguồn gốc của nguyên ngữ mà dùng từ cho chuẩn. Như vậy, có nhiều từ Hán -
Việt ta mượn và dùng đúng theo nghĩa Hán (cả âm và nghĩa). Chẳng hạn, theo quan
điểm của một số tác giả:
- Phải dùng “Cứu cánh”
với nghĩa là “mục đích cuối cùng” chứ không dùng như hiện nay là “chỗ dựa, để
thoát khỏi một tình trạng không hay";
- Phải dùng “Trầm kha”
(hay bệnh nặng) chứ không được dùng “bệnh trầm kha”;
- Phải dùng “Tham quan”
chứ không phải “thăm quan”;
- Phải dùng “Hợp Chúng
Quốc Mỹ” chứ không phải “Hợp Chủng Quốc Mỹ,” v.v..
Nhưng có rất nhiều trường hợp, trong
quá trình thu nhận và sử dụng, tiếng Việt đã có sẽ điều chỉnh, sai lệch. Chẳng
hạn:
- “Vô tình” ít dùng
nghĩa “không có tình, bất nghĩa” như tiếng Hán mà dùng “ngẫu nhiên, không chủ
định, không cố ý”;
- “Khiêm tốn” không chỉ
với nghĩa chỉ “ý thức và thái độ đúng mực” mà còn dùng chỉ sự “ít ỏi, nhỏ bé”
(đồng lương khiêm tốn, chiều cao khiêm tốn…);
- Lẽ ra phải viết “Thống
kế” nhưng từ trước đến nay vẫn viết là “thống kê”;
- Lẽ ra phải viết “Trụ
ngụ” thì lại viết là “trú ngụ”;
- Lẽ ra phải viết “Trú
sở” thì lại viết thành “trụ sở,” lẽ ra phải nói tiếng Hán (tiếng Hoa, tiếng
Tàu) …
Nhưng hiện nay trong giao tiếp, đa
số dùng “tiếng Trung (hoa),”… Đó là những lỗi quy về gốc là “sai.” Nhưng hiện
tại chúng ta sử dụng trong giao tiếp đã hết sức quen thuộc đến mức không nhận
ra lỗi sai và những cái sai đó đã được bình thường hoá (do không có sự hiểu
lệch lạc, phù hợp với hiện tại). Ngay cả những cách nói được coi là “thừa” như:
Đường quốc lộ (lộ: đường),
Cây cổ thụ (thụ: cây),
Bà quả phụ (phụ: bà),
Ngày sinh nhật (nhật: ngày),
Virus HIV (V đã là chữ viết tắt của
Virus),…
Nhiều khi vẫn được sử dụng (như một
“độ dư cần thiết”) để hoặc là làm rõ nghĩa, hoặc là tăng sắc thái biểu cảm (Thí
dụ: Hôm qua còn theo anh/ Đi ra đường quốc lộ; “Ngày sinh nhật Bác” nắng đầy
tiếng chim; Chúng tôi bước dưới tán cây cổ thụ; Xin mời bà quả phụ X. lên nói
lời cảm ơn; v.v.).
GS Hoàng Phê từng nói rằng:
“Khi ta mượn một từ
nước ngoài, thì với một ý nghĩa nào đó, chúng ta đã “tạo” một từ mới của ta: từ
tiếng Việt này sẽ có một đời sống riếng của nó.”
(Hoàng Phê, Tuyển tập Ngôn ngữ học,
2008).
Tiếng Việt vay mượn khá nhiều. Có từ
do áp lực ta phải dùng. Có từ ta chưa có mà phải
“vay” (vay muợn thuật ngữ là rõ rệt nhất). Hoặc nhiều từ ta có rồi nhưng vẫn
mượn thêm để làm phong phú hơn cách sử dụng (tiếng Nga, tiếng Pháp là một ví
dụ, vẫn mượn thêm từ tiếng Anh, sử dụng song song). Khi ta mượn, có nhiều từ,
dựa trên cơ sở âm và nghĩa gốc, người Việt đã uốn nắn lại (la plat = lập là; la
clé = lắc lê; mangouste = măng cụt; casserol = xoong; caporal = cặp rằng; club
= câu lạc bộ,…).
Từ “show” (sô) trong
tiếng Anh có nghĩa là “buổi trình diễn nghệ thuật, suất diễn” nhưng hiện tại sô
tiếng Việt còn thêm nhiều nghĩa: một phi vụ làm ăn (bể sô), một công việc nào
đó đòi hỏi luân phiên, nhiều lần (chạy sô đi dạy, chạy sô đám cưới, chạy sô
thuyết trình …).
Từ “hủ hoá,” nghĩa gốc
tiếng Hán là “thối nát” dùng để chỉ sự “hư hỏng, biến chất, sa đoạ.” Nhưng
trong dân gian hay dùng để chỉ chuyện nam nữ “quan hệ bất chính, buông thả”
(Anh ta mắc tội hủ hoá, làm cô hàng xóm mang bầu).
Như vậy, nếu so sánh
nhiều từ, ta thấy âm và nghĩa gốc có khi đã bị “mờ” đi. Đó là sự phát triển tự
nhiên của ngôn ngữ vay mượn. Khi mượn một cách đúng mức và có phần sáng tạo,
người Việt đã thực hiện một công cuộc Việt hoá triệt để nhiều từ ngữ, người
cách nói từ tiếng nước ngoài để làm phong phú vốn từ của mình.
Trên báo chí hiện nay,
các cách nói: … tại sao không (why not), từ… đến… (from… to…), vấn đề là ở chỗ…
(tiếng Nga: delov tom, chto…)… đã quá quen thuộc và thông dụng. Chúng ta dùng
theo cách của ta, hoà vào cách nói chung của tiếng Việt và rõ ràng, câu văn vì
thế mà sinh động, uyển chuyển hơn. V. I. Lênin đã từng nói một ý rất hay:
“Cái cốc ở nhà anh
dùng để đựng nước. Nhưng sang nhà tôi, nó có thể được dùng làm cái chặn giấy
hoặc để nhốt một con bướm.”
Đánh giá việc vay mượn
từ ngữ cần phải có một cái nhìn lịch sử cụ thể, theo chiều hướng động. Ta chống
việc vay mượn tràn lan, song cũng có cái đáng mượn. Có những cái ta mượn và
biến thành “tài sản” của ta, khác đến nỗi “chủ nhân” của nó không còn nhận ra
khi gặp lại. Phải nói rằng, tiếng Việt đã “giàu” và sinh động hơn nhờ vay mượn
và Việt hoá một cách tuyệt vời một số lượng đáng kể từ ngữ gốc Hán và gốc Pháp.
Một vấn đề nữa vẫn còn
gây tranh cãi, đó là việc nên phiên âm, chuyển tự hay để nguyên dạng tiếng nước
ngoài? Tôi không bàn đến việc dùng tiếng Anh trong biển hiệu quảng cáo hay
thương hiệu hàng hoá. Tôi muốn đề cập tới việc sử dụng trên báo chí. Vì nhiều ý
kiến cho rằng phải phiên cách đọc, như thế mới là trong sáng, phục vụ cho đông
đảo quần chúng.
Giao tiếp ngôn ngữ được
thực hiện qua 2 “kênh” khác nhau: nói bằng lời (phát âm truyền qua không gian)
và đọc bằng mắt (qua tự dạng, nét chữ). Đọc qua kênh thị giác là một cách
cảm nhận văn bản phổ biến đối với mọi dân tộc trên thế giới kể từ khi con người
phát minh ra chữ viết. Tiếng Việt văn hoá hình thành từ khi có chữ viết. Tên
nước ngoài vào Việt Nam (trừ tiếng Hán sẽ đọc theo âm Hán Việt) thường chủ yếu
theo các hệ chữ:
Xlavơ ("Slavs /
Slavic" (?) như Nga, Bungari và một số nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ);
Latin (gồm các nước nói tiếng Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha - ngữ hệ Latin, các
nước thuộc Liên hiệp Anh - ngữ hệ Angle-Saxon, Đức - ngữ hệ German); Sanscrit …
Với tên riêng viết theo hệ chữ Xlavơ, chúng ta phải chuyển tự (chuyển từ mẫu tự
này sang con chữ tương đương ở mẫu tự khác, cụ thể là theo bảng chữ cái Latin
có ở hầu hết các máy chữ). Còn với các tên viết theo mẫu tự Latin thì cách tốt
nhất là để nguyên dạng.
Bởi như trên tôi đã nói,
giao tiếp bằng mắt phải lấy tự dạng làm căn cứ. Việc phiên cách đọc sẽ dẫn đến
hệ quả đầu tiên là đưa ra một cách đọc chủ quan (đúng và sai rất mong manh).
Không ai dám chắc là mình sẽ phiên đúng một từ nào đó theo nguyên ngữ (tên của
cựu Tổng thống R. Reagan mà người Mỹ cũng còn có 2 cách đọc, Thủ đô Moskva
(Nga) sẽ được đọc khác nhau giữa tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức,
tiếng Trung (Moskva, Moscow, Moscou, Moscau). Hệ quả thứ hai là người đọc mất
cơ sở để truy tìm. Tôi đảm bảo là nếu phiên âm thì chỉ sau một đêm chúng ta sẽ
biến toàn bộ mấy chục cầu thủ 4 đội tham gia tứ kết Cup C1 châu Âu 2010 thành
mấy chục cái tên khác. Trừ cái cái tên quá quen (Messi, Ronaldo, Kaka, Rooney,
Arshavin…) phiên ra ta còn nhận được, chứ đa số tên khác, ta rất khó nhận diện
(chẳng hạn, Pơ-phap = Pfaff, Cơ-rao = Crouch, Hât-lơ-xtôn-nơ = Huddlesstones…).
Cứ để nguyên dạng (thì
đã sao?) sẽ không làm ảnh hưởng nhiều tới việc cảm thụ. Chính sự nguyên dạng
này giúp người đọc theo dõi dễ dàng, không bị gây trở ngại, dùng quen thì điều
đó trở nên rất bình thường. Bởi có nhiều tên, do có nhiều cách phiên khác nhau
mà người đọc chịu không biết đó là ai. Tôi nhớ năm 2005, Liên hiệp các hội
KH&KT VN có tổ chức hội thảo về vấn đề này. Một nhà khoa học đã nói gay
gắt:
“Các anh cứ ủng hộ
việc phiên âm tiếng nước ngoài để phục vụ đa số quần chúng, vì nếu để nguyên
dạng thì khác nào đánh đố ‘dân thường.’ ”
Nghĩ như vậy là chúng ta
đánh giá thấp quần chúng quá. Quần chúng bây giờ khác xưa rồi. Và ngay cả với
những ai còn kém hiểu biết thì thử hỏi các vị phiên âm ra có ích gì? Chẳng có
ai đọc báo mà đọc choang choác thành tiếng cả. Nếu cần đọc, họ sẽ đọc theo cách
của họ. Có thể chưa chuẩn (mà khó có chuẩn) cũng chẳng hề gì. Cứ cho là để
nguyên dạng là đánh đố “thằng ít học” đi. Nhưng nếu phiên âm thì vô tình chúng
ta đã đánh đố cả “thằng ít học” lẫn “thằng nhiều học.” Ngay các nhà khoa học
cũng chẳng biết đâu mà lần.”
Chúng ta chấp nhận điều
này như một “giải pháp tình thế,” giúp cho tiếng Việt ổn định và phát triển
đúng hướng. Một văn bản có lẫn vài tên riêng tiếng Anh không hề làm giảm giá
trị tiếng Việt mà còn thể hiện tiếng Việt chấp nhận được một biến thể và chứng
tỏ trình độ người nói tiếng Việt được nâng cao. Phát triển đúng hướng là tôn
trọng những chuẩn mực (từ vựng, ngữ âm, chính tả,…).
Giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt không thể thoát li vấn đề chuẩn hoá. Mà chuẩn hoá có nghĩa là
“lựa chọn một biến thể hợp lí trong những biến thể đang tồn tại.” Nhưng
thế nào là chuẩn? Đó là một phạm trù mang tính xã hội. Bởi chuẩn của ngôn ngữ
tự nhiên không thể căn cứ vào lí lẽ thuần tuý “logic,” là ý muốn chủ quan, là
những áp lực mang tính quyền uy… Chuẩn ngôn ngữ là một quá trình kiểm nghiệm,
sàng lọc, chọn lựa. Có những chuẩn cũ bị phá bỏ để thay bằng chuẩn mới và nhiều
khi cả 2 chuẩn này song song tồn tại trong một thời gian (lưỡng khả). Chuẩn là
cái đã được định hình, truyền thống nhưng có khi nó lại hình thành từ một “sự
vi phạm chuẩn.” Sự sáng tạo ngôn từ của các nhà văn, nhà thơ là một ví dụ.
Không ít những lối nói “phá cách” của các nhà văn đã đem lại hiệu ứng bất ngờ
và trở thành một nhân tố mới, giúp cho ngôn ngữ phát triển đa dạng hơn.
Chuẩn luôn tôn trọng
tính cộng đồng và dân chủ. Tuy nhiên, chính từ cách hiểu “dân chủ” kia mà hiện
tại tiếng Việt đang đứng trước nguy cơ của sự vi phạm. Điển hình là cách nói
lóng trong học đường. Đầu tiên chỉ nói cho vui, hoặc nói trong phạm vi hẹp, rồi
nhanh chóng lây lan trong diện rộng. Thí dụ,
Gọi bố mẹ là “tiền bối
lỗi thời,”
Xe máy là “con nghẽo,”
Tiền bạc là “máu khô,
tiền âm phủ,”
Bạn gái là “gà tóc nâu,”
Bạn trai là “xe ôm,”
Bị kiểm điểm là “chào cờ
thứ hai,”
Được điểm kém là “vác
gậy Trường Sơn,”…
Rồi nói tiếp âm các từ
với các tên nổi tiếng:
“Yết kiêu vừa chứ,”
“Lỗ tấn to rồi,”
“Chớ hồng lâu mộng,”
“Phí phạm văn đồng,”
“Vô lý thường kiệt,”
“Không phan đình rót”
(mà phan đình tu),…
Đáng ngạc nhiên (và đáng
sợ) hơn cả là ngôn ngữ “chat” (tán gẫu trên mạng). Nếu ai đã từng vào mạng, xem
các trang blog, email… thì sẽ thấy chỉnh tả tiếng Việt biến dạng như thế nào.
Có thể nói là bát nháo, thiên hình vạn trạng. Nhiều người cho rằng mạng ở
nơi nào cũng thế. Sang Mỹ, Hàn Quốc, Nga, giới trẻ có khi còn “quậy” hơn. Ngôn
ngữ “chat” của họ “khủng” hơn nhiều.
Đó là một trò chơi tiêu
khiển mà (!). Nhưng dù là giải trí thì cái gì cũng phải có chừng mực. Hơn nữa,
cách dùng theo kiểu tự sáng tạo như vậy không khéo sẽ bị lệch lạc. Cái lạ nhiều
khi bị giới trẻ nhầm lẫn với cái tôi và “cái sáng tạo,” “cái hay.” Những cái
mới lạ đó rất dễ lây lan, khi đã lây nhiễm rồi, nó cứ như một “con đỉa” bám rất
chặt, rất khó gỡ bỏ. Thực tế vừa qua, trong một đợt khảo sát bài viết và bài
thi của một số trường THPT tại Hà Nội, chúng tôi phát hiện ra rất nhiều lỗi
được cho là “nằm ngoài kiến thức.” Đó là việc viết tắt, viết hoa, viết kèm tiếng
nước ngoài vô lối, viết theo ngôn ngữ biến dạng xuất hiện (nhiều ít khác nhau) ở
các văn bản học đường đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc trường quy. Và mức
độ vi phạm lỗi ngày một tăng.
Đáng tiếc là nhà trường,
giáo viên, bố mẹ các em ít quan tâm và nhắc nhở. Giáo dục ngôn ngữ là một mặt
quan trọng của giáo dục tri thức học đường. Thật buồn là một bộ phận giới trẻ
chỉ mải mê vào các cuộc giải trí mang tính công nghệ (chat, game online…) mà
quên không chịu đọc (và không thích đọc) sách báo nói chung. Phải chịu đọc
nhiều, tham gia giao tiếp xã hội, chịu “va chạm” thì chúng ta mới hình thành
một “ngữ năng” ổn định, có khả năng đánh giá sự đúng sai và có khả năng trau
dồi sự diễn đạt ngôn ngữ của mình.
Nhìn lại cả quá trình
lịch sử, tiếng Việt hôm nay đã thay đổi rất nhiều về diện mạo: giàu hơn và đa
năng hơn trong việc thể hiện công cụ giao tiếp ở mọi lĩnh vực. Tiếng Việt chưa
đến nỗi rung chuông báo động, giương “đèn đỏ” về sự “mất trong sáng trầm
trọng.” Nhưng rõ ràng, tiếng Việt có nhiều vấn đề phải quan tâm nếu không, ngôn
ngữ yêu quý này có nguy cơ bị vẩn đục, do chính thái độ của chúng ta. Không có
gì là không thể xảy ra, kể cả điều tốt và cái xấu.
Câu nói “Ngôn ngữ là linh hồn dân tộc” (W. Humboldt) cần phải
nhắc lại như một lời nhắc nhở về long tự hào và bổn phận của tất cả những ai
thuộc cộng đồng tiếng Việt hôm nay.
PGS-TS Phạm Văn Tình
Trần Văn Giang (st)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks