Đại Học chăn Trâu




Monday, 28 March 2016

DẠY TIẾNG VIỆT Ở MỸ CHO ĐÁM DU SINH CS


On Monday, 28 March 2016, 4:51, nga nguyen <> wrote:





_______________

DẠY TIẾNG VIỆT Ở MỸ CHO ĐÁM DU SINH CS
GS Trần Thủy Tiên 

Xin coi như đây là Thư Riêng tâm tình với quý vị, hơi dài, vì như 1 tiếng thở dài...   
            
Xin phép tự giới thiệu, tôi là GS Trần Thủy Tiên, M.S. và M.A., đã từng dạy Psychology, Sociology, và Vietnamese ở vài Community Colleges, cho các sinh viên người Mỹ và Việt ở địa phương, hơn 12 năm qua, nay đã về hưu, nhưng rất bận vì phải lo việc nhà, dạy tư, vẫn tiếp tục sửa sách cho hoàn chỉnh hơn, và viết tiếp các sách Giáo Khoa dạy Việt Ngữ (bilingual Việt - Anh) cho trẻ em và người lớn.

Nhờ dạy Tiếng Việt trên 12 năm, tôi có rất nhiều kinh nghiệm thực tế về các việc ai dạy và ai học... liên quan đến việc dạy và học Vietnamese... mà không thể nói hết qua email...

Nói sơ qua là ngày nay, chúng ta phải giữ vững đạo đức, trước sức mạnh của đồng tiền và tiếng tăm. Khi tôi vừa dạy học vài năm thì có nhiều tổ chức và cá nhân gọi phones hoặc emailed mời tôi về VN dạy... với số tiền nhiều hơn. Tôi không trả lời email thì họ gửi email tiếp, trong nhiều năm, nhờ tôi thông báo "rộng rãi" về các Scholarships của họ cho sinh viên của tôi hoặc kêu gọi sinh viên của tôi về VN học Tiếng Việt. Tôi cám ơn và yêu cầu đừng liên lạc...  

Sau khi biết rõ tôi "bảo vệ cờ vàng", nghĩa là không dùng tôi được, họ bắt đầu dùng sinh viên của họ đánh phá tôi. Sinh viên du học từ VN vào lớp, nói xấu tôi, công khai hoặc sau lưng, về việc tôi dùng Cờ Vàng trong sách dạy, và không dạy Sử theo lối VN trong nước. 

Khi các em sinh viên khác báo cho tôi biết, tôi gọi riêng các em (từ VN qua), và nói rõ: ở hải ngoại, tôi có quyền dạy Việt Ngữ theo cách nhân bản và khai phóng, tôi không phải tuyên truyền về "bác" Hồ (vì ông ta là national killer và chẳng phải là "bác" của ai cả...), các em là sinh viên thì phải use your brain and search more information ở xứ tự do để tìm hiểu Sự Thật, chứ không nên cứ tin và nghe theo những gì đã bị nhồi sọ từ nhỏ, ở trong nước CS độc tài...

Quả đúng là "con cháu bác Hồ"! Các em nầy phản pháo kịch liệt... và nói như nước chẩy (non-stop talking) về "sự hy sinh cao cả suốt đời của bác, nhờ vậy mà gia đình của các em giàu lên sau năm 1975, về sự bóc lột tàn ác của Mỹ Ngụy, sự ăn bám Mỹ của bọn Ngụy sau khi chạy qua Mỹ... mà vẫn chưa thức tỉnh và không biết xấu hổ, cứ chống lại Đảng và nhân dân ta ở trong nước..."

Tôi biết: We cannot change people overnight.
Vì các em sinh viên du học, đa số (không phải tất cả) là con cháu các gia đình của Đảng, hoặc làm ăn với Đảng viên, rất giàu có và đầy quyền lực ở VN, nên các em tưởng cũng có thể dùng quyền lực (quen thói ở VN) để uy hiếp tôi. Các em nầy cho tôi biết: Với cái Thẻ Đảng và tiền bạc của cha mẹ và bà con, các em đi qua mọi cửa, từ VN qua tới Mỹ, cho tới khi... đụng phải cái cửa lớp học của cô Thủy Tiên!!! Nên các em "uất hận" tôi.

Tôi chỉ nói với các em 2 điều:
1) If you don't want to learn the Truth in a free country, it's your own problem.
     But one day, you'll know - as the Truth is always the Truth.
2) If you don't want the way I teach, drop the class!
     This is a free country, you can add to another class.

Và tôi bước ra khỏi lớp... (không cho chúng có cơ hội tranh cãi tiếp).
Dĩ nhiên còn vô số chuyện khác. Nhưng 1 chuyện như trên cũng đủ để hiểu rồi.

Kính thưa quý vị, đã bao nhiêu năm, tôi rất buồn khi so sánh thấy sự yếu kém về nhận thức Chính Trị của con em Tỵ Nạn với con em VC. Đa số những người chống Cộng cũng không dạy được con cháu trong nhà, không bỏ thì giờ giải thích cho con cháu hiểu... về ý nghĩa của VN War, Cờ Vàng, sự tàn ác của CS..., nhất là trong những dịp hội tụ gia đình như Tết, Labor Day, July The Fourth, Thanks giving, Christmas... Họ còn mua DVD của Thúy Nga (nói xấu VNCH) cho vợ con và cha mẹ coi trong nhà...

Nên mỗi khi có chuyện Quốc Cộng xẩy ra, thì hầu hết con em chúng ta ú ớ... nói không ra lời, trong khi con em VC thì nói liên tục không ngừng... Tụi sinh viên du học từ VN, bây giờ (con nhà Đảng, giàu vô kể, ăn không, học tới Tiến Sĩ, đông hơn con em tỵ nạn; chúng đang được người Mỹ thích và tin dùng trong các đại học và ngoài đời...)  Ai trách nhiệm cho sự thua sút nầy?

Tệ hơn nữa, mỗi khi có người trẻ nào ra ứng cử, vào làm việc trong các CĐ Tỵ Nạn, rồi tuyên bố: "Tôi chỉ làm việc xã hội và văn nghệ, tôi không chống Cộng..." thì các người lớn tuổi khác, thản nhiên, thụ động chấp nhận, nói bâng quơ: "Ồ! Tụi trẻ nó vậy..." chỉ vì nhìn bề ngoài mấy em trẻ nầy coi bộ "Hiền lành, dễ thương..." nên không hề nghĩ đến sự tác hại sâu rộng trong CĐ ra sao... Nhất là khi chúng họp nhau đánh phá và bêu xấu những người chống Cộng trong CĐ, mà lại đươc những kẻ ngây thơ dễ dãi, ủng hộ, nói những người chống Cộng "khó khăn" với các em quá!!! Có ở trong chăn mới biết có rận, những người này có vào nội bộ CĐ làm việc, mới hiểu cái khổ của người chống Cộng, khi bọn  xấu bảo nhau bất hợp tác, không làm gì cả, để mọi việc dồn lại cho vài người chống Cộng cô đơn, làm đến kiệt sức rồi buồn quá, bỏ đi...

Nhớ lại, chúng ta mất Miền Nam cũng vì vô số người trẻ, người già Nằm Vùng, nhưng bề ngoài có vẻ hiền lành, vô hại... Vẫn chưa thức tỉnh?
Vậy 10 năm nữa, các CĐ sẽ ra sao? Hiện nay, hầu như CĐ nào ở hải ngoại cũng bị đánh phá bởi bọn du côn (cũng là người Việt Tỵ nạn như chúng ta nhưng đã biến tính và mất nhân cách lẫn đạo đức, do ganh tỵ với người tài đức hơn mình, tranh quyền, ham danh..).
Tại sao những người Tốt không đoàn kết lại để chống bọn Xấu? Và rất ít người Tốt nhưng có Sĩ Khí, lên tiếng cho Lẽ Phải, ngày nay... Họ thường im lặng cho yên thân, bỏ mặc đồng đội.

Như vậy số quá ít người Tốt còn lại sẽ bị cô lập, bao vây bởi số đông áp đảo của bọn xấu, nên phải bỏ đi, và bọn côn đồ không chế các CĐ. Tại sao bọn xấu không dùng những mánh khóe gian manh của họ đế chống VC hay Tầu Cộng? Mà quay ngược lại, đánh phá chính những người tốt của chiến tuyến bảo vệ Cờ Vàng? 

Tại sao chúng ta không thành lập các Hội Đoàn bảo vệ những người Tốt của chúng ta? ngồi yên nhìn chúng bắn tỉa từng chiến hữu của mình? Tại sao những người lớn tuổi không cư xử có tư cách, Làm Gương Tốt cho giới trẻ, khiến đám trẻ dần dần cũng trở thành tệ hại, phụ họ đánh phá người Tốt?

Xin góp ý kiến, nếu quý vị quan tâm...
GS Trần Thủy Tiên, M.S. in Counseling & Guidance, M.A. in Human Sciences 






__._,_.___

Posted by: loc huong 

Saturday, 26 March 2016

Vĩnh biệt sử gia Tạ Chí Đại Trường


Vĩnh biệt sử gia Tạ Chí Đại Trường

Được tin nhà sử học Tạ Chí Đại Trường vừa qua đời ngày 24-3-2016 tại nhà riêng ở Sài Gòn, BVN vô cùng đau xót, tiếc thương. Sinh năm 1935 (giấy tờ ghi 21 tháng Sáu, 1938) tại Nha Trang, quê gốc ở Bình Định, xuất thân chuyên khoa Sử của Đại học Văn khoa Sài Gòn, Ông là một cây bút viết sử nghiêm cẩn, đối diện với sự thật không biết cúi đầu, suy tưởng lịch sử không theo lệnh bất kỳ ai ngoài đầu óc sắc bén và trái tim nhạy cảm của chính mình; cũng không bị lệ thuộc các quan điểm và phương pháp truyền thống. 

Nhờ đó, trong tác phẩm của Ông thường chứa đựng những phát kiến đầy hấp lực, có giá trị khai quang cho bộ môn lịch sử và văn hóa dân tộc. Các tác phẩm Lịch sử nội chiến Việt Nam từ năm 1771 đến 1802 (1973), Người lính thuộc địa Nam Kì (1861-1945) (luận án TS, 1975)… khi ra đời từng gây được tiếng vang và nhận giải thưởng quốc gia ở miền Nam, sau mấy chục năm bị xua đuổi, xa lánh công khai, khoảng một thập niên trở lại đây đã trở về lại nơi khai sinh ra nó và được chào đón nồng nhiệt, cùng với những cuốn khác viết ở trong nước nhưng chưa kịp xuất bản, hoặc viết ở nước ngoài sau khi ông đã sang định cư tại Hoa Kỳ 1994:Thần người và đất Việt (1989), Một khoảng Việt Nam Cộng hòa nối dài (1993), Việt Nam nhìn từ bên trong(cùng Nguyễn Xuân Nghĩa, 1994), Những bài dã sử Việt (tập hợp các bài viết từ trong nước, 1996), Những bài văn sử (1999), Sử Việt đọc vài quyển (2004), Bài sử khác cho Việt Nam (viết trong nhiều năm thời còn trẻ, kết thúc 2011),Những cuốn sách này đều có sức lan tỏa sâu rộng không chỉ trong giới nghiên cứu chuyên ngành.
Còn nhớ vào năm 1989, GS Nguyễn Huệ Chi cùng PGS Trần Thị Băng Thanh (Viện Văn học) vào Sài Gòn để in Tập II Quyển thượng sách Thơ văn Lý – Trần, đến sửa bông tại nhà in ông Lý Thái Thuận, bắt gặp một người công nhân sắp chữ, dáng cao, gầy, ít nói nhưng có đôi mắt lấp lánh khác thường. 

Sau nhiều buổi lặng lẽ quan sát công việc của nhau, một hôm người công nhân nọ mời hai tác giả sửa bông ra uống cà phê ở một quán bên đường trò chuyện. Và trong câu chuyện dần trở nên thân tình, ông cho biết tên thật. Quá bất ngờ vì một nhà sử học có tiếng lại khiêm tốn đến vậy, cả hai tác gỉả mừng rỡ xiết chặt tay ông. Từ đó họ trở nên bạn bè đồng điệu. Năm 2001, Nguyễn Huệ Chi có dịp sang Hoa Kỳ, đến thăm California, hẹn Ông Tạ Chí Đại Trường và vợ chồng nhà văn Nguyễn Mộng Giác cùng nhau đi thăm nhà văn Võ Phiến bấy giờ còn ở Los Angeles, chơi ở đấy suốt một ngày, chuyện trò không dứt. Từ bấy giờ trở đi không còn dịp tái ngộ.


clip_image002
Cuộc gặp gỡ tại California trong ngày 14-9-2001, từ phải sang: Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Mộng Giác.
clip_image004
Cùng nhau đàm đạo trong ánh nắng thu ngoài vườn của vợ chồng nhà văn Võ Phiến ở Los Angeles ngày 15-9-2001.


Trước cuộc chia ly bất ngờ không mong muốn xin bày tỏ nỗi niềm hụt hẫng của chúng tôi và thành kính gửi đến gia quyến nhà sử học lời phân ưu thâm thiết.
Xin vĩnh biệt Ông – Tạ Chí Đại Trường.


Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường qua đời

  • 24 tháng 3 2016
Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường qua đời
Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, tác giả ‘Lịch sử nội chiến Việt Nam’ vừa qua đời tại TP. HCM sáng 24/3 là ‘người không chịu mệnh lệnh của ai ngoài con mắt nhìn sự thật’ như lời nhận xét của một giáo sư ở Hà Nội.

Ông Đại Trường, thọ 81 tuổi, là một nhà sử học và nghiên cứu văn hóa Việt Nam.

Tên ông được cho là ghép từ hai địa danh của tỉnh Khánh Hòa là Đại Lãnh và Trường Giang (sông Cái). Ông là con nhà Hán học Tạ Chương Phùng, nhà hoạt động phong trào độc lập dân tộc thập niên 1940 - 1950 cùng với ông Ngô Đình Diệm, sau làm Tỉnh trưởng tỉnh Bình Định và thành viên nhóm Caravelle.

Ông Đại Trường viết tác phẩm ‘Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ năm 1771 đến 1802” năm 1964, đặt lại vấn đề về vai trò của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam.
Sau năm 1975, cuốn sách này khiến tác giả gặp nhiều rắc rối. ‘Lịch sử nội chiến’ bị cho là "hạ thấp Quang Trung, đề cao Gia Long" và bị cấm lưu hành tại Việt Nam trong một thời gian dài và chỉ được in lại trong nước từ cuối thập niên 2000.
Sau năm 1975, ông bị đi cải tạo đến năm 1981.
Từ tháng 8/1994, ông định cư tại Hoa Kỳ.
Báo Người Việt hôm 23/3 viết: “Tại Mỹ ông bắt đầu cho in các tác phẩm chính của mình, như ‘Những bài dã sử Việt’ (1996), vốn là tập hợp các bài viết ở Việt Nam của ông giai đoạn 1984-1986; hay cuốn ‘Thần, Người và Đất Việt’ (1989, 2000)”.
"Kể từ cuối thập niên 2000, sách của Tạ Chí Đại Trường mới được chính thức in và phát hành tại Việt Nam. Năm 2014, Tạ Chí Đại Trường được Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh trao giải thưởng Văn Hóa Phan Chu Trinh về ngành nghiên cứu", báo này viết.

‘Người ngẩng cao đầu’

Hôm 24/3 trao đổi với BBC qua điện thoại từ Hà Nội, giáo sư Nguyễn Huệ Chi nói: “Tôi bàng hoàng khi hay tin ông Đại Trường qua đời. Với tôi, ông ấy là người luôn ngẩng cao đầu, không chịu nghe mệnh lệnh của ai ngoài trái tin và con mắt nhìn sự thật”.


“Ông Đại Trường là nhà sử học có tầm vóc và có nhiều khám phá về phương diện lịch sử Việt Nam trong giai đoạn trung đại, cận đại và hiện đại”.
“Tiếc là có một quá trình dài từ năm 1975, giới khoa học xã hội miền Bắc nắm giữ tư thế ‘bên thắng cuộc’ nên không trao đổi học thuật với một nhà sử học chân chính của miền Nam như ông Đại Trường”.

“Theo tôi, đấy là một thiệt thòi cho giới khoa học miền Bắc. Lẽ ra, nếu tiếp cận ông sớm, người ta đã nhận ra phải nhận thức lịch sử cho đúng và những gì phải thay đổi trong cách viết sử lâu nay”, giáo sư nói thêm.
Ông Huệ Chi cũng cho hay: “Những người như ông Đại Trường cần phải được đặt ở vị thế xứng đáng để ông nghiên cứu và những phát hiện của ông được trân trọng. Nhưng có thể vì nhạy cảm chính trị mà người ta né tránh một tinh hoa của miền Nam như ông”.


__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Friday, 25 March 2016

Văn chương phản kháng, viết từ Bắc Hàn


Văn chương phản kháng, viết từ Bắc Hàn

Từ Thức

Lần đầu tiên, một cuốn sách mô tả và tố cáo xã hội Bắc Hàn, do một tác giả hiện sống tại chỗ, tới tay độc giả Tây Phương. Tác phẩm La Dénonciation (Báo Cáo) (1) của Bandi là một tập truyện ngắn tường thuật đời sống gian nan, đầy tai hoạ, bất trắc của người dân trong một chế độ độc tài tàn bạo nhất thế giới, một vùng đất đóng kín trong đó lãnh chúa họ Kim có toàn quyền sinh sát.
Những năm vừa qua, nhờ Internet và du lịch, sách viết về xã hội Việt Nam, Trung Hoa, Cuba, đã được xuất bản nhiều ở nước ngoài, nhưng đây là lần đầu một nhà xuất bản Pháp, Philippe Pickier ở Paris, dịch và ấn hành một tác phẩm Bắc Hàn. Trước đây, một tập truyện Bắc Hàn, Des Amis (Những Người Bạn) đã đưọc nhà xuất bản Acte Sud dịch và ấn hành, nhưng tác giả là một nhà văn “chính thức” của chế độ. Sau bản tiếng Pháp, những bản dịch ra chữ Anh, Đức, Tây Ban Nha, Nhật tác phẩm của Bandi sẽ được in ở nhiều nước khác. Nhà xuất bản cho hay cuốn sách đã được một người bạn của tác giả giấu trong một mớ sách tuyên truyền, mang tới Nam Hàn và xuất bản ở Hán Thành từ 2014. Gia đình đã tỵ nạn ở Nam Hàn nhưng tác giả, khoảng 60 tuổi, không ai biết mặt, là một thành viên của Hội Nhà văn nhà nước, viết dưới bút hiệu Bandi (Con Đom Đóm) vẫn sống ở Bắc Hàn.
La Dénonciation là một tuyển tập gồm 7 truyện ngắn, mô tả xã hội Bắc Hàn những năm 90 thời Kim Il Sung (2), cha đẻ của chế độ quái dị Bắc Hàn, ông nội của Lãnh Tụ Kính yêu hiện thời, Kim Jong Un. Đó là một xã hội đói khát, hãi hùng, mạng người treo đầu sợi chỉ, trong đó con người vờ vịt, rình mò, tố cáo, hành hạ nhau để được sống như con vật, một xã hội trong đó thở khí trời cũng là một ân huệ của lãnh tụ.

http://ecx.images-amazon.com/images/I/41XJRJEAuHL._SX315_BO1,204,203,200_.jpg
Cả nước đóng kịch
Xã hội Bắc Hàn là một xã hội đẳng cấp. Trên cùng là lãnh tụ được toàn dân sùng bái, dưới là cán bộ lớn, cán bộ nhỏ có quyền sinh sát, dưới nữa là dân đen, chia ra làm hai loại, những người được coi là trung thành với chế độ và những người bị coi là kẻ thù của cách mạng, như bị bệnh hủi, không ai dám lai vãng. Nhưng ngay cả những người được coi là trung thành, tai họa vẫn có thể giáng xuống bất cứ giờ nào, vì những lý do rất kỳ quái.
Truyện ngắn La Ville des Spectres (Thành phố của ma quỉ) nói về tai họa của Kyeong-hui trong tuần lễ Quốc khánh. Cả thành phố “tự nguyện” tập họp ở công trường Kim Il Sung để bày tỏ lòng nhiệt thành trong việc chuẩn bị đại lễ vinh danh công đức trời biển của lãnh tụ kính yêu. Mặc dù gió bão, Kyeong-hui vác cả thằng con trai hai tuổi đang bệnh đi biểu tình, không biết rằng tai họa sắp giáng xuống gia đình mình. Công an phường báo cáo: Mỗi ngày từ 6 giờ chiều tới sáng hôm sau, giờ mọi người đi làm, cửa sổ nhà số 3, lầu 5, dãy 5 đều che kín màn cửa xanh, dày. Tôi thấy chuyện khả nghi. Chắc đây là mật hiệu ra dấu cho gián điệp. Được gọi lên làm việc, Kyeong-hui, một công dân gương mẫu, vui cười giải thích với cán bộ khu phố đó là một chuyện rất trẻ con. Con trai anh ta có cái tật rất sợ cái hình Karl Marx khổng lồ treo bên kia đường. Để thằng nhỏ ngủ yên, anh ta kéo màn, che cửa sổ. Cán bộ chất vấn tại sao che cả cửa sổ tường bên kia. Kyeong-hui nói bởi vì phía bên kia cũng có chân dung của Kim Chủ tịch. Và nói thêm, dí dỏm: Cán bộ hẳn biết câu tục ngữ: một đứa nhỏ sợ con rùa, sợ cả cái vung đậy nồi. Đêm hôm sau, hai vợ chồng anh ta và đứa bị công an đến, tống lên mộ chiếc xe, đưa đi biệt tích trước con mắt hãi hùng của dân hai bên đường. Ngoài tội gián điệp, anh ta còn bị kết án không biết giáo dục con cái để nó kính yêu lãnh tụ, tội chế diễu chân dung bác Marx, và một cái tội khủng khiếp: ví Kim Chủ tịch với cái vung nồi.
Trong Si près, si loin (Xa, gần), anh thợ mỏ Myeong-cheol xin xỏ, lạy van đủ cách vẫn không xin được giấy phép về thăm mẹ hấp hối trên giường bệnh (di chuyển từ khu này sang khu khác phải có giấy phép). Thương mẹ, anh ta làm ẩu, trèo lên xe lửa đi thăm mẹ. Bị kiểm soát, bắt giam, hành hạ 20 ngày; khi được thả, mò về nhà, vợ không nhận ra người đàn ông già sụm, tiều tụy trước mặt là người chồng 30 tuổi.
Người ta, nhất là người Tây Phương, vẫn ngỡ ngàng trước cảnh người dân vật vã, than khóc khi được tin lãnh tụ Bắc Hàn qua đời, như dân Nga trước cái chết của đồ tể Staline. Truyện La Scène (Màn Kịch) mô tả không khí xã hội những ngày dân Hàn để tang Kim lãnh tụ. Trong buổi họp phường khóm, công an phường cảnh cáo: “Ngay trong hàng ngũ cán bộ cũng có những tên đáng bắn bỏ (vì không bày tỏ đủ lòng thương tiếc Đại lãnh tụ kính yêu)… Chúng ta phải khuyến cáo cán bộ cảnh giác hơn nữa: hàng ngàn con mắt, hàng ngàn lỗ tai, hàng ngàn nắm tay vũ bão phải tích cực canh chừng hơn nữa, phải như vậy mới bảo đảm sẽ không có tên nào dám lầm lỗi. Mọi người thi đua tới bàn thờ tưởng niệm lãnh tụ. Người ta biết công an đứng ghi tên từng người. “Dân chúng tới than khóc ít nhất một lần mỗi ngày. Dần dần trở thành một thông lệ được mọi người tuân theo, và con số những người tới sáng, trưa, chiều, tối càng ngày càng đông. Cả nước vật vã khóc, kể cả những người bị chế độ hành hạ thân tàn ma dại. Tác giả viết mỗi người đóng một vai kịch, sống trong da thịt vai kịch (se glisser dans la peau du personnage) đến nỗi trở thành nhân vật, những giọt nước mắt trào ra, tự nhiên. Mỗi người mang tới bàn thờ lãnh tụ một bông hoa. Hậu quả là hoa trong vườn, trong công viên bị hái sạch, thiên hạ, kể cả học sinh nhỏ tuổi phải leo lên núi kiếm hoa, nhiều người rơi xuống hang núi chết, nhiều người bị rắn độc cắn bỏ mạng. Cán bộ phường: “Các người tưởng rằng như vậy là đủ trung thành à? Tưởng rằng hái tất cả hoa trong thành phố để kính dâng hương hồn Đại Lãnh Tụ, tưởng rằng leo lên núi hái hoa có thể rớt xuống hang hay bị rắn độc cắn là đủ à? …Trong giai đoạn bi thảm này, dù chúng ta có than khóc đến chết, vẫn không đủ để bày tỏ nỗi đau buồn đã mất người cha chung của dân tộc.
Một Soljenitsyne Bắc Hàn?
Tập truyện của Bandi được giới thiệu trong Hội chợ Sách (Salon du Livre) tại Paris, tháng Ba, 2016. Salon du Livre được tổ chức mỗi năm một lần để các nhà xuất bản, các tác giả gặp gỡ độc giả, ký tặng sách và trao đổi, thảo luận với người đọc. Chủ đề năm nay của Salon là văn chương Đại Hàn. Tác phẩm của Bandi là cuốn sách duy nhất của Bắc Hàn bên cạnh con số đông đảo, cả lượng lẫn phẩm của văn chương Nam Hàn.
Người ta đón nhận Bandi như thế nào? Một điều đáng ngạc nhiên là cuốn sách, in từ 2014 ở Hán Thành, gây ít tiếng vang và ít người đọc. Phải giải thích thế nào về sự thờ ơ đó? Phải chăng người Nam Hàn không muốn nhìn vết thương nhức nhối của dân tộc mình?
Ở hải ngoại, hai thái độ tương phản. Những người khen, coi Bandi là một Soljenitsyne Bắc Hàn. Pierre Rigoulot, người viết tựa cuốn sách, cho rằng giống như Soljenitsyne đã tố cáo xã hội giả dối và địa ngục goulag, Bandi đã tố cáo xã hội Bắc Hàn cũng xây dựng xã hội trên sự giả dối và tàn bạo. Bandi không thể làm như Soljenitsyne, nếu không sẽ mất mạng: chỉ trích công khai nhà cầm quyền và đòi chấm dứt kiểm duyệt, nhưng Bandi đã cho thế giới thấy bộ mặt thực của Bắc Hàn. Lim Yeong-hee, dịch giả cuốn sách, ca ngợi nghệ thuật của Bandi, nhấn mạnh cái nhìn quan sát đôi khi châm biếm của tác giả.
Cộng đồng người Bắc Hàn ở New York còn hăng hơn nữa: Họ vận động trao giải Nobel văn chương cho tác giả Báo Cáo.
Những người chê cuốn sách của Bandi cũng không ít, đa số là trí thức thiên tả ở Pháp, những người trước kia đã chỉ trích Soljenitsyne, cho tác giả Archipel du Goulag đã bôi nhọ xã hội chủ nghĩa, và không ngần ngại quả quyết Soljenitsyne không phải là một nhà văn lớn. Có người nghi ngờ Bandi chỉ là một người Nam Hàn, viết cuốn sách vì lý do chính trị, vì nhà xuất bản in cuốn sách, Cho Gap-je ở Hán Thành, nổi tiếng là một cơ sở xuất bản chống Cộng cực đoan. Nhưng một nhà biên khảo chuyên môn về Bắc Hàn, ông B.R Mayer, cho rằng lối hành văn vụng về, ngôn ngữ trong Báo Cáo đúng là ngôn ngữ người Bắc Hàn, không thể là tác phẩm của một người miền Nam bắt chước giọng miền Bắc. Lim Yeong-hee quả quyết Bandi có thực, vẫn sống ở Bắc Hàn, vẫn tiếp tục viết và đã tiếp xúc với một tổ chức về nhân quyền.
Người đọc có thể nghĩ gì về cuốn sách? Thứ nhất, những chi tiết viết trong sách phải là người trong cuộc. Cũng như một người Việt sống ở miền Nam trước 75, dù óc tưởng tượng phong phú tới đâu, cũng không thể viết về những cuộc đấu tố ghê rợn ở miền Bắc. Những chế độ độc tài, từ Phát xít Đức tới Cộng Sản, đã vượt khỏi cái ranh giới của sự tàn nhẫn, man rợ. Thực tế đã qua mặt trí tưởng tượng của con người. Thứ hai, so sánh Bandi với Soljenitsyne là một chuyện quá đáng. Tác phẩm của nhà văn Nga, từ Archipel du Goulag tới Le Pavillon des Cancéreux, Le Premier Cercle, Une Journée d’Ivan Denissovitch là một tác phẩm đồ sộ cuả một nhà văn lớn. Bandi chỉ là tác giả một tập truyện ngắn, viết một cách rất vụng về, đôi khi lôi thôi, với những lời kể lể dài dòng, những câu bình phẩm không cần thiết chỉ làm trang sách nặng nề thêm. Một lối viết văn cổ điển của một người không được tiếp xúc với những trào lưu văn hóa mới bên ngoài, khác hẳn văn phong hoàn toàn mới, khởi sắc, rất cá nhân, rất độc đáo của những nhà văn Nam Hàn được dịch và trình bày tại Salon du Livre. Soljenitsyne cũng sống trong một xã hội đóng kín, nhưng ông thuộc truyền thống những văn hào Nga, tầm cỡ Dostoïevski, Tolstoï, Gogol, Gorki, Tourgeniev… Đó không phải là bối cảnh văn hóa Bắc Hàn. Bandi bên cạnh các tác giả Nam Hàn, cũng quê mùa như những cuốn phim ngây ngô của Bắc Hàn bên cạnh phim ảnh Nam Hàn, tiến bộ vượt bực, không thua gì điện ảnh Tây Phương.
Mở một dấu ngoặc: mỗi năm Salon du Livre giới thiệu một quốc gia. Chưa bao giờ người ta thấy một lực lượng những nhà xuất bản, nhà văn hùng hậu như phái đoàn Nam Hàn. Tại hội chợ sách cũng như tại bất cứ cuộc họp mặt văn hóa quốc tế nào, Nam Hàn cũng tham dự tích cực, không mặc cảm, chứng tỏ một dân tộc ý thức được vai trò quyết định của văn hoá trong vận mạng, tương lai của một dân tộc.
So sánh Bandi với Soljenitsyne, một văn hào và một trong những nhân vật lịch sử quan trọng nhất của thế kỷ 20, người đã làm rung chuyển chế độ Cộng sản, là một điều quá lố. Nhưng có một điểm khiến độc giả của Bandi nghĩ tới tác giả của Quần Đảo Địa Ngục: với Soljenitsyne, cũng như với Bandi, dù trong hỏa ngục, cái chất người vẫn còn. Soljenitsyne được người ta nhắc tới như một nhân chứng can đảm đã tố cáo tội ác, đã đưa tới sự sụp đổ của Cộng sản Nga, nhưng tác phẩm của ông trước hết là một suy nghĩ về bản chất con người, một trường ca về cái thấp hèn cũng như cái cao cả của con người.
Trong tác phẩm của Soljenitsyne, dù trong địa ngục, bên cạnh những phản trắc, những tra tấn dã man, những đói rách, trong bối cảnh con người bị đối xử như con vật, cư xử với nhau như con vật vì bản năng sống còn, vẫn có những người giữ được nhân tính. Trong truyện của Bandi, cả nước đóng kịch để sống, đạp lên nhau để tranh cướp một mẩu bánh mì, vẫn còn những người tình nghĩa. Chế độ dùng mọi phương tiện để biến con người thành một con vật vô tri giác, vô tình cảm, chỉ biết tôn thờ lãnh tụ, vẫn còn một thanh niên bất chấp hiểm nguy, leo lên xe lửa về thăm mẹ hấp hối, vẫn còn những người đàn bà ăn thức ăn của chó để dành cơm cho chồng, cho con, vẫn còn những người chồng giả vờ no để nhường mẩu bánh mì vừa giành giựt mang về cho vợ, vẫn còn những cặp trai gái yêu nhau, nắm tay nhau đi đường trong những ngày đại tang lãnh tụ, mặc dù đó là một tội nặng có thể mất mạng. Một chế độ tàn bạo tới đâu cũng không thể tiêu diệt hoàn toàn nhân tính. Bên cạnh cái hèn hạ, tha hóa luôn luôn vẫn còn cái cao cả của con người. Đó là một bài học quý báu, một nguồn lạc quan, một tia hy vọng khi đọc Soljenitsyne, cũng như Bandi. Nhất là độc giả Việt Nam, những người tuyệt vọng thấy xã hội, đất nước mình đã và đang bị đẩy vào một tình trạng sa đọa, tưởng như không còn nhân tính.
Báo Cáo không phải là một tác phẩm lớn, Bandi không có tầm cỡ một Soljenitsyne, nhưng tác giả Bắc Hàn là một nhân chứng hiếm hoi của một xã hội đóng kín, một người cầm bút trung thực, can đảm. Một con chim én không làm được mùa Xuân, nhưng một con đom đóm đủ mang lại một chút ánh sáng

Paris, tháng Ba 2016
T. T.


(1) Tựa cuốn sách, La Dénonciation, đáng lẽ phải dịch là “TỐ CÁO”, ở đây tạm dịch là Báo Cáo, vì người ta hay dùng chữ “đi báo cáo công an”.
(2) Những tên người, địa danh trong bài này viết theo lối Pháp.

Tác giả gửi BVN.
__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh

Sunday, 20 March 2016

Hệ Thống Siêu Quyền Lực tại Hoa Kỳ


Hệ Thống Siêu Quyền Lực tại Hoa Kỳ

us-losing-its-superpower-status
LÊ QUỐC  – Tư bản là một thế lực vô tổ quốc. Nơi nào có thể làm ra tiền là nó đến. Nơi nào không còn kiếm được tiền thì nó đi…   Nó chẳng cần phân biệt bạn hay thù, dân chủ hay độc tài, Cọng sản hay Tự Do. Mục đích tối hậu của nó là TIỀN. Cho nên, lắm khi vì tiền mà nó hy sinh mạng sống  đồng bào của nó, chà đạp lên xác chết của nhân loại, hy sinh cả một quốc gia mà trước đó nó là Đồng Minh –  thậm chí phản bội Dân tộc và Tổ quốc  của chính nước nó.

Nền chính trị Hoa Kỳ- qua 44 trào Tổng Thống – đều do một thế lực tư bản vô hình có tên gọi là ” Hệ thồng siêu quyền lực” phía sau,  hoạch định chính sách và đường lối. Tổng Thống (Hành Pháp) hay Quốc hội ( Lập pháp ) là những cơ quan thi hành chính sách của siêu quyền lực vạch sẵn. Có nhiều người thuộc đủ mọi thành phần chánh khách, trí thức, bình dân hay hỏi nhau : Trung Tâm quyền lực Hoa kỳ ở đâu ? và ai là người điều khiển ? – Tổng Thống dân cử ? – Chủ Tịch Quốc hội dân cử ? hay Phán quyết của 9 Thẩm phán Tối cao Pháp viện ?
Mọi người đều mù  mờ, như bị một làn khói hư hư thực thực che giấu, khó nhận ra được ai là người trách nhiệm điều khiển quyền lực Hoa Kỳ ?  đâu là cơ quan chính thức chỉ huy ?  Chỉ nghe được những nhận xét chung chung : ” Đó là tụi Tư Bản” hay trí thức hơn : ” Một thế lực Tư Bản tài phiệt ” .
Sử gia lỗi lạc nước Mỹ – ông Carrol Quigley nhận định thẳng thắn rằng : ” Quả là một ý tưởng điên rồ, nếu cho rằng hai đảng đại diện cho những tư tưởng và chinh sách đối nghịch – một của cánh hữu và một của cánh Tả.  Ý tưởng đó chỉ có thể chấp nhận với những tư tưởng gia Hàn Lâm và giáo điều mà thôi ! Thay vì thế, Hai đảng chỉ là MộT. Cho nên người Mỹ có thể dùng lá phiếu để vứt bỏ bọn bất lương trong 1 kỳ bầu cử, nhưng không đưa đến những chuyển quyền sâu sắc hay triệt để về chánh sách” .   

Theo dòng lịch sử Hoa Kỳ – các sử gia, các nhà nghiên cứu chính trị hay các thành viên rời bỏ các tổ chức liên quan đến hệ thống siêu quyền lực – đều nhìn nhận rằng : Nền chính trị Hoa Kỳ luôn luôn do một hệ thống siêu quyền lực đứng đàng sau, chi phối và kiểm soát…


HỆ THỐNG SIÊU QUYỀN LỰC HOA KỲ  :
Theo sử gia Carrol Quigley,  hệ thống này gồm có 400 nhà Đại Tư Bản, chủ nhân Ngân Hàng, chủ nhân các Công Ty đa quốc, những tập đoàn công Ty lớn, những  đại gia tỷ phú có một tài
                                                                     -2-
sản kếch xù  trên thương trường v.v…   Tài sản của 400 nhà đại tư bàn nầy bằng (=) Tài sản của 155 triệu dân Mỹ gộp lại.

Đây là một tập đoàn tài phiệt mang tên : “Financial Oligarchy” nắm  phần lớn những nguồn tài chánh và nhiều tài nguyên khác và có trong tay ảnh hưởng lẫn quyền kiểm soát qua sự cài   đặt người vào các vị trí then chốt, đối với 2 cánh (wings) : Cọng Hòa và Dân Chủ như là hai hệ phái của MỘT ĐẢNG TÀI PHIỆT duy nhứt. Hai hệ phái nầy chỉ tranh luận những vấn đề nội bộ nhỏ nhặt, hình thức và cá nhân. Những chánh sách lớn về đối ngoại cũng như đối nội, đều do hệ thống siêu quyền lục hoạch định. 

Thí dụ : Chiến lược xoay trục, đem 60% sức mạnh qưân sự sang Châu Á Thái bình Dương, là do quyết nghị của hội nghị siêu quyền lực “illuminati Bilderberg họp năm 2009 tại đảo du lịch Vouliagmenti thuộc thành phố Athens Hy Lạp. Tổng Thống Barack Obama và Ngoại Trưởng Hillary Clinton được mời tham dự.

Hệ thống tài phiệt nầy tổ chức rất chặt chẽ, tinh vi và  bí mật, tuyển dụng những tinh hoa của Hoa Kỳ và thế giới, để cài vào các cơ quan then chốt của chính quyền . Hệ thống nầy căn cứ trên 4 tổ chức sau đây :
  1.- The council on foreign relations  :  4500 thành viên Hoa Kỳ và các nước trên thế giới )
   2.- The trilateral commission : 87 americans và 337 thành viên thuộc các QG   khác.
  3.- The Bilderberg Club : 120 đến 140 khách – trong đó có đại diện 13 tổ chức   siêu quyền lực và các chánh khách đầy quyền uy của các quốc gia trên thế  giới .
   4.- Các Foundation miễn thuế như Rockefeller foundation do David   Rockefeller làm chủ tịch,  Dale Carnegie foundation, Ford foundation v.v…
Hằng năm, hệ thống tài phiệt nầy liên lạc với các Đại học nổi tiếng như Harvard, Yale, Princeton, M.I.T , tuyển dụng các tài năng xuất sắc  tốt nghiệp các trường nầy, đài thọ cho học thêm 2 năm sau khi tốt nghiệp – sau đó tuyển dụng cho vào làm việc tại các công Ty của 400 đại tư bản nầy. Sau một thời gian làm việc, các chủ nhân xem xét cẩn thận và tuyển chọn vào danh sách “The council on foreign Relations” hay “The trilateral commission ” – dự bị nguồn nhân lực tinh hoa để cài vào các chức vụ then chốt trong guồng máy cai trị của các cơ quan Hành Pháp hay lập pháp Hoa Kỳ. Chính các nhân vật cài đặt nầy sẽ soạn thảo đường lối, chánh sách, chiến lược an ninh, chiếu theo nghị quyết của Hội nghị siêu quyền lực ” Bilderberg”- để  trình lên Tổng Thống Hoa Kỳ duyệt y .

 Chứng minh :                        `
* Hành Pháp OBAMA bổ dụng 11 thành viên của “The trilateral commission” vào những chức vụ then chốt  trong vòng 10 ngày đầu đắc cử Tổng Thống.
* 42% chức vụ ngoại giao hàng đầu trong chánh quyền Truman đều là thành viên của Hội đồng Tài Phiệt ” The council on foreign Relations”
* 40% trong chánh quyền Eisenhower ; 51 % trong chánh quyền Kennedy ; 57% trong chánh quyền Johnson, đều là người của các  tổ chức trên.

Các nhân vật như  Margaret Thatcher, Bill chinton, Tony Blair đều là thành viên của “The council on foreign Relations .
Hội đồng tài phiệt nầy có ảnh hưởng lớn lao trong thế giới truyền thông. Những đại nhật báo như tờ Newyork-Times – Time, Newweek, Washington Post, đều do các tài phiệt Do Thái nắm giữ.
-3-
Khi cần thay đổi một chánh sách, giới báo chí truyền thông tung tin thổi phòng lên như  phong trào phản chiến chống chiến tranh VN,  khai thác những bức ảnh gây “choc” như ảnh bé Kim Phúc, ảnh tướng Nguyễn ngọc Loan xử tội tên Việt Cọng đã tàn sát gia đình một viên chức Cảnh sát VNCH v.v…

Truyền thông Mỹ do những chủ nhân người Do Thái nắm quyền lực truyền thông bao trùm cả nước Mỹ, đủ sức tạo ảnh hưởng trong quần chúng, điển hình là trường hợp Việt Nam : Chính  thế lực tài phiệt truyền thông Do Thái trong chính quyền Nixon, mở chiến dịch xuyên tạc chính nghĩa của VNCH, thổi  bùng ngọn gió bão phản chiến dữ dội, châm ngọn lửa biểu tình long trời lỡ đất, áp lực chính quyền Nixon, Johnson phải thay đổi chánh sách : Một mặt, chuyển sức mạnh quân sự về mặt trận Trung Đông – nơi có chiến tranh giữa Israel và Palestin – mặt khác,  bắt tay với Trung Cộng – một thị trường béo bở với 1 tỉ 3 trăm triệu người . 

Kết quả Mỹ tháo chạy và bức tử VNCH. Tên Do Thái Henry Kissinger chính là thành viên của Hội đồng tài phiệt ( The council on foreign  Relations), đã đạo diễn màn rút quân bỏ chạy, dâng VNCH cho CS Bắc Việt vào chiếm trọn miền Nam Việt Nam, gây thống khổ tang tóc cho hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, 250.000 người phải chôn xác dưới lòng đại dương, lùa hàng trăm ngàn quân nhân công chức vào nhà tù không bản án và 90 triệu dân miền Nam vào nhà tù lớn như ngày nay. Các Trưởng cơ quan tình báo CIA : Allen Dulles, John Mc Cone, Richard Helms, William Colby và George  W. Bush v.v… ,  đều là người của Siêu quyền Lực. .

HỘI NGHỊ BILDERBERG :
Hằng năm, Hệ thống Siêu quyền lực Hoa Kỳ đều triệu tập một hội nghị . Tính đến nay có 63 lần họp tại các địa điểm khác nhau . Chỉ tính từ những năm gần đây với mục  đích  chứng minh hoạt động của Siêu quyền lực chi phối chính phủ Hoa Kỳ :

1.- Năm 2008 :  Họp tại khách sạn Chantilly ( Washington) Hoa kỳ ngày 05 đến 08-6-2008. Thành viên cuộc họp : Đại diện 13 hệ phái siêu quyền lực thế giới và các nhà đại Tư Bản lớn, các chánh khách quan trọng đầy quyền lực trên thế giới. TNS Barack Obama được chọn mời tham dự trước ngày tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ và được giới thiệu nói chuyện trước 200,000 người tại một sân vận động Đức . Ông được hoan hô nhiệt liệt ngày 24-7-2008. Và  TNS da đen Barack Obama đắc cử Tổng Thống thứ 44 của Hoa Kỳ.

2.- Năm 2009 : Hội nghị siêu quyền lực illuminati Bilderberg họp tại đảo du lịch Vouliagmenti thuộc thành phố Athens của Hy Lạp. Tổng Thống Barack Obama và Ngoại Trưởng Hillary Clinton được mời tham dự. Hội nghị quyết nghị đề xuất chiến lược xoay trục sang Châu Á /TBD, đưa 60% sức mạnh quân sự Mỹ sang Á Châu.

3.- Năm 2014 : Hội nghị illuminati Bilderberg họp tại Watford Anh Quốc . Hội nghĩ  siêu quyền lực nầy được thành lập ngày 29 đến 31-5-1954 tại khách sạn Biderberg Hoà Lan , gồm 120 đến 150 người gồm 2/3 từ Âu Châu, 1/3 từ Mỹ và Châu Mỹ Latin. Khoảng 100 người là những đại tư bản trong các hệ thống siêu quyền lực, 50 người là các chánh khách lãnh đạo chánh phủ . Tổ chức nầy bảo MẬT, không công bố các quyết nghị của Hội Nghị.  

                    Năm 2014 – hội nghị Bilderberg họp ngày 5 và 6 – 6- 2014 tại Watford Anh Quốc. Sau hội nghị , Nhật Bản sửa lại Hiến Pháp, thay đổi điều 9, cho phép Nhật đem quân ra ngoài và liên minh với các quốc gia khác trong mục đích TỰ VỆ và vấn đề chia nhỏ T.C làm 5 quốc gia nhỏ, để tránh hậu quả cho thế giới. Hội nghị Bilderberg 2014 đã làm thay đổi trật tự tại Á Châu/TBD.
-4-
3.- Năm 2015 : Tổ chức siêu quyền lực Bilderberg họp tại đại khách sạn Interralpen- Hotel Tysol trên vùng núi gần thành phố Telfs – Austria. Hội nghị Bilderberg gồm có 13 hệ phái siêu quyền lực tại Hoa Kỳ, Châu Âu và châu Mỹ Latin và các chủ Ngân Hàng, chủ các Tập đoàn            tài phiệt, các nhà chánh trị cao cấp nhứt đang lãnh đạo các Quốc Gia trên thế giới. Đặc biệt có Bộ Trưởng Quốc Phòng Đức : Ông Ursula van der Leyen; Tổng thư ký NATO: Ông Jeans Stolberg; Tổng chưởng Lý Anh Quốc : Ông George Orsbone ; nguyên Chủ Tịch uỷ hội Châu Âu : ông José Manuel Barroso; cựu Tổng Thống Hoa Kỳ G.W Bush và  nhiều nhân vật lãnh đạo                                                                                                                               
Đại khách sạn Interralpen – Hotel Tysol tại Austria, Âu Châu – xây kiểu hình tỏ chim đại bàng.
Hội nghị họp từ ngày 11- 6 – 2015 đến hết ngày 14- 6 – 2015- thảo luận những vấn đề khẩn cấp phải giải quyết : ( Xem nghị trình thảo luận dưới đây)
Hội nghị Bilderberg 2015 còn có một mục quan trọng cần thảo luận : Ai sẽ là Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 45 của Hoa Kỳ ? hội nghị còn giữ bí mật, nhưng tất cả thành viên đều đồng ý rằng : Phải có một vị Tổng Tư Lệnh để điều hành nghị quyết mọi vấn đề  thảo luận. Vị Tổng Tư Lệnh đó phải là Tổng Thống Hoa kỳ.  Trong 140 nhân vật dự hội, người ta đã thấy có người đại diện cho bà Hillary Chinton.  Chỉ biết đến thế, không còn biết thêm gì nữa.                                                                                                                                                                                                                                Image result for Hội nghị Bilderberg 2015Nghị trình thảo luận tại hội nghị Bilderberg-2015 gồm các vấn đề cực kỳ nghiêm trọng sau đây :
– Artificial Intelligence ( Thông minh nhân tạo)
– Cyber security ( An ninh Mạng )
– Chemical weapons Threats ( Sự đe dọa vũ khí hóa học )
– Globalisation ( Toàn câu hóa)
– Terrorism IS
– Iran, Bắc Triều Tiên.
– Middle – East
– US Election ( Bầu cử tồng Thống tại Hoa Kỳ )
– NATO , Ukraine, Nga sô.
Không thấy Trung Cọng và Biển Đông trong chương trình nghị sự nầy.  Có lẽ, vấn đề Trung Quốc đã có đề cập trong hội nghị siêu quyền lực 2014 – trong đó Nhật Bản bỏ điều 9 Hiến Pháp. và Trung quốc cần được xẻ ra làm 5 quốc gia nhỏ,  để đảm bảo an ninh cho thế giới.

Danh sách 44 đời Tổng Thống Hoa Kỳ đã ghi rõ 41 Tổng Thống do Free Mason hay illuminati Bilderberg chọn, tài trợ và vận động các cuộc bầu cử Tổng Thống. Chỉ có 2 vị là Ông Abraham Lincoln ( 1861-1865)  và T.T Kennedy ( 1961- 1963) là không thuộc hệ thống siêu quyền lực. Cả 2 đều bị ám sát chết.

Như đã nói ở trên – đây là một hệ thống tư bản tài phiệt – vô tổ quốc – kể cả Tổ Quốc Mẹ của những tay tài phiệt nầy. Đã có nhiều nguồn tài liệu được  giải mật chứng minh trong quá  khứ hệ thống tư bản nầy đã từng yểm trợ cho cuộc Cách Mạng vô sản tại Nga và đã tài trợ cho Liên  xô. Quỷ Dự Trử Liên Bang đã cho nền độc tài sô viết vay 200 triệu Mỹ Kim khi chúng mới lên cầm quyền
-5-
. Người ta phát giác ra các tập đoàn tư bản Hoa Kỳ làm ăn với Liên Bang sô viết CS . Eisenhower là thành viên của ” Council on foreign Relations. Churchill, Stalin là hội viên của hội Tam Điểm (*) ( Masonry) . Tổng Thống Harry Truman nhường quyền kiểm soát Đông Âu và Trung Hoa cho CS. Ở mặt trận Châu Á/TBD – khi tướng Mc Arthur nói với một vị dân biểu rằng : Ông không được chiến thắng trong cuộc chiến Triều Tiên thì T.T Truman cách chức ông.  Và Hoa kỳ chấm dứt viện trợ cho Trung Hoa Tưởng giới Thạch,  ngưng tiếp tế quân dụng mà còn cấm các tàu chở quân dụng đã mua . Một vài tàu lén lút chở vũ khí  tiếp tế cho quân Tưởng thì những súng ống nầy thiếu cơ bẩm, trở thành vô dụng. Quân Trung hoa của Tưởng khốn đốn, không còn sức chiến đấu và cuối cùng bị CS đánh bại như VNCH hồi 1975.  Chánh quyền Truman đã phản bội người Trung Hoa Quốc Gia để đưa Mao trạch Đông lên cầm quyền ở Hoa Lục ( Stanley Monteith – Brother hood Darness ) .

Tài liệu giải mật tại các thư viện Liên xô và Hoa Kỳ,  khi Liên xô sụp đồ,. chứng minh rằng: Hệ thống siêu quyền lực Hoa Kỳ và các Tập đoàn tư bản tài phiệt đã hổ trợ,  cho vay, và bí mật  làm ăn buôn bán với Cọng sản Liên xô. Báo cáo của TNS Caroll Reese thuộc Thượng viện Hoa Kỳ khám phá ra 2 tổ chức Rockefeller foundation và Ford foundation đã tài trợ cho các chương trình phát thanh tuyên truyền cổ võ cho chủ nghĩa Cộng Sản và kết luận rằng các tổ chức nầy phải chịu trách nhiệm trong việc đưa cộng sản lên nắm chánh quyền ở Hoa Lục.

Đối với Việt Nam – lịch sừ lập lại bài học Trung Hoa, Afghanistan, Irak và nhiều nước có Hoa Kỳ nhúng tay vào – Nixon, Kissenger là thành viên của ” Council on foreign Relations” ( CFR)  được Nelson Rockefeller đỡ đầu.
Hệ thống tài phiệt nầy đã phản bội 58,000 binh sĩ Mỹ, 300.000 chiến sĩ VNCH và hàng triệu sinh mạng dân miền Nam,  tử trận trong cuộc chiến tự vệ chống sự xâm lăng của quân CS niền Bắc.  Điều ghê tởm,  vô liêm sỉ nhứt là 80% đồ tiếp tế của Liên xô cho CSVN trong thời gian chiến tranh,  là do Hoa Kỳ đầu tư và sản xuất tại Nga. ( Dẫn chứng của Duyên Lãng Hà tiến Nhất)

Không phải chỉ VNCH mà Trung Hoa Tưởng giới Thạch, Irak, Afghanistan hay bầt cứ nơi nào mà  Mỹ can thiệp –  tập đoàn tài phiệt núp sau lưng –  ảnh hưởng và kiểm soát chánh phủ – đều  như thế cả. Họ vốn vô Tổ Quốc, nơi nào kiếm được tiền là họ đến. Lúc hết làm ra tiền là họ đi. Những khầu hiệu Tự Do, Dân Chủ, Nhân quyền chỉ để tuyên truyền. Mục tiêu thật sự của họ là quyền lợi kinh tế – nói khác đi là TIỀN  hay TÀI NGUYÊN tính ra tiền. Đôi khi cũng do quyền lợi chính trị, nhưng quyền lợi kinh tế luôn luôn là quyền lợi hàng đầu. Tiến sĩ Stanley Montieth  nói rằng Cọng Sản và Tư Bản luôn luôn cộng tác với nhau vì họ có cùng một động lực tinh thần và cả hai cùng tìm kiếm một mục tiêu.

Người Việt Nam – ai  mơ màng Mỹ sẽ trở lại VN, ngăn chặn Tàu cộng xâm lăng VN, dùng diễn biến hòa bình để lần hồi tạo lập một chế độ Dân Chủ Nhân quyền, giúp 90 triệu dân Việt thoát khỏi nô lệ Tàu Cộng và được  sống trong Tự Do Dân Chủ – là còn mê ngủ


Người Mỹ không hề bỏ một cắc ra tranh đấu cho người Việt mà Mỹ chi tranh đấu cho Mỹ. Trong chương trình tranh cử Tổng Thống Mỹ năm 2016 – không thấy đề cập – dù chỉ là một câu – vấn đề Việt Nam và Biển ĐôngGần đây nhưt – thông cáo chung hội nghị ASEAN tại Sunnyland, California – không có một Người Mỹ – đúng hơn là siêu quyền lực Mỹ mà đại diện là chánh phủ Mỹ – hay thay ngựa giữa dòng, để lại đàng sau chết chóc, tang tóc, dổ nát trên đầu dân chúng. Nơi nào có Mỹ đi qua là có để lại sự thù hận và mất tin tưởng. Thế giới hiện nay – dù là Đồng Minh của Mỹ, cần Mỹ – nhưng dè dặt, không tin tưởng hoàn toàn vào Mỹ. Làm kẻ thù của Mỹ còn được
-6-
Mỹ coi trọng( như Bắc Hàn) – làm bạn của Mỹ thì bị Mỹ bỏ rơi, khi cần. Mới thời gian trước bồng bế, nâng niu, tiếp đón với 21 phát súng thần công người bạn đồng minh, vài năm sau, vứt bỏ không thương tiếc.

Miệng nói chống độc tài, tham nhũng nhưng khi cần ve vản thì ôm hôn thắm thiết kẻ độc tài – như diễn viên Obama đã làm tại hội nghị thượng đỉnh Asean Sunny Land – California năm 2016. Câu nói phũ phàng của Kissenger : “Tại sao chúng nó không chết phức đi cho rồi” ! là một bằng chứng của chánh sách Mỹ đối với Đồng Minh Việt Nam.

Người Việt Nam Quốc Gia cần Mỹ nhưng chính người Việt phải dứng vũng trên đôi chưn của mình. Chín mươi triệu dân Việt Nam phải nhất tề vùng dậy làm Cách Mạng Dân Chủ, nhân quyền. Và người Mỹ lúc đó, cũng vì quyền lợi Mỹ muốn  bảo vệ đường hàng hải quốc tế từ eo biển Malacca đến Seoul, Tokyo mà không tốn một viên đạn – đương nhiên sẽ đứng về phía ta,  để ngăn chặn Trung Cộng tiến xuống ĐNÁ – sau cùng, để tạo một con cờ trong thế quân bình cán cân quyền lực Đông Nam Á.

Bài toán Việt Nam phải do 90 triệu dân Việt Nam giải quyết. Phải có một “Thein Sein”,  một      “Aung San Suu Kyi”  made in Việt Nam lãnh đạo và sức mạnh của 90 triệu dân Việt Nam vùng lên. Tự Do không ai cho. Dân chủ không ai biếu. Người Việt yêu nước phải vùng lên tranh đấu chống xâm lăng, giành độc lập, Dân chủ thật sự, với sự ủng hộ các nước Dân chủ trên thế giới.

Đến nay- người ta chưa thấy vị cứu tinh nầy, bởi sự cai trị khắc nghiệt, đàn áp tàn bạo của chế độ CS, cộng với  sự giáo dục nhồi nhét, bóp méo đến xóa bỏ lịch sử chính thống VN, tạo ra một ” xã hội vô cảm, lấy sự mánh mun, lừa đảo làm tinh thần dân tộc”( Bài nói chuyện của Nguyễn tâm Bảo với cán bộ kiều vận ở hải ngoại ). Dầu vậy – người ta vẫn  thấy có nhiều mầm móng bất ổn trong Đảng, nhiều dấu hiệu ngấm ngầm trong quần chúng, chắc chắn sẽ có Người cứu nước đứng lên lãnh đạo nhân dân vùng dậy  … Trong quá trình lịch sử Việt Nam, khi bị Tàu  xâm lăng, khi có những tên phản quốc Lê chiêu Thống, Trần ích Tắc xuất hiện, tất sẽ có những vị anh hùng Lê Lợi, Quang Trung, Lý thường Kiệt, Trần hưng Đạo … đứng lên làm lịch sử. Không lẽ lịch sử 4000 năm của Việt Nam chấm dứt nơi đây ???

Và người Việt Nam quốc gia hải ngoại luôn luôn nhớ ơn đất nước và nhân dân Hoa Kỳ – đất nước đã cưu mang, đùm bọc hằng triệu người dân Việt định cư, sống Tự Do, no ấm trên lãnh thổ mình – và nhân dân Hoa Kỳ, với tấm lòng nhân đạo bao la, đã dung chứa, giúp đở,  đối xử có tình người, tạo điều kiện cho người Việt thành công rực rỡ  như ngày nay.
Người Việt quốc gia không bao giờ quên ân nghĩa nầy  đối với nhân dân Hoa Kỳ . / .
LÊ QUỐC                                                                             ( Tháng 2-2016)
__._,_.___

Posted by: truc nguyen 

Thursday, 17 March 2016

ĐÈN NÀO CAO CHO BẰNG ĐÈN CHÂU ĐỐC, GIÓ NÀO ĐỘC CHO BẰNG GIÓ GÒ CÔNG?


On Tuesday, March 15, 2016 1:38 PM, sac le <> wrote:

ĐÈN NÀO CAO CHO BẰNG ĐÈN CHÂU ĐỐC, GIÓ NÀO ĐỘC CHO BẰNG GIÓ GÒ CÔNG?
BS Lê Văn Sắc

Tuần vừa qua, tham dự một cuộc tập hát “trích đoạn” của bài Trường Ca của Phạm Duy “Con Đường Cái Quan” thấy có câu “Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc, Gió nào độc cho bằng gió Gò Công?”, tôi bèn thắc mắc là trong kho tàng văn chương và lịch sử của Miền Nam, chưa bao giờ thấy đề cập đến một ngọn đèn nào cao, trừ đèn hải đăng ở trên đỉnh núi của Vũng Tầu, chứ đừng nói gì đến Châu Đốc. Mà đèn Hải Đăng Vũng Tầu không phải do chính quyền Việt Nam thời xưa thiết lập mà do Chính Quyền Bảo Hộ Pháp dựng lên để chỉ dẫn cho các tầu giao thông ngoài biển. Châu Đốc giáp ranh Hà Tiên, lại ở trong nội địa, không ăn ra biển, do đó Châu Đốc không có hải đăng. Thế thì đèn cao của Châu Đốc là đèn nào? 

Tra trong “kho tàng văn chương” miền Nam thì chỉ thấy vài câu ca dao có đề cập đến (Đèn Cao Châu Đốc) nhưng không biết rõ câu ca dao có từ bao giờ? Việt Nam chỉ sở hữu Châu Đốc từ năm 1757 do vua Chân Lạp (Campuchia hiện nay) là Nặc Nguyên nhường cho Chúa Nguyễn. Vậy đèn cao Châu Đốc, nếu có, là đèn có từ sau thời Pháp Thuộc hay ít ra cũng từ lúc dân Bắc Việt vào sinh sống tại Miền Nam. 

Cũng theo lịch sử Việt Nam thì Nặc Nguyên đã luôn đàn áp, áp chế Nước Chiêm Thành (Cônman), lại thông đồng với Chúa Trịnh để đánh Chúa Nguyễn tại Miền Nam (thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát) nên Chúa Nguyễn không giúp Nặc Nguyên để chống lại một vua khác của Chân Lạp, nên Nặc Nguyên thua phải chạy sang Hà Tiên –tức là thua phải chạy sang phía đối nghịch là Việt Nam để lánh nạn, sau phải xin dâng Miền Thủy Chân Lạp (là miền ngập nước của nước Chân Lạp), mà đầu tiên là 2 phủ Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lạp (Gò Công) cho Chúa Nguyễn để cầu hòa nên Miền Thủy Chân Lạp thuộc về Việt Nam (1757, thời chúa Nguyễn Phúc Thuần) (mà ngày nay Campuchia muốn đòi đất lại một cách vô vọng)… và Cao Miên, Campuchia, Chân Lạp bị mất Châu Đốc là hậu quả của những chiến tranh do Chân Lạp (Campuchia) gây hấn, thua phải nhường lãnh thổ để cầu hòa [Lãnh thổ Châu Đốc nguyên là đất thuộc nước Chân Lạp, gọi là Tầm Phong Long (Kompong Long). Năm 1757, vua Chân Lạp nhường cho chúa Nguyễn, chúa Nguyễn giao cho Nguyễn Cư Trinh vào cai trị và thành lập đạo Châu Đốc cùng với đạo Tân Châu và đạo Đông Khẩu (Sa Đéc)]. 

Trong lịch sử không hề có một tài liệu nào nói Châu Đốc có Đèn Cao và Đèn Cao đó được dựng lên lúc nào và xử dụng để làm gì, chỉ thấy ca dao có nói phớt qua như vừa viết ở trên. Còn theo ông  Huy Vũ, mới đây, trong cuốn Quê Hương Niềm Đau và Nỗi Nhớ, nơi Chương 18 đã nêu lên 3 nguồn giả thuyết của ông Hứa Hoành, ông Nguyễn Văn Hầu và “lịch sử” (?) kể chuyện ông Nguyễn Hữu Thoại (sau đổi Nguyễn Văn Thoại), một vị quan phụ trách đào sông Vĩnh Tế của Châu Đốc… và theo cả 3 tài liệu này chỉ nói đến các ngọn đuốc mà không nói đến Đèn Châu Đốc. Chắc chắn tổ tiên ta không “dốt” đến độ không phân biệt được đuốc với đèn… Trong cả 3 tài liệu đều nói đến đuốc, tức là những bó đuốc làm bằng cành cây khô, mà như vậy rất mau tàn, không thể kéo dài cả đêm, tức là “lính tráng hay dân phu cứ phải trèo lên ngọn cây làm trụ đèn” để thay đuốc hoài (mà hàng trăm ngọn là ít). Theo cô giáo Giang Hồng Anh là người từng nghe bà nội (ở Bạc Liêu) có ru các cháu bằng các câu ca dao nói đến Đèn Cao Châu Đốc và đã thấy một số đèn cao loại ấy thắp trên các đỉnh mấy trụ đèn chứ không phải là đuốc cột ngang trên đầu trụ đèn (bằng tre hay gỗ cành, gỗ vụn thời xa xưa). Trở lại thời Việt Nam bị bảo hộ bởi chính quyền Pháp, ở thành phố (như ở Hà Nội, Saigon…), người Pháp thường cho dựng những cột đèn mà đèn là những bình chứa dầu đốt liên tục cả đêm. 

Mặt khác, người Việt Nam, trước khi bị Pháp đô hộ, đã biết dùng dầu đậu phọng, dầu thầu dầu và dầu trai (thông?) đốt ban đêm và kéo dài được cả đêm. Vậy nếu không phải đèn đường ở Châu Đốc do Pháp thiết dựng ở các vỉa hè đường phố thì cũng là các đèn dầu (đậu phọng, thầu dầu, thông) do quan quyền Việt Nam dùng đốt sáng một số nơi (chung quanh các dinh quan quyền) và vì các cột đèn chung quanh dinh trại này cao nên mới có chuyện Đèn Cao Châu Đốc. Nhưng vì cô giáo Giang Hồng Anh chưa bao giờ được đi qua Châu Đốc và chỉ ở Bạc Liêu nên chỉ thấy Đèn Cao Bạc Liêu mà thôi…

Tóm lại câu “Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc, Gió nào độc bằng gió Gò Công” chắc chắn không phải là chuyện liên can đến việc đào Kinh Vĩnh Tế và cũng chưa có một báo cáo nào (về văn chương, tài liệu hay y tế) cho biết gió Gò Công độc. Vùng độc là vùng có nhiều muỗi Anophele  truyền bệnh sốt rét, mà người Việt mình thường lầm, cho rằng vùng nước độc, mà bệnh sốt rét là bệnh ngã nước (bịnh do ăn, uống, do nước truyền cho chứ không biết là do muỗi truyền. Hai miền nổi tiếng là “vùng nước độc” là vùng Thái Nguyên Thượng Du Bắc Việt và Vùng Năm Căn Cà Mâu vì có nhiều muỗi “đòn sóc” Anophene.

(Xin đọc thêm các tài liệu dưới: Bản đồ vùng Châu Đốc-Hà Tiên và các bài viết liên quan).
BS Lê Văn Sắc
1.       Bản Đồ Nam Bộ Việt Nam
2.    Sách Việt Nam sử lược chép:
Nặc Nguyên về làm vua Chân Lạp thường hay hà hiếp rợ Côn Man[12] và lại thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn biết tình ý ấy, đến năm Quý Dậu (1753), sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm Ất Hợi (1755) Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ.
Năm sau Mạc Thiên Tứ dâng thư về nói rằng Nặc Nguyên xin dâng hai phủ Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lạp (Gò Công) để chuộc tội, và xin cho về nước. Chúa Nguyễn không muốn cho. Bấy giờ ông Nguyễn Cư Trinh dâng sớ bày tỏ cách khai thác nên dùng kế "tầm thực" nghĩa là nên lấy dần dần như con tầm ăn lá, thì mới chắc chắn được. Chúa Nguyễn nghe lời ấy bèn nhận hai phủ và cho Nặc Nguyên về Chân Lạp.[13]
Sách Đại Nam thực lục chép:
Nặc Nguyên nước Chân Lạp trình bày rằng việc đánh cướp Côn Man là do tướng Chiêu Chùy ếch gây ra, nay xin hiến đất hai phủ Tầm Bồn, Lôi Lạp và nộp bù lễ cống còn thiếu về ba năm trước để chuộc tội. Mạc Thiên Tứ đem việc tâu lên. Chúa cùng các quan bàn, ra lệnh bắt Chiêu Chùy ếch đem nộp. Nặc Nguyên trả lời rằng ếch đã bị xử tử rồi. Khiến bắt vợ con. Nguyên lại kiếm cớ xin tha. Chúa biết là nói dối, không y lời xin.

Nguyễn Cư Trinh kíp tâu rằng : “Từ xưa việc dụng binh chẳng qua là để trừ diệt bọn đầu sỏ và mở mang thêm đất đai. Nặc Nguyên nay đã biết ăn năn xin hàng nộp đất, nếu truy mãi lời nói dối ấy thì nó tất chạy trốn. Nhưng từ đồn dinh Gia Định đến La Bích, đường sá xa xôi, nghìn rừng muôn suối, không tiện đuổi đến cùng. Muốn mở mang đất đai cũng nên lấy hai phủ này trước để củng cố mặt sau của hai dinh. Nếu bỏ gần cầu xa, e rằng hình thế cách trở, binh dân không liên tiếp, lấy được tuy dễ, mà giữ thực là khó. Khi xưa mở mang phủ Gia Định tất phải trước mở đất Hưng Phước, rồi đến đất Đồng Nai, khiến cho quân dân đông đủ, rồi sau mới mở đến Sài Gòn. Đó là cái kế tằm ăn dần. 

Nay đất cũ từ Hưng Phước đến Sài Gòn chỉ hai ngày đường, dân cư còn chưa yên ổn, quân giữ cũng chưa đủ nữa là. Huống từ Sài Gòn đến Lâm Bôn, xa sáu ngày đường, địa thế rộng rãi, dân số đến vạn người, quân chính quy đóng giữ thực sợ chẳng đủ. Thần xem người Côn Man giỏi nghề bộ chiến, người Chân Lạp cũng đã sợ lắm. Nếu cho họ đất ấy khiến họ chống giữ, “lấy người Man đánh người Man”, cũng là đắc sách. Vậy xin cho Chân Lạp chuộc tội, lấy đất hai phủ ấy, ủy cho thần xem xét hình thế, đặt lũy đóng quân, chia cấp ruộng đất cho quân và dân, vạch rõ địa giới, cho lệ vào châu Đinh Viễn, để thu lấy toàn khu”.
Thời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn độc lập[sửa | sửa mã nguồn]
Lãnh thổ Châu Đốc nguyên là đất thuộc nước Chân Lạp, gọi là Tầm Phong Long (Kompong Long). Năm 1757, vua Chân Lạp nhường cho chúa Nguyễn, chúa Nguyễn giao cho Nguyễn Cư Trinh vào và thành lập đạo Châu Đốc cùng với đạo Tân Châuvà đạo Đông Khẩu (Sa Đéc).

Sau khi vua Gia Long lên ngôi, năm 1805 niên hiệu Gia Long thứ 3, đã đặt lại địa giới hành chính Châu Đốc thuộc trấn Hà Tiên, Châu Đốc lúc này gọi là Châu Đốc Tân Cương. Năm 1808, Châu Đốc thuộc huyện Vĩnh Định, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh, thuộc Gia Định thành. Năm 1815, triều Nguyễn cho xây thành Châu Đốc. Đến1825, Châu Đốc tách riêng thành Châu Đốc trấn.

Năm 1832 niên hiệu Minh Mạng 13, vua Minh Mạng đổi trấn thành tỉnh, phủ Gia Định chia thành Nam Kỳ lục tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, Hà Tiên và An Giang. Trấn Châu Đốc đổi thành tỉnh An Giang. Thành Châu Đốc, vùng đất mà nay là thành phố Châu Đốc, là tổng Châu Phú thuộc huyện Tây Xuyên và trở thành tỉnh lỵ của tỉnh An Giang nhà Nguyễn (thành Châu Đốc khi đó nằm ở khoảng giữa của huyện Tây Xuyên, huyện này gồm cả phần đất nay thuộc đông nam tỉnh Takeo Campuchia). Đồng thời Minh Mạng cho đặt chức tổng đốc An Hà, lỵ sở tại thành Châu Đốc, cai quản 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên (gồm phần lớn đồng bằng sông Cửu Long ngày nay)[6]

Để xứng đáng là tỉnh lỵ của một trong sáu tỉnh Nam Kỳ (tỉnh An Giang thời đó bao gồm các phần đất mà nay là các tỉnh thành An Giang, Cần Thơ,Hậu Giang, Sóc Trăng, một phần của các tỉnh Đồng Tháp, Bạc Liêu của Việt Nam, và một phần của tỉnh Takeo Campuchia), năm 1831 niên hiệu Minh Mạng 12[7], vua Minh Mạng cho triệt phá thành (đồn) Châu Đốc cũ (1815), xây dựng thành Châu Đốc mới theo hình bát quái, ở phía đông đồn Châu Đốc cũ. Theo Nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ Lục tỉnh 1836 của Nguyễn Đình Đầu, tổng Châu Phú khoảng những năm 1836-1839 có các thôn làng sau: Vĩnh Tế Sơn, Vĩnh Ngươi, Vĩnh Phước, Vĩnh Hội, Vĩnh Khánh, Nhơn Hội, Nhơn Hòa, Long Thạnh, Bình Thạnh, An Thạnh, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Thành, An Nông, Hưng An, Khánh An, Phú Cường, Vĩnh Bảo, Vĩnh Thọ, Vĩnh Thông, Vĩnh Lạc, Vĩnh Điều, Vĩnh Trung, Vĩnh Trường, Thới Hưng, Thân Nhơn Lý,...

Mạc Cửu, born Mò Jǐu (鄚玖; 1655–1736) was a Chinese adventurer who played a role in relations between Cambodia and the Nguyen court.[1]
He was born in Leizhou, Guangdong. Sometime between 1687 and 1695,[2] the Cambodian king sponsored him to migrate to Banteay Meas, where he at first served as chief of a small Chinese community, with the Khmer title Okna.[3] By 1700, he had established an independent[citation needed] kingdom at Hà Tiên, known variously as Gangkouguo (港口國), Bendiguo, or Hexian Zhen inChinese, and Cancao, Peam, or Pontomeas by Europeans.[4] The town of Hà Tiên was originally known under the Khmer ព឵ម name of Piem or Peam(also Pie, Pam, Bam), the Khmer for "port", "harbour" or "river mouth".
Mạc Cửu later switched allegiance to the Nguyen.[5] He sent a tribute mission to the Nguyen court in 1708, and in return received the title of Tong Binh of Hà Tiên.[6] He died in 1735.[7]
Mạc's son, Mạc Thiên Tứ, was born in 1700 to a lady from Biên Hòa. He also had a daughter, Mac Kim Dinh, who was married to the son of the Chinese general Trần Thượng Xuyên.[8][9] as more Vietnamese invaded the region, the kingdom was annexed by the Nguyễn and merged with Vietnamese territory in 1800s. A genealogy of his clan is Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả.

ĐÈN NÀO CAO CHO BẰNG ĐÈN CHÂU ĐỐC ?
(Chương 18 của cuốn “Quê Hương Niềm Đau và Nỗi Nhớ”) Tác Giả: Huy Vũ  Trong thời gian trên dưới mười năm sống và làm việc tại thị xã Châu Đốc, không biết bao nhiêu lần tôi đã được nghe nhắc đến câu ca dao: 
    Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc     Gió nào độc cho bằng gió Gò Công.  Hay:    Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc    Đất nào dốc cho bằng đất Nam Vang.   

Nên có đôi lúc tôi tự hỏi là, do những sự kiện hay sự cố nào mà lại có sự tích:  “ĐÈN NÀO CAO CHO BẰNG ĐÈN CHÂU ĐỐC”. Đi tìm lời giải thích cho sự tích này, tôi thấy được một vài lời giải thích sau đây: 
1/   Nhà văn Hứa Hoành, trong bài báo nói về  “Năm Thìn Bão Lụt (1904)” đăng trong “Giai Phẩm Xuân Canh Thìn 2000” viết: “Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc, kể lại sự tích đào kinh Vĩnh Tế. Đây là con kinh dài nhất Nam Kỳ, non 100 kilô mét, nối từ Châu Đốc tới Giang Thành Hà Tiên.  Kinh khởi công năm 1819 (cuối đời Gia Long) đến 1820 ngưng lại (vì Gia Long băng hà).  Vua Minh Mạng nối ngôi, kế tục công trình từ năm 1822 tới năm 1824 hoàn thành. Trong việc đào kinh phải sử dụng tất cả khoảng 80.000 dân phu với dụng cụ thô sơ là cuốc xẻng. Miền nam nóng gay gắt, ban ngày đào kinh cực nhọc nên phải đào ban đêm.  Muốn con kinh được ngay thẳng, phải cắm những cây sào làm mốc (tiêu điểm) trên ngọn có cây đuốc, để nhắm hướng mà đào.  Từ đó có sự tích: Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc.” 

2/   Học giả Nguyễn Văn Hầu, trong cuốn “Thoại Ngọc Hầu Với Những Công Trình Khai Phá Miền Nam (trang 192)” viết: “Để cho con kinh được ngay, người ta đợi lúc ban đêm, rẽ sậy rạch hoang, đốt đuốc trên đầu những cây sào cao rồi nhắm hướng theo đường thẳng mà cặm. Muốn điều khiển những cây sào lửa ấy cho ngay hàng, người ta cầm một cây rọi to, đứng trên cao phất qua phất lại ra hiệu cho người cầm sào tìm đúng vị trí.” 
3/   Sử liệu cũng chỉ đề cập đơn sơ rằng: “Để cho đường kinh được thẳng, Nguyễn Văn Thọai cho đốt đuốc trên đầu những cây sào dài, về ban đêm những cây sào lửa ấy là những cọc tiêu để nhắm đường kinh cho ngay thẳng. 

Qua ba lời giải thích trên đây, ta thấy mỗi lời giải thích theo một hướng khác nhau. Theo ông Hưá Hoành thì đó là những bó đuốc trên đầu những cây sào cao để cho dân phu đào kinh vào ban đêm nhắm hướng đào cho thẳng. Theo cụ Hầu thì đó là những bó đuốc trên đầu những cây sào cao để giúp cho những người có nhiệm vụ cắm những cây sào nọc trong đêm tối, nhắm hướng đệ cặm chúng theo một đường thẳng. 

Theo sử liệu thì những “cây sào lửa” vào ban đêm là những “cọc tiêu” để nhắm đường kinh cho ngay thẳng. Tóm lại ta có thể có một kết luận chung rằng: Trong thời gian đào kinh Vĩnh Tế từ năm 1819 đến 1824, trên vùng trời Châu Đốc vào ban đêm có những ngọn đèn hay ngọn đuốc rất cao mà người ta có thể nhìn thấy từ xa, song những ngọn đuốc cao ấy là ngọn đuốc nào, và được dùng làm gì trong thời gian đào kinh, thì những lời giải thích xem ra đều mập mờ khó hiểu. Để tìm hiểu về những ngọn đèn cao này là những ngọn đèn nào, và chúng đóng vai trò gì trong việc đào kinh, ta thử phân tích những lời giải thích này.  

A/   Theo ông Hứa Hoành thì những bó đuốc này được dùng vào việc nhắn hướng đào vào ban đêm cho kinh được ngay thẳng. Thọat nghe, ta thấy cũng có lý.  Nhưng suy nghĩ kỹ, lại thấy không ổn, bởi các lẽ sau đây: 
-   Kinh Vĩnh tế ngay vào lúc đào, theo một tài liệu bằng Hán Văn của Trịnh Hoài Đức có kích thước là “hoành thập ngũ tầm, thâm lục xích”. Đổi tầm và xích ra thước Tây hay mét, thì kinh có chiều rộng là 30m và sâu là 2,4m. 

Trong việc đào kinh, để tránh đất ở hai bên bờ kinh không bị lở hay truồi trong tương lai, người ta phải đào thế nào, cho thành kinh có một độ dốc nào đó.  Muốn có độ dốc này, thì bề ngang của đáy kinh thường phải nhỏ hơn bề ngang của mặt kinh. Như vậy, nếu chiều rộng mặt kinh là 30m, thì chiều rộng của đáy kinh ít nhất cũng phải là 28m.  Căn cứ vào kích thước này, thì cứ mỗi mét đào tới, dân phu phải đào, cuốc, xúc mang đi một khối đất là: (30m+28m)/2 x 2,4m x 1m = 69,6 m3 

-   Khi đào kinh bằng nhân lực, người ta không thể tập trung quá đông người vào một đoạn kinh ngắn nào đó, vì làm như thế năng xuất lao động sẽ giảm và tai nạn lao động sẽ tăng lên, nên dân phu đào kinh được chia thành từng toán, trải dài theo kinh. Mỗi mét đào tới dân phu phải mang một khối đất gần 70 mét khối, ra khỏi lòng kinh để đắp hai con lộ chạy dọc theo hai bờ kinh nưã. như một bài vè đã ghi lại từ thời ấy:  
“Chia ba người một thước
Đào sâu xuống nước
Hai thước sáu ba
Bề ngang đào qua
Là sáu thước chẵn
Việc mần mệt nặng
Kẻ cuốc người rinh
Chừa hai bên kinh
Đắp hai con lộ…” 

-   Như thế mỗi toán nhỏ này dù chỉ đào một phần chiều sâu và một phần chiều ngang thôi, thì mỗi đêm cũng chỉ có thể “tiến” về phía trước được một đoạn dài khoảng 4 hay 5 mét là cùng.  Với tốc độ đi tới, chậm hơn sên bò nữa, liệu có cần phải có những bó đuốc thật cao để nhắm hướng không? Chắc chắn là không rồi. 
B/   Theo cụ Hầu, thì những bó đuốc cao này là những cây sào lửa dùng để cắm nọc trong việc đào kinh, và sở dĩ người ta phải cặm những cây nọc vào ban đêm, không phải là để tránh nắng gay gắt, mà là vì vùng đào kinh quá rậm rạp, khiến việc điều chỉnh để cắm những cây mốc hay cây nọc theo một đường thẳng vào lúc ban ngày gặp khó khăn. Do đó, nhóm người có nhiệm vụ cắm những cây mốc này phải đợi vào lúc đêm tối “đốt đuốc trên đầu những cây sào cao, rồi nhắm hướng theo đường thẳng mà cặm”. Lời giải thích của cụ Hầu nghe thoáng qua cũng hợp lý lắm, song nghĩ kỹ lại thấy lấn cấn. 

Trước khi đào một con kinh, ngày xưa cũng ngày nay, người ta thường phải cắm hai hàng cọc mốc, để xác định rõ hai mép của con kinh phải đào. Lấy một đoạn kinh nào đó để khảo sát ta thấy, hai hàng cọc này thường song song với nhau và phần đất ở giữa là chiều rộng của mặt kinh phải đào. Những cây cọc được dùng làm cây mốc, trong  trường hợp vùng đào kinh không quá rậm rạp, thường là những đoạn cây nhỏ, bằng gỗ hay bằng tre nhưng phải thẳng cho dễ nhắm hướng. Sau khi đã cắm hay đóng sâu xuống mặt đất để gió bão hay súc vật không làm chúng nghiêng ngả, phần còn lại trên mặt đất của cây mốc vẫn còn đủ cao để người đào kinh có thể nhận ra được dễ dàng.  

Dĩ nhiên, trước khi đóng những cây mốc sâu và chắc xuống mặt đất, người ta phải ngắm nghía và điều chỉnh thế nào để thân những cây mốc ấy chẳng những phải thẳng đứng và còn phải thẳng hàng với nhau nữa. Điều này còn có nghiã là những cây nọc này cùng nằm trong một mặt phẳng thẳng đứng duy nhất.  Trong hình học không gian, cứ hai đường thẳng song song xác định một mặt phẳng, và bất kỳ một đường thứ 3 nào song song và thẳng hàng với hai đường thẳng có trước này sẽ phải cùng nằm trong mặt phẳng ấy. Như vậy, mỗi hàng cọc mốc trong một đọan kinh nào đó còn là một mặt phẳng duy nhất trực giao với mặt đất, và giao tuyến của mặt phẳng này với mặt đất chính là một trong hai đường mép của con kinh mà người ta muốn đào. 

Những cây cọc dùng làm cây mốc trong việc đào kinh ngày nay thường chỉ dài hay cao từ 0,5 đến 1 mét. Còn những cây cọc dùng làm cây mốc ở kinh Vĩnh Tế ngày xưa, theo cụ Hầu, là những cây sào rất dài từ 4 đến 5 mét hay hơn nưã.  Vì phải cắm vào ban đêm trong một vùng đất có nhiều cây cối rậm rạp, nên người xưa còn phải cột thêm vào đầu cây sào dài ấy một bó đuốc đang cháy nữa cho dễ thấy và dễ ngắm, trong việc điều chỉnh chúng thẳng góc với mặt đất và thẳng hàng với nhau.  

Với cung cách cắm những cây mốc lửa để xác định mép kinh, như cụ Hầu dẫn giải, liệu các cụ ta ngày xưa có thể cắm được những cây sào lửa rất cao ấy vừa thẳng đứng với mặt đất lại vừa thẳng hàng với nhau một cách vững chắc không? Câu trả lời dường như là rất khó hay không thể làm được, vì các lẽ sau đây:
1.   Để cắm những cây mốc được thẳng hàng, ngày xưa cũng như ngày nay, thì trước hết người ta phải cắm hai cây mốc chuẩn, tạm gọi chúng là M1 và M2, cùng thẳng góc với mặt đất, và cùng nằm trên đường mép kinh của con kinh và cách nhau một khoảng cách vừa phải. Về phương diện lý thuyết, M1 và M2, xác định một mặt phẳng cố định P nữa. 

 Sau đó, người ta dùng M1 và M2 làm chuẩn để ngắm nghía và điều chỉnh cắm cây mốc M3. Dĩ nhiên, trong khi điều chỉnh, người ta phải làm thế nào cho M3 vừa song song vừa thẳng hàng với M2 và M1.  Nói khác đi là M3 cũng nằm trong mặt phẳng cố định P đã được xác định bởi M1 và M2. Khi cắm nọc dọc theo đường mép kinh, có nghĩa là phải dần dần tiến về phía trước, nên người ta có thể quên M1, và dùng M2 và M3 làm chuẩn để cặm M4. Tiếp tục như thế để cặm M5, M6 cho tới cây mốc chót Mx cho một đoạn kinh nào đó. 

2.   Trên đây là trường hợp thông thường, cắm nọc vào ban ngày ban mặt, và trong vùng quang đãng hay tương đối quang đãng. Nhưng ở kinh Vĩnh Tế, theo cụ Hầu, người ta lại cắm những cây mốc trong một vùng cây cối um tùm rậm rạp, nên không thể ngắm nghía trực tiếp từ thân cây mốc M1 và M2, để cắm cây mốc M3 được, mà lại phải dùng những cây mốc làm bằng những cây sào dài và trên đầu cây sào ấy lại còn cột thêm một bó đuốc lớn nữa, để có thể ngắm nghía trong đêm tối qua tâm bó đuốc chứ không qua thân cây sào dài.  
Nói thế có nghĩa là mặt phẳng cố định P trong trường hợp này được xác định bằng điểm, chứ không phải bằng hai đường thẳng song song M1 và M2 nữa, vì khi ngắn nghía để điều chỉnh cắm M3 người ta đâu có nhìn thấy thân cây sào, mà chỉ thấy những đốm lửa trên đầu cây sào thôi. Trong hình học không gian người ta cần tới ba điểm không thẳng hàng để xác định một mặt phẳng. 

Như vậy khi cắm những cây mốc vào ban đêm, người ta cần tới ba ngọn đuốc chuẩn để xác định  mặt phẳng chuẩn P. Mặt phẳng này chẳng những phải thẳng góc với mặt đất mà còn phải chứa thân (dù không nhìn thấy được) của cả ba cây đuốc được dùng làm những cây mốc chuẩn nữa.  

Nói một cách khác là lúc đầu người ta dùng tâm của những bó đuốc trên đầu những cây sào M1, M2 và M3 để xác định mặt phẳng thẳng đứng cố định P, rồi điều chỉnh tâm của bó đuốc trên đầu cây sào M4 lọt vào mặt phẳng này để cắm M4. Rồi sau đó tiếp tục dùng tâm của M2, M3, M4 để cặm M5.. .. 

Có một điều khá quan trọng cần phải nói rõ hơn là, ở đây cặm những cây nọc dài 4 hay 5 mét trên đầu lại còn cột thêm một bó đuốc nữa nên không thể dùng búa đóng thẳng xuống đất, mà phải đào sâu trôn chặt, vừa tốn công, vừa mất thì giờ, và cũng không dễ dàng gì trong việc điều chỉnh M4 cùng song song và thẳng hàng với M3, M2, và M1 khi không hề nhìn thấy thân hình của chúng mà chỉ thấy ngọn đuốc trên đầu chúng  mà thôi.   

Như vậy, muốn cho thân những cây sào mốc và tâm của những đốm lửa trên đầu chúng, vào lúc cho lệnh cặm cây mốc thứ tư, cùng nằm trong một mặt phẳng thẳng đứng duy nhất, cần phải hội đủ các điều kiện sau đây: 

1-   Bản thân những cây sào mốc dài này phải rất thẳng, có nghĩa là 3 điểm, gốc – giữa – ngọn, phải luôn luôn thẳng hàng hay cùng nằm trên một đường thẳng. 

2-   Tâm của bó đuốc cột trên đầu cây sào mốc phải luôn luôn nằm trong đường thẳng của mỗi cây sào, có nghĩa lã 4 điểm thẳng hàng.  3-   Trong lúc điều chỉnh cho tâm của bó đuốc cuả cây mốc thứ tư nằm trong mặt phẳng P thì thân và tâm của cả bốn cây sào mốc (tuy không nhìn thấy) phải  cùng vẫn ở vị thế  thẳng góc với mặt đất và thẳng hàng với nhau. 

Vào thời gian đào kinh Vĩnh tế, nghĩa là vào khoảng gần 200 năm trước đây, dường như tất cả 3 điều kiện trên đây rất khó thực hiện, vì:  
-    Những cây cọc dùng làm cây sào mốc khi đào kinh Vĩnh Tế chắc chắn không phải là những thanh thép dài và cứng, và cũng không phải là những thanh cây (gỗ) dài được cưa cắt thẳng thắn.  Nếu là thanh cây dài mà thân nhỏ, thì khi dựng đứng giữa trời sẽ không còn ngay thẳng được nữa, và nếu dài mà thân lớn để khi dựng lên mà vẫn còn đủ cứng đứng ở vị thế thẳng đứng, thì lại quá nặng nề rất khó di chuyển và cũng không thể có nhiều được. 

Những cây sào mốc cao mà cụ Hầu đề cập là những cây sào bằng tre thẳng và thân không lớn lắm.  Song những cây tre như thế, dù là vào rừng tre đi nữa, cũng  không phải là dễ kiếm. Do đó, có lẽ người ta phải lựa những cây tre tương đối thẳng, đem hơ lửa, rồi uốn nắn cho thật thẳng để dùng làm cây sào mốc. Một cây mốc cao làm bằng thân một cây tre dài, tất nhiên có phần gốc to và cứng, phần ngọn nhỏ và mềm, nên khi dựng đứng chơi vơi giữa trời một mình nó thôi, liệu còn là một cây sào thẳng đứng nưã không?

-    Thân một cây tre được dùng làm cây sào mốc, cho dù khi dựng đứng lên vẫn thẳng như thường. Nhưng bây giờ người ta lại cột thêm vào ngọn của nó, không phải là một cọng nhang, mà là một bó đuốc. Như vậy liệu 4 điểm (gốc, giưã, ngọn, và tâm bó đuốc nó vẫn còn thẳng nữa không ? Nói khác đi là trong trường hợp này, tâm đốm lửa của bó đuốc cột trên ngọn cây sào, không chắc còn nằm trên đường thẳng của cây sào nữa.     

-    Trong kỹ thuật đốt đuốc, một cây đuốc ở vị thế thẳng góc với mặt đất không thể cháy lâu dài được. Thật vậy, những ai đã từng đốt đuốc đi trong đêm tối chắc biết rõ điều này.  Một bó đuốc khô bằng sậy hay bằng nứa đang cháy sáng ở vị thế nằm ngang song song với mặt đất, ngọn lửa bén vào thân cây đuốc cháy một cách dễ dàng. Nếu giữ điểm gốc cố định và cho điểm ngọn di động. Càng xuống thấp bao nhiêu, thì ngọn lửa càng bén nhanh vào thân cây đuốc bấy nhiêu. Càng lên cao bao nhiêu, thì ngọn lửa bén vào thân cây đuốc càng chậm bấy nhiêu. Khi ngọn lửa lên tới vị trí cao nhất, nghĩa là thân cây đuốc thẳng góc với mặt đất, thì dường như ngọn lửa bén vào thân cây đuốc một cách rất khó khăn, nên chỉ ít phút sau ngọn đuốc không còn cháy sáng được nữa.  Khi những cây sào lửa ở vị thế thẳng đứng không thể cháy sáng lâu hơn 9 hay 10 phút, thì làm sao người ta có đủ thì giờ vừa giữ cho những cây sào lửa luôn luôn thẳng góc với mặt đất, lại vừa phải đào sâu trôn chặt nữa giửa một vùng cây cối um tum và rậm rạp vào ban đêm được. Giả dụ cả ba điều kiện kể trên được thỏa mãn, và việc cắm những cây mốc được thực hiện y chang như cụ Hầu diễn tả, thì thời gian đốt đuốc để làm công việc này cũng không đủ dài để tạo nên sự tích “đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc”.  Thật vậy, cắm những cây mốc là công việc đi tới và chỉ cần làm một lần là đủ. Dù là trong một vùng rậm rạp, toán cắm nọc trong một đêm cũng có thể đi tới được ba, bốn cây số.  Như vậy chỉ cần tối đa là 30 đêm, người ta có thể hòan tất được một chiều dài non 100 cây số. 

Ba mươi (30) chia cho thời gian 4 năm đào kinh, như vậy mỗi năm trung bình chưa quá 10 đêm đốt đuốc để đi cắm nọc, thì làm sao người dân trong và quanh vùng nhận ra được hiện tượng “đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc”.   Tóm lại, dưa vào thực tế và căn bản toán học lời giải thích cuả cụ Hầu dường như khó có thể chấp nhận được. 

C/  Theo sử liệu thì để cho đường kinh được thẳng, Nguyễn Văn Thọai cho đốt đuốc trên đầu những cây sào dài, về ban đêm những cây sào lửa ấy là những “cọc tiêu” để nhắm “đường kinh” cho ngay thẳng. Nói một cách chung chung và tổng quát như thế nên rất khó hiểu. Song suy nghĩ kỹ ta mới thấy lời giải thích này là thích hợp  hơn cả.  

Qua sử liệu người ta được biết, trước khi tiến hành đào kinh Vĩnh Tế, nhà Nguyễn đã cho điều nghiên rất kỹ lưỡng. Công việc này đã được thực hiện làm nhiều giai đọan. Khởi đầu bằng việc phát cỏ vào năm 1918 dọc theo con kinh. 

Rồi tiếp đến là việc cử một toán chuyên viên tiền phong, gồm mười chiếc ghe đi sâu vào vùng dự trù đào kinh để phác họa những đường nét cơ bản của con kinh, cùng khảo sát kỹ lưỡng về hiện trạng cây cối, mực độ thủy chiều, tính chất đất đai và thế đất cao thấp, v.v.. cho từng đoạn và được ghi chép đầy đủ.  

Như vậy, ta có thể tin rằng đoàn khảo sát ít nhất cũng đã họach định rõ ràng trên bản đồ cũng như ngoài địa thế tất cả những điểm quan trọng mà con kinh phải đi qua. Nói một cách khác là đã xác định rõ ràng những đoạn kinh thẳng nối tiếp nhau, tạo thành “đường kinh” hay “đường tâm kinh”, như khởi đầu từ điểm A chạy thẳng đến điểm B, rồi đổi hướng chạy thẳng tới điểm C, và sau đó lại đổi hướng chạy thẳng tới điểm D, v.v.., và cuối cùng ngừng lại tại điểm X. Những điểm này tất nhiên chẳng những được ghi lại trên bản đồ, mà còn được đánh dấu ngoài địa thế bằng những “cọc tiêu” vừa cao, vưà to, và chắc chắn nưã. 

Kinh Vĩnh Tế tuy dài nhưng những điểm mà kinh đổi hướng hay đổi chiều lại rất ít, nên những cây cọc tiêu chính này thường rất xa nhau. Vào ban ngày, từ một cọc  tiêu nào đó người ta rất khó thấy hay không thể thấy được cây cọc tiêu kế tiếp, nên vào ban đêm phải đốt lưả trên đầu những cây cột tiêu này cho dễ nhận ra.  Khi một toán dân công hay dân quân được đưa tới để đào một đoạn kinh nào đó, người ta chỉ việc ngắm hai cây “cọc tiêu” gần nhau nhất là tìm ra được đường kinh hay đường tâm kinh. Sau đó dựa vào đường này và chiều rộng của lòng kinh để xác định hai đường thẳng song tượng trưng cho hai mép cuả đoạn kinh muốn đào.   

Sử liệu cũng ghi nhận dân phu đào kinh Vĩnh Tế thường lên tới nhiều ngàn người cùng một lúc.  Như vậy người ta không thể tập trung dân phu vào một hay hai địa điểm mà phải phân bố ra nhiều điểm trong một đoạn hay trong nhiều đoạn kinh khác nhau. Tại điểm đứng của mỗi cọc tiêu, Bộ Chỉ Huy đào kinh cắt cử, một hay hai người có bổn phận, cứ đêm đêm đốt lửa trên đầu các cây cọc tiêu đứng ở đầu, ở cuối hay ở trong mỗi đoạn thẳng cuả kinh. Các toán đo đạc trong mỗi đoạn thẳng cuả kinh chỉ cần dưạ vào các đốm trên đầu các cọc tiêu này tìm ra đường tâm kinh, rồi căn cứ vào đường này để xác định đường mép kinh của đoạn kinh phải đào. 

Khi làm công việc này, các toán chuyên viên chỉ cần cho một người đứng trên một chòi cao bên ngoài hai cọc tiêu chính, dựa vào hai đốm lửa cố định trên đầu hai cọc tiêu chính, rồi dùng bó đuốc nhỏ trên tay phất qua phất lại, như cụ Hầu mô tả, để điều chỉnh lần lượt từng cọc tiêu phụ cũng là những cây sào cao, nhưng không cần cao bằng hai cọc tiêu chính, với bó đuốc trên đầu, sao cho đốm lửa thứ ba này cùng nằm trong mặt phẳng xác định bởi hai cây mốc chính là cho lệnh cắm cây mốc phụ này.  

Tóm lại, hàng chục đốm sáng trải dài và vượt lên khỏi đường chân trời, mà đêm đêm người ta thấy xuất hiện ở vùng Châu Đốc, trong suốt thời gian đào kinh Vĩnh Tế, không phải là những bó đuốc trên đầu những cây sào cao, dùng cho dân phu ngắm nghía để đao kinh được ngay thẳng; cũng không phải là những bó đuốc trên đầu những cây sào cao dùng trong việc nhắm hướng để cắm những cây mốc cho ngay thẳng vào ban đêm trong vùng rậm rạp, mà là những đốm lửa trên đầu những cây “cọc tiêu chính” được dựng lên tại đầu, cuối, hay ở trong mỗi đoạn thẳng cuả kinh, và được dùng để tìm “đường kinh” hay “đường tâm kinh” trước khi cắm những cây nọc xác định hai đường mép kinh cuả đọan kinh sắp đào.  

Chính những đốm sáng trên đầu những cây cọc tiêu này đã tạo nên sự tích “Đèn Nào Cao Cho Bằng Đèn Châu Đốc”.

__._,_.___

Posted by: sacvan le 

Featured post

Lisa Pham Vấn Đáp official 8/6/2023

Popular Posts

Popular Posts