Con
người tự do là đích đến của giáo dục
Văn
Hùng - Kiều KhảiNông nghiệp
Việt Nam
09:16' CH - Thứ
năm, 18/02/2016
Đây
là quan điểm của TS Giáp Văn Dương khi ông đề cập đến việc đất nước ta đang
thiếu đi một triết lý giáo dục...
Quan điểm này được TS Giáp Văn Dương đưa ra khi ông có điều kiện
trải nghiệm ở một số môi trường giáo dục tại các quốc gia tiên tiến trên thế
giới như Anh, Singapore, Hàn Quốc, Áo, Nhật Bản…
TS Giáp Văn Dương (trái) cho rằng, khi đã chọn đào tạo con người công cụ làm triết lý thì không có cách nào làm cho giáo dục tốt lên được
Thi giỏi nhưng làm việc yếu
Bằng
sự trải nghiệm của mình, ông nhận định như thế nào về điểm khác biệt giữa nền
giáo dục ở Việt Nam và các nước mà ông có cơ hội tìm hiểu, đặc biệt là chuyện
thi cử?
Tôi đã trải nghiệm một số nền giáo dục khác nhau. Á, Âu đều có.
Rồi cũng nhận ra rằng, Á vẫn là Á mà Âu vẫn là Âu, khác nhau một trời một vực.
Chẳng hạn, Hàn Quốc vẫn còn nặng nề về thi cử. Gần như 100% học sinh đều tham
gia luyện thi tối ngày để vào trường tốt.
Đến mùa thi đại học, các bà các mẹ lũ lượt vào chùa cầu may cho
con cái đỗ đạt. Về mức độ thì còn nặng nề hơn cả ở Việt Nam, vì ở một nền kinh
tế cạnh tranh như thế, và do truyền thống Nho giáo còn ảnh hưởng mạnh mẽ, không
học đại học đồng nghĩa với một tương lai ảm đảm.
Singapore cũng vậy. Nhưng Singapore nói tiếng Anh nên thoáng hơn
trong việc tiếp thu các tư tưởng và phương pháp giáo dục của Tây, đề cao tính
thực dụng và sáng tạo. Truyền thống học để thi của Nho giáo vẫn ảnh hưởng mạnh
lên hệ thống giáo dục Singapore, vì cộng đồng người Hoa vẫn chiếm đa số.
Thi cử là một phương tiện để đánh giá hiệu quả giáo dục, đã trở
thành mục tiêu trong các nền giáo dục châu Á. Nhưng ở bên kia bán cầu thì rất
khác. Như Áo hoặc Anh, nơi tôi học và làm việc, thì học hành thi cử rất nhàn.
Giáo dục có cả một truyền thống tư tưởng và triết lý bắt nguồn từ
triết học, lại được sự hậu thuẫn của khoa học, và chạy trên nền tảng xã hội dân
chủ, nên rất khoa học và hiệu quả. Đó thực sự là một phương tiện để phát triển
con người, chứ không phải là đày đọa con người. Thi cử trong các nền giáo dục
này chỉ là một trong nhiều phương tiện để đánh giá chất lượng dạy và học, chứ không
phải là mục tiêu của giáo dục.
Nói
cách khác, họ hiểu rất rõ học để phát triển con người. Vậy phải chăng thi chỉ
là phương tiện đánh giá học và dạy có tốt không thôi, thưa ông?
Thi cử là công cụ để đánh giá chất lượng của việc dạy và học. Ở
đây phải nói rõ thêm một chi tiết nhỏ nhưng quan trọng mà chúng ta hay nhầm
lẫn: Thi cử là công cụ để đánh giá chất lượng dạy và học theo những nội dung và
mục tiêu được soạn sẵn, chứ thi cử không phải là dùng để đánh giá con người.
Những gì được học chỉ là một phần nhỏ, nhưng xu hướng hiện nay đang sử dụng thi
cử như là công cụ duy nhất để đánh giá con người. Đó là điều vừa vô lý, vừa
đáng lo ngại.
Nhìn vào nội dung các kỳ thi là những người làm giáo dục dày dạn
có thể nhìn thấy được hình dáng của những thế hệ sắp tới, hình dung được phần
nào tương lai của đất nước. Thi cử nếu chỉ chú trọng vào học thuộc thì chắc
chắn sẽ tạo ra một đất nước gia công, vì cả hai đều không cần sáng tạo, mà chỉ
cần tuân thủ, bảo sao làm vậy.
Nếu
nói về thành tích thi cử với các loại huy chương quốc tế thì Việt Nam đã gặt
hái được khá nhiều. Nhưng tìm một bằng sáng chế có ứng dụng hay một thành tích
khoa học để đời thì lại quá khó. Điều đó cho thấy, cách học để thi không tạo ra
người giỏi. Mà bản thân khái niệm người giỏi cũng phải xem xét lại. Quan điểm
của ông về điều này?
Người giỏi hiện giờ được coi là người học giỏi, mà cụ thể hơn là
thi giỏi. Nhưng người giỏi thực sự phải là người làm giỏi. Chỉ tiếc rằng những
người làm giáo dục chẳng mấy khi quan tâm đến chuyện này, nên tạo ra những lớp
người thi rất giỏi mà kỹ năng làm việc rất yếu. Tôi muốn nói đến sự thiếu hụt
về kỹ năng mềm của sinh viên Việt Nam, nhất là kỹ năng làm việc nhóm của các em
rất yếu. Mặt khác, ngoại ngữ và kỹ năng độc lập đối thoại, tự chủ để hội nhập
của các em cũng còn non lắm.
Muốn gỡ nút tắc này, thì không còn cách nào khác là phải trở lại
với câu hỏi cơ bản nhất: Học để làm gì?
Vậy theo ông, học để làm gì?
Học để trở thành con người tự do chứ còn để làm gì nữa (cười).
Theo UNESCO học để biết, để làm, để khẳng định bản thân và để
chung sống với người khác. Nhận định này chính xác. Nhưng tôi cho rằng, học để
trở thành con người tự do sẽ đi vào bản chất sâu xa nhất của giáo dục, và vì nó
chạm được đến bản chất của tồn-tại-người, với tất cả tính nhân văn, quyền năng
và trách nhiệm mà nó phải gánh chịu.
TS Giáp Văn Dương trong một chương trình truyền hình cùng với ĐBQH Dương Trung Quốc và nhà báo Tạ Bích Loan
Tôi cho rằng, khi làm giáo dục thì phải trả lời bằng được ba câu
hỏi: Học để làm gì, Học cái gì và Học thế nào?
Trong ba câu hỏi này thì theo
tôi, “Học để làm gì?” là quan trọng nhất. Trả lời được câu hỏi này, hoặc ở mức
thấp hơn là định hướng được câu trả lời cho câu hỏi này, thì hai câu hỏi kia sẽ
tự động được trả lời. Vì thế, học để làm gì chính là con đường ngắn nhất để đi
thẳng vào triết lý giáo dục của hệ thống, và sau đó là của mỗi cá nhân.
Ở Việt Nam, tôi đã có khảo sát với số lượng hàng trăm học sinh và
sinh viên, trong đó có nhiều em sắp ra trường, vậy mà khi hỏi học để làm gì,
các em vẫn không biết trả lời ra sao. Đa số các em thậm chí còn chưa bao giờ
đặt ra câu hỏi này cho mình.
Hầu hết chỉ học như một sự lập trình sẵn, đến ngày đến tháng thì
đi học, học hết lớp nhỏ thì lên lớp lớn, hết phổ thông thì thi đại học, mà
không hề bận tâm đến mục đích của những việc đó. Trong lúc vô tâm đó thì các kỳ
thi xuất hiện đều đặn và khẳng định tầm quan trọng của mình trong việc phán
xét. Thế là có một mục tiêu: Học để thi. Thi gì học nấy. Không thi không học.
Thi xong thì quên luôn!
Không tin bạn cứ thử trò chuyện với các sinh viên, những người sắp
bước vào đời thì sẽ thấy ngay: Phần lớn là chưa thi thì chưa học. Trong học kỳ
thì léng phéng, gà gật chơi bời. Chỉ đến khi thi thì mới tìm mọi cách để nhồi
nhét chống đối cho xong. Dần dần ăn vào máu của người Việt rồi trở thành bản
tính của số đông.
Ở những nền giáo dục tiên tiến thì giáo dục đào tạo con người nào
là rất rõ ràng. Nhà nước hoạch định một chiến lược giáo dục rất cụ thể cho việc
đào tạo con người mà họ hướng tới, và giải thích rõ ràng và thuyết phục cho
toàn dân là tại sao lại như vậy. Trong khi đó, ở Việt Nam chưa bao giờ một phát
biểu tường minh về con người mà chúng ta muốn hướng tới, tức chưa bao giờ phát
biểu tường minh về triết lý giáo dục của hệ thống mà chúng ta đang vận hành,
dẫn đến bế tắc về triết lý giáo dục.
Vì chưa rõ, hay phát biểu chưa được tường minh về triết lý giáo
dục cho nên thiết kế nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy bị rối, không
có linh hồn rõ ràng, và quan trọng hơn là không thuyết phục được toàn dân tin
theo nên phải áp đặt từ trên xuống. Chừng nào chưa giải quyết được câu chuyện
triết lý giáo dục này thì chừng đó giáo dục còn bế tắc.
Cần con người công cụ hay con người sáng tạo?
Ông có hình dung được triết lý giáo dục của Việt Nam không?
Đó là đào tạo con người công cụ. Chúng ta đào tạo con người chỉ để
phục vụ một kế hoạch đã định sẵn, một thiết kế định sẵn, một ý chí định sẵn, mà
không đào tạo ra những con người biết vượt qua những cái định sẵn đó để tạo ra
sự phát triển. Đây là cách giáo dục phục vụ cho nền kinh tế quan liêu bao cấp
tập trung.
Trong thời chiến và trong thời bao cấp, nền giáo dục này có thể
phát huy được ít nhiều hiệu quả với tư cách là phục vụ trực tiếp những mục tiêu
ngắn hạn. Nhưng về dài hạn thì cũng giống như nền kinh tế quan liêu bao cấp tập
trung, nó không có sức sống vì không trân trọng con người với tư cách là con
người tự do và không phát huy được mọi khả năng của con người.
Vì lẽ đó, về đại thể thì giáo dục vẫn còn dẫm chân tại chỗ của
những năm 80 thế kỷ trước, trong khi kinh tế đã từ bỏ mô hình quan liêu bao cấp
tập trung để chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần.
Chính triết lý đào tạo con người công cụ này, dù được thừa nhận
chính thức hay không, đã chi phối toàn bộ nội dung chương trình và cách thức
làm giáo dục ở Việt Nam. Chỉ khi nào vượt qua, bằng cách tạo ra một triết lý
mới, nhân văn và tiến bộ, và phát biểu triết lý đó một cách tường minh cho toàn
dân biết, và sử dụng nó như kim chỉ nam cho mọi hoạt động giáo dục thì khi đó giáo
dục mới có bước phát triển mới.
Nói
như vậy thì Việt Nam cần một triết lý giáo dục như thế nào để thực sự nhân văn
và tiến bộ?
Chỉ có con người tự do mới đủ năng động và sáng tạo để làm chủ
thực tế và kiến tạo phát triển. Vì lẽ đó, con người tự do là đích đến của giáo
dục.
Lý do ư? Thì như tôi đã nói, triết lý đó sáng rõ và đủ lớn để bao
trùm và định hướng mọi hoạt động của giáo dục, và đủ sức để thuyết phục toàn
dân hưởng ứng, vì đâu có ai là người không muốn có tự do, ai là người thích làm
công cụ cho người khác? Và quan trọng hơn, nó rất nhân văn, nó làm cho con
người ta trở thành người đúng nghĩa, cho phép người ta phát huy hết mọi khả
năng của mình theo cách sáng tạo nhất, để từ đó sống đời sống có ý nghĩa và
trách nhiệm.
Chỉ với những con người như thế, chúng ta mới phát triển được,
trong một thế giới nhiều cạnh tranh và biến động.
TS Giáp
Văn Dương sinh năm
1976 (quê ở Lạng Giang, Bắc Giang), tốt nghiệp kỹ sư ngành Hoá dầu đại học
Bách khoa Hà Nội năm 1999, thạc sĩ ngành Công nghệ hoá học Đại học quốc gia
Chonbuk (Hàn Quốc) năm 2002, tiến sĩ ngành Vật lý kỹ thuật Đại học Công nghệ
Vienna (Áo) năm 2006. Ông từng làm việc tại Đại học Liverpool (Anh) và Đại
học Quốc gia Singapore (NUS).
|
Trong một thế giới thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là khi đã hội
nhập toàn cầu, thì cái gì không thay đổi sẽ trở thành lạc hậu và bị đào thải.
Nếu không sáng tạo để làm chủ, anh sẽ trở thành kẻ làm thuê cho người khác. Sự
thật là chúng ta đang làm thuê cho người khác ngay trên đất nước mình. Vì mình
được đào tạo để trở thành công cụ chứ không phải là người làm chủ. Sự thật hiển
nhiên đó cần phải được thừa nhận để đưa vào cải cách giáo dục.
Trái với việc đào tạo con người công cụ làm cho người ta mệt mỏi
và suy thoái, một khi triết lý đào tạo con người tự do được thừa nhận và triển
khai rộng rãi, nó sẽ tạo ra sức sống mới cho toàn hệ thống giáo dục, và sau đó
là toàn xã hội. Nó nói rõ cho mọi người biết, với tư cách là con người tự do
thì cuộc đời của anh diễn ra thế nào là lựa chọn của anh, trong tự do và suy
xét, chứ không phải là sự áp đặt từ trên xuống.
Vì thế anh không có lý do gì để oán trách và đổ lỗi. Trở thành con
người tự do, anh là chủ nhân của số phận mình, của đất nước mình. Anh không còn
lý do gì để bám víu, vì thế anh trưởng thành thực sự, và tìm được ý nghĩa thực
sự của đời sống.
Mở đường cho tự do học thuật
Qua
nghiên cứu chương trình đào tạo của Việt Nam, ông nhận định như thế nào về nội
dung chương trình của ta hiện nay?
Chương trình giáo dục hiện thời của Việt Nam đang được xây dựng
trên cách tiếp cận lấy “học cái gì?” là chủ đạo. Vì thế hiện chỉ có một bộ sách
giáo khoa được dùng thống nhất trong cả nước, chương trình và phương pháp được
kiểm soát chặt chẽ từ trên xuống. Đây là kết quả hiển nhiên của triết lý đào
tạo con người công cụ.
Theo TS Giáp Văn Dương, không thể đầu tư cho hạ tầng cứng là cầu cống, đường sá mà lại bỏ qua hạ tầng tri thức và hạ tầng con người trong khi bắt họ phải tự chủ
Nhưng điều này sẽ dẫn đến một kết quả hiển nhiên khác, là con
người do hệ thống giáo dục đào tạo ra chỉ biết “học thuộc”, tức bảo gì làm nấy,
nên chỉ có thể làm thuê chứ ít khả năng sáng tạo để làm chủ. Nếu giáo dục không
thay đổi thì việc Việt Nam trở thành nền kinh tế gia công và bị kẹt không vượt
lên được có sự đóng góp rất lớn của giáo dục.
Giờ thì giáo dục chỉ còn học và thi. Học ngày học đêm, chỉ để thi.
Thi xong là quên hết. Thầy lao đầu vào dạy, trò lao đầu vào học, mà không cần
biết dạy để làm gì và học để làm gì. Tất nhiên phải trừ những người dạy để kiếm
cơm ra (cười).
Về nội dung chương trình đào tạo bậc đại học của mình thì hiện nay
quá lạc hậu. Cứ thử làm một khảo sát bỏ túi mà xem, phần lớn giáo trình của các
ngành công nghệ vẫn là giáo trình được biên soạn bởi những thầy cô đi học ở Liên
Xô (cũ) về. Thậm chí nếu các thầy cô đó đã nghỉ hưu thì giáo trình đó vẫn sử
dụng, vì dùng thế quen rồi, và vì các thầy cô tuy nghỉ nhưng vẫn còn ảnh hưởng…
Kết quả là về mặt kiến thức, sinh viên của chúng ta đi chậm hơn so
với thế giới hàng chục năm. Chưa kể, trong mấy chục năm qua, chưa có một cuộc
cải cách giáo dục nào ở bậc đại học. Tất cả các cuộc cải cách giáo dục đều dừng
ở bậc phổ thông. Duy nhất chỉ có một lần thành lập trường đại học đại cương
giữa những năm 1990, nhưng đã thất bại. Còn việc dạy theo tín chỉ đã triển khai
trên diện rộng, nhưng về bản chất cũng không khác gì học theo niên chế ngày
xưa, vì có quá ít nội dung để sinh viên lựa chọn.
Giáo dục phổ thông 12 lớp, một lớp chỉ có hơn chục đầu sách, kiến
thức truyền thống, nên dễ làm. Vì thế nên cải cách giáo dục chỉ tập trung ở bậc
phổ thông này. Còn giáo dục đại học quá rộng lớn, lại thay đổi liên tục vì phải
cập nhật kiến thức để cho sinh viên ra trường đi làm được.
Cùng một môn nhưng năm nay thầy dạy bằng giáo trình này, năm sau
thầy lại dạy bằng giáo trình khác cập nhật hơn, vì thế khó làm, nên cải cách
giáo dục bậc đại học bị bỏ qua trong suốt mấy chục năm qua. Không làm được,
nhưng cơ quan quản lý lại muốn kiểm soát về nội dung chương trình, không ủng hộ
tự do học thuật nên không mở đường cho việc sử dụng giáo trình của nước ngoài,
nên chương trình đại học về cơ bản là giậm chân tại chỗ.
Từ
đó đặt ra những điều gì đáng lo ngại cho nền giáo dục nước nhà, thưa ông?
Điều tôi lo ngại nhất là chúng ta không có tự do học thuật ở bậc
đại học, và tự do học đường ở bậc phổ thông. Đã không có tự do học thuật và tự
do học đường thì tất cả sẽ chỉ là công cụ. Trò là công cụ đã đành, nhưng thầy
cũng là công cụ, hiệu trưởng cũng vậy…
Sau đó là nội dung chương trình bậc đại học của phần lớn các ngành
quá mức lạc hậu. Nhiều ngành vẫn sử dụng giáo trình từ những năm 70 - 80 của
thế kỷ trước, tức của thế hệ các thầy cô từ ngày đó biên soạn hoặc biên dịch
cóp nhặt. Vậy thì làm sao cử nhân, kỹ sư của ta có chất lượng, có thể tạo ra
một nền kinh tế cạnh tranh được?
Nhưng việc sử dụng giáo trình của nước ngoài không được khuyến
khích, vì xung đột lợi ích với cả nhà quản lý và bản thân giảng viên, khi giáo
trình cóp nhặt do mình viết ra vẫn được chấp nhận và lại được tính điểm để
phong học hàm, còn sử dụng giáo trình của nước ngoài thì vừa mệt lại vừa “nguy
hiểm”. Tình trạng này có lẽ còn kéo dài, nếu không có sự thay đổi rốt ráo từ
phía Bộ GD-ĐT.
Và cuối cùng, nhưng lại đáng ngại nhất, là sự giả dối thể hiện
dưới nhiều hình thức đã trở thành phổ biến trong mọi nhà trường, và rộng hơn là
cả xã hội. Bệnh thành tích chỉ là một phần nhỏ của sự giả dối này mà đã tàn phá
ghê như vậy, thì kết hợp với các hình thức khác sức tàn phá còn lớn đến mức
nào? Lớn đến mức không ai là con người thật, tất cả thành hàng giả hết. Những
người thật còn sót lại, nếu có sẽ bị dồn vào chân tường, và im lặng!
Nếu
bỏ áp đặt để mở đường cho tự do học thuật, tự chủ đại học, ông có nghĩ rằng,
đây sẽ là luồng khí mới cho bước khởi đầu phát triển giáo dục nước nhà?
Đây là con đường duy nhất để phát triển giáo dục. Không còn cách
nào khác. Muốn tạo ra những con người tự do đầy sức sống, đầy sức sáng tạo thì
phải có tự do học thuật và tự chủ đại học. Nhưng phải lưu ý, tự chủ đại học
không phải là các trường tự lo tài chính, nhà nước không có trách nhiệm gì như
cách hiểu hiện giờ.
Tự chủ đại học phải được hiểu là tự chủ về nhân sự, tự chủ về nội
dung chương trình. Coi tự chủ đại học là tự chủ tài chính thì nguy hiểm và vô
trách nhiệm với giáo dục. Tất nhiên là đang nói với các trường công. Còn trường
tư thì là câu chuyện khác, đó là câu chuyện của thị trường.
Trong góc nhìn này, Nhà nước phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu
tư cho phát triển. Đó chính là đầu tư cho loại hạ tầng quan trọng nhất, hạ tầng
tri thức và hạ tầng con người. Cho nên, không thể đầu tư cho hạ tầng cứng là
cầu cống, đường sá mà lại bỏ qua hạ tầng tri thức và hạ tầng con người trong
khi bắt họ phải tự chủ.
Trân
trọng cảm ơn ông!
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks