Kg: BMH []
va qui vi,
Toi
nhan duoc thu duoi day tu vi huu BMH ma toi doan la trong danh-sach dien dan
cong luan.; toi copy vao duoi day danh-sach ma toi da goi di vao ngay Tuesday, August 25, 2015 6:56 PM de
giai-thich tai-sao toi lai nghi la trong danh-sach dien dan cong luan.
Toi
xin van-tat dap-ung nhu sau:
Trich 1: "Với vốn liếng chử nghĩa ít ỏi của tôi, khi nhận
bài của Trầm Thanh Tuấn và
phần nhận xét của Ông/Bà Tamika
Ito,
tôi phục sát đất, quý vị
giỏi quá... thấy Quý Vị giảng giải cặn kẻ, c
Với vốn liếng chử nghĩa ít
ỏi của tôi, khi nhận bài của Trầm
Thanh Tuấn và phần nhận xét của Ông/Bà Tamika Ito,
tôi phục sát đất, quý vị
giỏi quá... thấy Quý Vị giảng giải cặn kẻ, công phu,
nhưng tôi chẳng hiểu
được bao nhiêu...vì trình độ quá thấp..."
Dap ung: Dieu toi thuong-lam la khi doc mot thu ma không hiểu, thi
toi hoac doc-lai{reread], hoac xoa-bo[delete].
Trich 2:"Thế nhưng tôi xin có câu hỏi, Ông /Bà Tamika Ito giỏi như thế
, nhưng sao cho đến bây giờ 2015, viết e-mail tiếng Việt vẫn
không đánh dấu, làm chúng tôi vừa đọc vừa đoán , khó quá...có khi lại
hiểu lầm, thì khốn..."
Dap ung: Viec cho đến bây giờ 2015, viết e-mail tiếng Việt vẫn
không đánh dấu không"lien-quan gi den Ông /Bà Tamika Ito giỏi
như thế . Ma tai vi toi
da hoc danh may chu Viet truoc khi sang My, nguoi day khuyen toi la sang My nen
tim nghe gi khong can danh-may ma lam thi moi song duoc. Va hien nay song
duoc-duoc. Toi khong viet gi nhieu, nhu viet sach, nen khong voi
keyboard cua My, toi tim cach dung gach-noi [hyphen] va neu-can chu-giai bang
tieng Anh, de khoi hieu lam. Trong than-huu chua nhan duoc loi than-van.
Trich 3-"Tôi không thấy việc chống Tàu cộng là một việc
làm điên cuồng ,
như Ông/Bà Tamika Ito...nhận định."
Dap ung: Toi khong he nghi rang "chống
Tàu cộng là một việc làm điên cuồng "nhu ong/ba hieu
! Toi chi noi rang truoc day toi nhan duoc imeo noi rang
viec chinh-phu VN hien-nay dinh day tieng "Tau" ngay o Tieu Hoc la
muon Han hoa thi co-the bai-viet nay chi ra duoc nguyen-nhan
cua nhung imeo toi vua noi, va nhung imeo do la co-y xuyen-tac voi muc-dich
kich-dong nguoi song ngoai VN. Va toi nghi-ngo rang sau-lung co su yem-tro cua
nha tho, xin noi ro nhu the!
Vi theo toi, toi van biet rang dan-toc Viet Nam xuat phat tu dat
Linh Nam. Hy vong la ong hieu!
"Amy Duong <
Sent: Tuesday, August 25, 2015 6:56 PM"
Thưa Ông/Bà Tamika
Ito,
và Quý Vị,
Với vốn liếng chử nghĩa
ít ỏi của tôi, khi nhận bài của Trầm
Thanh Tuấn và phần nhận xét của Ông/Bà Tamika Ito,
tôi phục sát đất, quý vị
giỏi quá... thấy Quý Vị giảng giải cặn kẻ, công phu,
nhưng tôi chẳng hiểu
được bao nhiêu...vì trình độ quá thấp...
Thế nhưng tôi xin
có câu hỏi, Ông /Bà Tamika
Ito giỏi như thế , nhưng sao cho đến bây giờ 2015, viết e-mail
tiếng Việt vẫn
không đánh dấu, làm chúng tôi vừa đọc vừa đoán , khó quá...có khi lại
hiểu lầm, thì khốn...
Thêm vào đó thưa Ông/Bà Tamika Ito, mất nước tới
nơi rồi, người dân Việt phải
có nhiệm vụ chống Tàu cộng, một việc làm thực tế và cần thiết....
Tôi không thấy việc chống
Tàu cộng là một việc làm điên cuồng ,
như Ông/Bà Tamika Ito...nhận định.
Xin mạo muội góp ý...
BMH
Washington, D.C
Washington, D.C
-----Original Message-----
From:
Sent: Wed, Aug 26, 2015 5:50 am
Subject: Re: Fw: [ChinhNghia] Vai trò của việc học chữ Hán
From:
Sent: Wed, Aug 26, 2015 5:50 am
Subject: Re: Fw: [ChinhNghia] Vai trò của việc học chữ Hán
Thưa các Anh Chị,
Xuất thân là một thầy giáo dạy môn văn học và tiếng Việt trong
nhà trường Việt Nam cũng như ở Mỹ, tôi vẫn có sự tha thiết quan tâm và mối
ưu tư về hiện trạng xuống dốc của vốn từ ngữ Hán Việt (Sino-Vietnamese) hiện
nay. Trong nước, thầy cô giáo dạy môn quốc văn không được trang bị một kiến
thức cơ bản về ngôn ngữ Việt Nam mà trong đó có đến 70% là các từ và nhóm chữ
(trong nước dùng là "cụm từ") Hán Việt. Năm 1975, khi được tiếp xúc
với các thầy cô giáo dạy Văn Học Việt từ miền Bắc vào miền Nam với hệ
đào tạo 10+3 (lóp 10 + 3 năm sư phạm) so với 12+4 ở miền Nam, chúng tôi khá ngỡ
ngàng vì sự yếu kém hay thiếu sót của các đồng nghiệp miền Bắc về kiến thức chữ
Hán. Khả năng chưa đạt của đội ngũ giáo viên chủ lực dạy Ngữ Văn cộng với tình
trạng “thuần Việt hóa” nửa nạc, nửa mỡ của xã hội và nhà trường “XHCN” trong
thơi kỳ chiến tranh và sau 1975 là nguyên nhân của sự suy thoái tiếng Hán Việt
như hiện nay. So với Nhật và Đại Hàn là hai nước có nguồn gốc vay mượn chữ Hán
tương tự như Việt Nam thì họ rất chủ động và “quốc gia hoá” chữ Hán thành ngôn
ngữ thuần túy văn hóa bản địa rất trơn tru, hòa điệu, không có sự dùng dằng
giữa hai thế hệ già và trẻ, giữa chuyên môn rạch ròi và quyền lực chính
trị mù mờ trong ngôn ngữ với hiện tượng Thuần Việt và Hán Việt như Việt
Nam hiện nay.
Ngôn ngữ dân tộc và khuynh hướng giáo dục là một vấn đề lớn để
tìm hiểu và thảo luận.
Đây chỉ như một chút gợi ý của vấn đề, tôi tâm đắc với bài viết
của tác giả Trầm Thanh Tuấn và đôi lời góp ý của "Tamika
Ito".
Thân chúc quý bạn hiền đều an lạc.
TK Đoàn
2015-08-25 18:56 GMT-07:00 Tamika Ito <:
Chi Amy va cac ban,
Toi dung danh-sach cua chi Amy trong thu "Tieu Chuan Dao
Duc....Ky Gia" de forward den moi nguoi bai viet duoi day ma toi thay hay
sau khi doc. Ai doc roi, hay khong thich thi vui-long xoa-di, thanh-that
cam-on.
Day la mot de-tai te-nhi hien-nay, vi chu-truong chong Tau
dien-cuong cua mot so-nguoi. Toi nghi-ngo la dang-sau co an-dau am-muu
cua mot ton-giao vien-co chong Tau de xoa-sach van-hoa Viet va thay vao do la
van-hoa La-Tinh.
Toi biet dieu-nay se tao ra mot van-hoa va ngon-ngu que-quat vi
dac-tinh cua ngon-ngu. Noi van-tat Tieng Anh xu-dung 45 am[sound], Tieng
Phap 35 am, Tieng Nhat 20 am, Tieng Hawaii 13 am...vv... Vi the toi danh-gia
cao bai-viet nay va forward den qui-vi.
Ngay xua, thuo toi con di-hoc, toi co may-man duoc hoc voi mot vai
Giao-Su Viet Van gioi chu Han. Trong nhung quyen truyen Kieu, Chinh Phu
Ngam, o duoi mot so trang, co chu-thich nghia cua cac tu-ngu goc Han-Viet, nen
toi hoc can-ban chu Han qua do.
Sau nay ve Sai Gon, toi nho co lop chu Han duoc to-chuc day o
duong Cao Thang. toi co den-hoc vai buoi vi thoi khoa-bieu khong
thich-hop, toi khong tham-du duoc cung la dieu dang-tiec. Chau goi toi
bang chu hoc Van Khoa, tiep-tuc theo hoc...
Chieu nay, coi imeo, thay co mot la-thu dap-ung, nhung cung lai
neu van-de chinh-tri, chung-toc....nen toi khong thay la o My hien-nay, cung
van-co nhung nguoi khong nhan-thuc van-de ngon-ngu mot cach thuan
ngon-ngu. Cach day khong do nua-nam; chinh tai toi nghe "Tien Si"
Do Thong Minh, du hoc Nhat Ban, cung voi thay "Triet[dau nang] Hoc",
mot tu-si Phat giao o Nhat tu tuoi thanh-nien, van tin-rang
"tieng" Viet la "tieng" don-am! Khi toi neu len la
"tieng" Viet la ngon-ngu da-am, dan chung cau "Xe-xe nam dat ben
duong" trong tac-pham Kieu cua Nguyen Du; Tien Si Do Thong Minh da
bao la toi "nguy-bien" ma khong he chung-minh bang-cach
chi-ro Phuong-thuc toi dung de "nguy-bien"!
Toi chi bo ra nhung dia chi groups ma phai tinh-nguyen
la active member moi goi-tho den duoc. Hinh nhu gan-day, toi co
the goi den dien dan cong luan khong bi tro-ngai. Thu nay toi thu mot lan
nua xem co dung khong.
Chi Amy,
Hinh nhu cai server cua rocketmail.com nam o Viet Nam phai khong? Hoi cho biet thoi,
chu toi khong ngai lam dau!
----- Forwarded Message -----
From: "Huy Thai [chinhnghia]" <>
To:
Sent: Tuesday, August 25, 2015 11:32 AM
Subject: [ChinhNghia] Vai trò của việc học chữ Hán
From: "Huy Thai [chinhnghia]" <>
To:
Sent: Tuesday, August 25, 2015 11:32 AM
Subject: [ChinhNghia] Vai trò của việc học chữ Hán
Vai trò của việc học chữ Hán trong nổ lực
nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn phổ thông
|
Chữ Hán – Wikipedia tiếng Việt
Chinese
characters - Wikipedia, the free encyclopedia
Ngày nay trong quá trình giảng dạy môn ngữ văn trong nhà
trường, người ta nói nhiều đến việc cải tiến phương pháp theo hướng tích cực
hoá quá trình tiếp nhận tri thức của học sinh (HS). Điều này đúng nhưng chưa
đủ, thậm chí sẽ không đạt hiểu quả bởi sự chuyển biến này chỉ là phần ngọn.
Phần gốc ngôn ngữ là phần quan trọng, phần căn bản nhưng lại chưa được nhìn
nhận một cách thấu đáu. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi muốn đề cập
đến vấn đề: Vai trò của việc học chữ Hán trong nổ lực nâng cao chất lượng dạy
và học môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông.
Hiện
thực đã cho thấy chất lượng dạy và học môn Ngữ văn đã và đã và đang có dấu
hiệu giảm sút nghiêm trọng. Sau mỗi kì thi quan trọng báo chí lại cho đăng
tải những bài viết chi chít lỗi ngôn ngữ của thí sinh trong đó lỗi về dùng từ
Hán Việt chiếm một phần không nhỏ. Ngay bản thân chúng tôi là những người
trực tiếp đứng lớp giảng dạy, chúng tôi càng cảm nhận sâu sắc hơn vấn đề này.
Điều đó phản ánh một hiện thực, HS ngày nay rất thờ ơ với việc trao dồi khả
năng sử dụng tiếng mẹ đẻ thông qua những giờ học Ngữ văn. Quả thật đây là một
điều cần được nhìn nhận một cách nghiêm túc và nhanh chóng có những công
trình điều tra xã hội trên bình diện rộng khắp từ đó đưa ra những giải pháp
thật cụ thể và thiết thực để chấn chỉnh.
Ngôn
ngữ có mối quan hệ một cách mật thiết đối với văn hoá dân tộc nói như L.
Hevvett: "Không có một chiếc chìa khoá vạn năng nào để mở cửa
vào cuộc sống nội tâm của một dân tộc ngoài trừ ngôn ngữ của dân tộc đó".
Điều này không có gì để bàn cải thêm. Qua các công trình nghiên cứu chuyên
sâu đã đưa ra những minh định giàu sức thuyết phục cho thấy ngôn ngữ ngoài
chức năng giao tiếp thì bên trong chúng lại chứa đựng những
"mã" văn hóa của cộng đồng ngôn ngữ ấy. Như vậy hẳn nhiên để giữ
gìn cũng như phát triển văn hóa dân tộc, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề
ngôn ngữ đặc biệt lá quá trình giảng dạy ngôn ngữ trong nhà trường phổ thông
qua môn Ngữ văn. Nếu như những điều này không được nhanh chóng thực hiện thì
những hệ luỵ cho nền văn hoá dân tộc là điều không thể tránh khỏi.
Qua
sự trao đổi với nhiều đồng nghiệp chúng tôi nhận thấy có một nguyên nhân hết
sức quan trọng khiến cho HS không hứng thú với việc học tiếng mẹ đẻ là vì HS
không hiểu hết những từ ngữ mà bản thân các em sử dụng để giao tiếp hằng ngày
lẫn một số từ ngữ trong văn bản mà các em tiếp cận. Nguyên nhân sâu xa của
vấn đề chính là việc HS chưa nắm vững nghĩa của những yếu tố cấu
thành từ Hán Việt.
Như
chúng ta đã biết, vì đặc điểm của lịch sử dân tộc, tiếng Việt tiếp xúc với
tiếng Hán trong một thời gian dài. Và hệ quả là cho đến ngày nay lượng từ Hán
Việt tồn tại trong kho từ vựng của chúng ta là khoảng hơn 70 %. Theo thống kê
của Lê Xuân Thại thì: "Trong tiếng Việt có khoảng 3000 yếu tố
Hán Việt. Số lượng này xấp xỉ với số lượng yếu tố Hán trong tiếng Nhật và
tiếng Triều Tiên" ([1]) [tr14].
Tuy nhiên từ khi chế độ phong kiến sụp đổ kéo theo nền Nho học cũng tàn lụi
thì chữ Hán mất dần địa vị. Chữ Quốc ngữ (viết theo hệ thống ghi âm ABC) được
thay thế. Từ khi được chấp nhận, chữ Quốc ngữ đã đóng vai trò then chốt trong
việc kiến tạo nền văn hoá Việt Nam mới. Đặc biệt là việc thanh toán
nạn mù chữ (trong giai đoạn đất nước có chiến tranh và xây dựng đất nước sau
chiến tranh) vì tốc độ lĩnh hội của người học chữ Quốc ngữ nhanh hơn nhiều so
với chữ Hán. Chúng ta yên tâm, thậm chí rất đỗi tự hào rằng: việc sáng tạo ra
chữ quốc ngữ là một bước tiến dài trong lịch sử tiếng Việt. Tuy nhiên qua
những bài viết, những công trình nghiên cứu trong những năm gần đây của các
học giả nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ đã cho thấy vấn
đề chưa hẳn đã vậy. GS Đặng Đức Siêu, trong một bài viết giáo khoa đã nhận
xét: "Từ khi từ Hán Việt nhất loạt được phiên chuyển từ chữ Hán
sang chữ quốc ngữ, hoạt động song ngữ văn hoá Việt – Hán suy yếu dần, những
khó khăn lầm lẫn trong việc nhận thức ý nghĩa của từ Hán Việt nói
chung, từ ngữ Hán Việt đồng âm nói riêng đã trở nên phổ biến hơn nhiều"(TTT
nhấn mạnh)([2]).
Trong
bài viết Người Việt cần bao nhiêu chữ Hán để hiểu sâu Tiếng việt?,
GS.TS Nguyễn Ngọc San đã có những nhận định hết xác đáng: " Đến
đầu thế kỉ XX, chữ quốc ngữ bắt đầu được phổ biên rộng khắp và thay thế hoàn
toàn chữ Nôm. Đây là một bước phát triển nhảy vọt; văn tự Việt Nam từ chổ ghi
ý và ghi na ná âm tiết đã chuyển sang ghi âm vị và có phần nào ghi sát âm hơn
là các văn tự ghi âm vị trong họ Ấn – Âu. Tuy nhiên, cũng có thể đứng
về mặt khác mà nói đây là một bước lùi (TTT nhấn mạnh). Trong văn tự
mới này đã mất yếu tố ghi ý, các từ Hán Việt hoà lẫn vào các từ thuần Việt về
mặt hình thức, tạo ra hàng loạt từ đồng âm mà ý nghĩa dễ gây sự lẫn lộn,
chất tư duy thị giác hoàn toàn biến mất" ([3]) [tr
390]
Quả
thật điều ấy đã được bộc lộ ngày càng rõ nét trong tình hình học tập môn Ngữ
văn hiện nay. Khi thực hiện hoạt động đọc hiểu các em không hiểu một cách
tường minh những từ ngữ có trong văn bản hoặc khi tạo lập văn bản, các em sử
dụng từ Hán Việt nhưng không hiểu rõ nghĩa, từ đó dẫn đến dùng sai rất nhiều.
Đó chính là lí do khiến HS giảm sút sự hứng thú khi học môn Ngữ văn. Một
điều dễ thấy là HS ngày nay rất ngại học những tác phẩm văn học được viết
bằng chữ Hán hay những bài thơ Đường bởi một khoảng cách ngôn ngữ quá xa mà
ngôn ngữ chính là chìa khoá đi vào thế giới nghệ thuật của văn bản nghệ
thuật. Do vậy nếu như không hiểu biết về Hán tự thì nhãn tự của những thi
phẩm được viết bằng chữ Hán sẽ dễ dàng bị bỏ qua một cách đáng tiếc.
Ví
dụ khi tiếp cận Nam quốc sơn hà mà không hiểu
sâu chữ đế 帝, chữ quốc 國 trong cái
nhìn lịch đại thì làm sao có thể thấy được tầm vóc của tác phẩm. Tiếp cận Độc
Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du không so sánh được tại sao Nguyễn Du
chọn từ khấp 泣 chứ
không phải từ khốc 哭 (mặc
dầu hai chữ này đều chỉ hoạt động khóc) trong câu: Thiên hạ hà nhân khấp Tố
Như thì làm sao có thể thấy hết được sự tinh tế khi sử dụng từ ngữ
của đại thi hào([4]). Đọc câu thơ Cố
nhân tây từ Hoàng Hạc lâu, nếu muốn tìm hiểu tâm trạng luyến nhớ của nhân
vật trữ tình trong buổi chia tay được kín đáo đan cài trong một câu thơ mà
chỉ đọc lướt qua phần dịch nghĩa, ta sẽ chẳng thấy gì ngoài nội dung thông
báo hết sức bình thường, vô cảm: Ngoái về phía tây, bạn cũ giã từ
lầu Hoàng Hạc. Những điều này chỉ có thể cảm nhận được khi đi sâu và khám phá hệ thống ngôn từ
của câu thơ bắt đầu từ chữ "cố nhân " 故人. Rõ ràng với việc cụ
Ngô Tất Tố dịch thành bạn cũ chưa thể lột tả được những hàm
ý sâu xa của từ này. Đặt nó trong hệ thống những từ có cùng yếu tố cố 故 như: cố quốc, cố hương, cố quận, cố thổ, cố
viên ta mới cảm nhận được hết bao tình cảm yêu thương
trìu mến trong từ cố nhân. Phải là người bạn hết sức thâm giao,
tri âm tri kỉ người ta mới dùng từ cố nhân để gọi nhau. Điều
này xuất phát từ tư duy hoài cổ, nệ cổ, sùng cổ của con người Trung Hoa xưa.
Thế nên dù rằng lúc này đang diễn ra cuộc chia tay nhưng tác giả vẫn dùng từ cố
nhân để thể hiện tâm tình gắn bó thiết tha của mình. Không hiểu chữ
Hán thì làm sao HS có thể hiểu được sự tinh tế và tài hoa trong câu thơ chiết
tự độc đáo của nữ sĩ Hồ Xuân Hương:
Duyên
thiên (天) chưa thấy nhô đầu
dọc(夫)
(Không
chồng mà chửa)
Hoặc để chứng minh cho sức mạnh tuyên truyền của văn học, GV có thể dẫn
câu ca dao sau:
Trăng
xưa dọi tỏ lòng người
Tiếp cận một cách sơ lược
cứ tưởng đây là một bài ca dao đề cập đến tình yêu nam nữ nhưng khi dùng phép
chiết tự chữ Hán, ta sẽ giúp HS khám phá ra những điều lí thú về nghệ thuật
chơi chữ của tác giả dân gian: Trăng xưa dịch từ chữ Cổ
nguyệt 古 月, cổ 古và nguyệt 月 ghép lạ thành chữ Hồ 胡; lòng người là
thầm nói đến chữ sĩ 士 và tâm 心, ghép hai chữ này lại
ta có chữ Chí 志; còn chữ nhật 日 và chữ nguyệt 月 ghép lại thành chữ Minh 明. Vậy ba chữ chiết tự từ câu ca dao ra là Hồ
Chí Minh. Thật tinh diệu làm sao! Mà cũng thật tài hoa làm sao! Hoặc
giả chỉ cần chiết tự một chữ sầu 愁 ta có thể lí giải với HS bao điều về mối
quan hệ giữa mùa thu với văn chương. Chữ Sầu 愁 gồm có chữ thu 秋 và chữ tâm 心. Mùa thu đậu lên
lòng người người những nỗi niềm nên thơ thu từ cổ kim đều thấm đẫm nỗi buồn.
Những bài thơ về mùa thu được học trong chương trình đều mang nét chung ấy
như Thu hứng (Đỗ Phủ), Thu điếu (Nguyễn
Khuyến), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu). Xâu chuỗi những
điều ấy lại bằng cách chiết tự một chữ sầu thiết nghĩ chúng
ta đã mở ra trong lòng HS bao suy nghĩ, bao liên tưởng thú
vị. Còn rất nhiều những áng thơ văn trong quá khứ đã bị chúng ta "bỏ
rơi" như thế vì một nỗi ta không biết chữ Hán!
Đáng quan tâm hơn là
trong quá trình giao tiếp, HS sử dụng từ Hán Việt hết sức tùy tiện. Vì
các em không hiểu chính những từ mà mình dùng. Chúng tôi đã từng yêu cầu HS
trình bày cách hiểu của mình về một số từ Hán Việt. Các em sẽ có những
lí giải hết sức ngô nghê. Ví dụ: với từ "thiên lệch",
các em đã rất thản nhiên giải thích: thiên là trời, lệch là không thẳng. Trời
là lực lượng siêu nhiên đại diện cho công bằng mà lực lượng ấy lại không ngay
thẳng nên từ thiên lệch có nghĩa chung là chỉ việc gì đó
không được đối xử một các công bằng!…Ở đây các em đã nhằm lẫn chữ thiên là
trời với chữ thiên mang nét nghĩa là lệch. HS dùng nhầm lẫn
từ có yếu tố mãi và mại (khuyến mãi,
khuyến mại; mãi dâm, mại dâm), dùng sai nghĩa từ cứu cánh,
không xác định được nên dùngtrọng tải hay tải trọng, văn
hoa hay hoa văn ([7])….
Những nguyên nhân khiến cho việc HS
hiểu sai những từ ngữ mang yếu tố Hán hiện nay là:
1. Đồng âm
giữa những từ Hán Việt và từ Hán Việt.
Ví dụ:
- Thiên 天: trời (Thiên hạ, thiên
nhiên, thiên lí, thiên địa)
- Thiên 千: nghìn (thiên niên kỉ,
thiên tuế, thiên thu, thiên lí…)
- Thiên 偏: lệch (thiên vị, thiên
hướng, thiên kiến…)
- Thiên 遷: dời (thiên di, thiên
chuyển, thiên đô….)
- Thiên篇: bài (thiên phóng sự,
đoản thiên…)
Rõ ràng để hiểu yếu tố "thiên" ta
phải nhìn vào tự dạng chữ Hán mới nhận diện được sự khác nhau đó. Hiện tượng
này rất phổ biến trong kho từ vựng tiếng Việt chúng ta.
2. Đồng âm
giữa những từ Hán Việt và từ thuần Việt.
Ví dụ: Ngoan 頑 trong ngoan cố, ngoan cường đồng
âm với ngoan trong :ngoan ngoãn, ngoan hiền, phiếu
bé ngoan
3. Hiểu lầm
hoặc không phân biệt rạch ròi các từ Hán Việt gần âm hoặc gần nghĩa.
Ví dụ: Mãi買: mua # mại 賣: bán (khuyến mãi ≠ khuyến mại)
Khi tìm hiểu sâu vấn đề
này chúng tôi còn nhận ra thêm được một hiện thực nữa: chính bản thân rất
nhiều GV dạy môn Ngữ văn cũng không nắm nghĩa của những chữ Hán có trong văn
bản. Đây là một tình trạng có thực và cũng rất đáng suy nghĩ. Trong một tiết
dạy, GV đã rất thản nhiên khi giảng: Ngay từ tiêu đề bài thơ (Độc tiểu
thanh kí) tác giả đã thể hiện được sự đồng cảm của Nguyễn Du đối với
nàng Tiểu Thanh khimột mình đọc tập thơ của Tiểu Thanh. Rõ ràng
người giáo viên này đã nhầm lẫn bởi độc 讀 trong tiêu đề Độc
tiểu thanh kí nghĩa là đọc, còn chữ độc 獨 với nghĩa là một thì lại có tự
dạng hoàn toàn khác. Chữ độcấy nằm ở câu thừa đề Độc điếu
song tiền nhất chỉ thư (獨吊窗前一紙書).
Nhìn lại quá trình đào
tạo sinh viên ngành Sư phạm Ngữ văn, chúng ta nhận thấy số lượng tiết học cho
môn Hán Nôm quá ít và sinh viên thường cảm thấy không mấy hứng thú khi học
môn này. Các bạn SV thường chỉ dừng lại ở việc nhớ
máy móc và "vẽ chữ" để rồi khi ra trường không còn đọng lại cái gì.
Nguyên nhân là chỉ vì lên đại học các bạn SV mới tiếp xúc, không có nền tảng
căn cơ mà thời gian học tập lại không nhiều. Nên dẫn đến tình trạng giảng
viên và SV cùng "cưỡi ngựa xem hoa" chưa hiểu hết Lục thư (Sáu
loại chữ lập thành Hán tự), chưa nhớ hết 214 bộ thì đã quay sang phân tích bộ
trong chữ, rồi minh giải nguyên tác chữ Hán của các bài thơ Đường luật, thơ
cổ phong, những đoạn biền văn khó như: Bình Ngô đại cáo, Dự chư
tùy tướng hịch văn, Bạch Đằng giang phú… quả thật là việc
quá sức.
Do
vậy để đối phó SV chỉ cố gắng nhớ và viết lại cho qua kì thi chứ chả hiểu gì
nhiều. Từ đó dẫn đến tình trạng SV Ngữ văn ra trường, khi thực sự bắt tay vào
việc giảng dạy, họ thường không mặn mà lắm với mảng văn học thời trung đại và
thơ Đường vì ở bộ phận văn học này, GV nắm không chắc bản nguyên tác chữ Hán
mà khi đã không nắm chắc chữ Hán thì để so sánh đối chiếu giữa nguyên tác và
bản dịch, khai thác những tín hiệu thẩm mĩ ẩn chứa sau từng con chữ là việc
không dễ dàng. Nói như thế, chưa hẳn với văn học hiện đại, GV có thể chỉ một
cách tường minh những từ Hán Việt có trong văn bản. Đó là chưa kể đến những
văn bản nhật dụng có sử dụng nhiều từ Hán Việt khó như: Con đường
trở thành kẻ sĩ hiện đại của Nguyễn Khắc Viện, Nhìn
về vốn văn hóa dân tộc của Trần Đình Hượu, Tư duy hệ
thống, nguồn sức sống mới trong việc đổi mới tư duy, Phan Đình Diệu….
Hiện
nay chúng ta chủ trương dạy tiếng Anh cho HS ngay từ lớp ba. Việc được và mất
của chủ trương này cần tham khảo thêm nhiều ý kiến của các nhà khoa học
chuyên môn. Nhưng theo thiễn nghĩ của chúng tôi, thì thay vì dạy tiếng Anh
chúng ta nên dạy chữ Hán. Vì những lẽ sau:
- Thứ nhất tiếng Anh được xây dựng bằng hệ thống kí âm (ABC) nên để
tiếp nhận hệ thống ngôn ngữ này chỉ cần một khoảng thời gian không quá dài.
Như vậy HS bắt đầu học từ cấp THCS vẫn là không muộn lắm.
- Thứ hai: Xét về phương diện văn hóa, chúng ta cần phải hiểu ngôn ngữ
dân tộc để thông qua đó hiểu văn hóa dân tộc.
Chỉ
khi nào chúng ta có một bản lĩnh văn hóa vững chắc chúng ta mới có thể tiến
vào con đường hội nhập một cách sâu rộng với thế giới mà không lo lắng về sự
lai căn mất gốc, không dững dưng trước những giá trị văn hóa mà ông cha ta để
lại dẫn đến tình trạng: người nước ngoài khi đến Việt Nam "đều
rất kinh ngạc trước tình trạng người Việt không đọc được những dòng chữ đề
trên các đền đài di tích lịch sử" ([8]). Đến đây ta
lại càng nhận thấy ý kiến của Nguyễn An Ninh từ những năm đầu của thế kỉ 20
vẫn còn nguyên giá trị: "chỉ có những người đã hiểu biết vững
một nền văn hóa rồi mới có khả năng thưởng thức một nền văn hóa ngoại
bang" ([9])
Vì
những lí do trên chúng tôi nghĩ rằng những cơ quan hữu quan nên sớm có một lộ
trình khoa học để nhanh chóng đưa việc giảng dạy chữ Hán vào nhà trường phổ
thông. Những điều này từng được nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết đề xuất như GS
Cao Xuân Hạo đã nhận định "Bỏ chữ Hán và chữ Nôm là một tai họa
không hoán cải được nữa, nhưng ta có thể bổ cứu sự mất mát ấy bằng cách dạy
chữ Hán như một môn bắt buộc ở nhà trường phổ thông. Người Việt sẽ không thể
giỏi tiếng Việt nếu không thấu đáo nghĩ của tiếng Hán-Việt, vốn chiếm tỉ lệ
hơn 70% trong vốn từ vựng tiếng Việt" ([10]) hay GS
Nguyễn Đình Chú trong bài viết Cần khẩn trương khôi phục chữ Hán
trong nhà trường phổ thông Việt Nam đã phát biểu: "thiết
tưởng đã đến lúc cần đặt vấn đề học chữ Hán trong nền giáo dục phổ thông ở
nước ta hiện nay một cách thấu đáo, có bài bản, có chủ trương kế hoạch hẳn
hoi. Nhưng, muốn làm được điều đó, lại trước hết cần nâng cao nhận thức về ý
nghĩa của việc học chữ Hán là thế nào trong việc xây dựng nên văn hóa Việt Nam hiện
đại và tương lai". GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng Trong bài viết Chữ
Hán chữ Nôm với thế hệ trẻ, cũng đã có những đề xuất đáng quan tâm về
vấn đề khôi phục việc giảng dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông.
Thật
vậy ngôn ngữ của mỗi dân tộc đều ẩn chứa trong nó cả linh hồn của dân tộc ấy.
Tiếng Việt chứa đựng linh hồn của người Việt. Vậy nên là người Việt Nam nhiệm
vụ giữ gìn tiếng nói của cha ông là một nhiệm vụ thiêng liêng đã có truyền
thống lâu dài từ xưa đến nay và cần phải được quan tâm nhiều hơn trong thời
đại ngày nay - thời đại hội nhập giao lưu quốc tế một cách rộng khắp. Việc ấy
không thể làm được nếu như chữ Hán chưa được khôi phục trong hệ thống giáo
dục từ bậc PT. Bởi vì ngoài việc giúp HS sử dụng thật chính xác, linh hoạt
vốn ngôn ngữ của dân tộc, nó còn giúp HS thủ đắc những thuật ngữ khoa học của
các ngành học khác từ đó tiếp cận một cách nhanh chóng những khái niệm. Đồng
thời một điều đáng quý nữa là với một kho di sản văn hóa khổng lồ của dân tộc
trong quá khứ sẽ có cơ hội được thế hệ trẻ bảo lưu và phát huy.
Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Trọng
Canh: Hình thức chơi chữ trong thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh,
Ngôn ngữ và đời sống, số 1-2, 2009
2. Nguyễn Đình
Chú, Cần khẩn trương khôi phục chữ Hán trong nhà trường phổ thông
Việt Nam, tạp chí Hán Nôm, số 2, 2005
3. Cao Xuân
Hạo, Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, NXB Trẻ, 2003
4. Nguyễn Quang
Hồng, Chữ Hán chữ Nôm với thế hệ trẻ, Ngôn ngữ và đời
sống, số 12, năm 2008.
5. Nguyễn Ngọc
San, Người Việt cần bao nhiêu chữ Hán để hiểu sâu Tiếng việt?, Tuyển
tập mười năm tạp chí Văn học và tuổi trẻ, NXB GD, 2003
6. Đặng Đức
Siêu, Từ Hán Việt và những điều lưu ý khi sử dụng từ Hán Việt, Tài
liệu chủ đề tự chọn nâng cao Ngữ văn 10, NXBGD, 2006
7. Lê Xuân
Thại, Từ Hán Việt và việc giảng dạy từ Hán Việt trong sách giáo
khoa Ngữ văn Trung học cơ sở, NXB GD, 2005.
Chú thích:
([1]) Từ
Hán Việt và việc giảng dạy từ Hán Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn Trung học
cơ sở, NXB GD, 2005
([2]) Chủ đề
4: Từ Hán Việt và những điều lưu ý khi sử dụng từ Hán Việt (In
trong Tài liệu chủ đề tự chọn nâng cao Ngữ văn 10, NXBGD,
2006)
([3]) Người
Việt cần bao nhiêu chữ Hán để hiểu sâu Tiếng việt?, Tuyển tập
mười năm tạp chí Văn học và tuổi trẻ, NXB GD, 2003
([4]) Khấp (泣) là khóc không ra tiếng chứ không phải khốc
(哭) là khóc to. Sự kì khu trong việc chọn chữ
của Nguyễn Du rõ ràng là có ẩn ý. Câu thơơ bộc lộ nỗi xót thương, cảm thương
- Một nỗi xót thương, cảm thương xuất phát từ chân tâm chứ không phải là
những biểu hiện thuần tuý hình thức bề ngoài.
([5]) Ở đây
dùng lối chơi chữ chữ Hán. Chữ Thiên 天là
trời nhô đầu lên thì thành chữ phu 夫là
chồng; chữ liễu 了là
rõ hoặc hết, đồng âm với cây liễu chỉ người con gái, nếu thêm một nét ngang
thì thành chữ tử 子 là
con. Hai câu này ý nói: Gái chưa chồng mà sao đã có con trong bụng
([6]) Ca dao
Nghệ Tĩnh (Dẫn theo tài liệu của Hoàng Trọng Canh: Hình thức chơi
chữ trong thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh, Ngôn ngữ và đời sống, số 1-2,
2009)
([7]) Không phải chỉ có HS sử dụng sai mà cái
sai này được mở rộng ra nhiều đối tượng từ các cơ quan thông tin đại chúng,
nhà văn, nhà khoa học…(Xem thêm Từ Hán Việt
và những điều lưu ý khi sử dụng từ Hán Việt -
In trongTài liệu chủ đề tự chọn nâng cao Ngữ văn 10, NXBGD,
2006)
([8]) Chữ
Tây và chữ Hán thứ chữ nào hơn, (In trong Tiếng Việt, văn
Việt, người Việt, NXB Trẻ, 2003)
|
***
Vào ngày 5:04 Thứ Ba, 25 tháng 8
2015, 'Tan Loc Nguyen' via CLBTLC <clbtlc@googlegroups.com>
đã viết:
|
--
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks