Tư
duy tập thể
CHỌN “SIÊU QUYỀN LỰC”
LOẠI NÀO LÀ
TỐT NHẤT?
(Tài
liệu gối đầu giường của các lãnh đạo trẻ)
Nhà Văn hóa khởi
nghiệp mới Việt nam
Hà
Nội, tháng 4, 2016
10-11-CHỌN “SIÊU QUYỀN LỰC” LOẠI NÀO LÀ TỐT NHẤT?
Bài 10:
Quyền lực bao trùm kiểu nào để có lợi nhất cho đất nước?
Hiện nay tại VN, việc thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc
lần thứ XII của Đảng CSVN – tổ chức đang có quyền lực bao trùm nhất - chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đây là
một thực tế tự nhiên đang được nhân dân VN và đa phần thế giới chấp nhận. Song
trên thế giới còn một quy luật MẶC ĐỊNH mang tính rất thực tế: “Ai chi tiền,
người đó sẽ làm chủ”. Vì vậy, cũng nên xem: Toàn bộ Ngân sách và tài sản của VN
hiện nay là của ai. Đương nhiên là của toàn dân.
Nhưng còn phần đi vay, đầu tư
nước ngoài, rồi viện trợ, ODA, v.v. . Nhân dân ta dường như chưa hề biết rõ thật
chính xác để hiểu TỶ LỆ PHÂN CHIA PHẦN “LÀM CHỦ” theo cách hiểu này THỰC HƯ ĐẾN
ĐÂU. Mặt khác, còn một câu hỏi thực tế nữa: Hiện nay Ai thực sự làm chủ các nước
và trên thế giới ?
Có một sự thừa nhận đã thành văn: Chính là các “Siêu quyền lực”
quốc gia và toàn cầu. Thế giới hiện nay cuối cùng đã nhận thức ra rằng, ĐỨNG ĐẦU
các nước từ xưa đến nay thực chất chính là các SIÊU QUYỀN LỰC. Còn Liên hiệp quốc,
nghị viện, quốc hội, chính phủ, các đoàn thể và “mặt trận” . . .chỉ là những TỔ
CHỨC THỰC HIỆN. Vậy Siêu quyền lực (SQL) được thế giới nói đó là cái gì?
Vì vậy, cần hỗ trợ để bàn và phổ biến những hiểu biết tổng
quát để Đảng, nhất là thê đội lãnh đạo mới, nhận thức cho rõ rằng, Đảng không
phải là ông chủ, mà chỉ là lực lượng chính trị chỉ đạo chung, như một NHẠC TRƯỞNG
trong dàn hợp xướng, từ đó khi đã thực hiểu rõ mới có thể thực hiện QUYỀN LỰC
BAO TRÙM sao cho hợp lý, sáng suốt và có hiệu quả nhất mà Nhân dân và Đảng đều
mong muốn.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, có ít nhất 2 loại SQL :
+SQL loại I là loại SQL dựa trên sức mạnh Tôn giáo (Thần
quyền), Phong kiến (Triều quyền) và Giai
cấp đấu tranh (Ý thức hệ Cộng sản) . . . Loại SQL này do một số cá nhân hay một
nhóm người thông thái, trí tuệ, năng động nhất của xã hội đương thời trong từng
giai đoạn phát triển của Nhân loại đã tìm tòi dàn dựng nên. Đặc điểm của SQL loại
này là tạo ra những chế độ ĐỘC QUYỀN, TẬP TRUNG LÃNH ĐẠO (vào đạo giáo, vua
quan, vào các đảng độc quyền) do đó xã hội bề ngoài có vẻ ổn định, nhưng trì trệ,
dân chúng được thuyết phục làm cho tin tưởng, nên sống như những con chiên. Vì
SQL loại này đã kìm hãm xã hội trong một trật tự đã định sẵn, giáo điều sách vở
(như các thuyết giáo hội, đạo Khổng, học thuyết Mác – Lê v.v . .), nên ổn định kiểu ấy dẫn đến trì trệ,
u mê, nghèo hèn so với thiên hạ, do đó thậm chí rất dễ bị xâm lược.
SQL loại
này thực ra chưa đủ thông minh, trí tuệ, bởi chính sự độc quyền tự phụ cho rằng
tư duy của mình là đỉnh cao nhất nên nó đã tạo ra mâu thuẫn trong xã hội, trong
đó sai lầm quan trọng nhất là nó đã NHẦM LẪN: BẰNG MỌI CÁCH gạt bỏ các bộ phận
thông minh, trí tuệ tài năng khác của nhân dân (do khác quan điểm, học thuyết,
do mâu thuẫn quyền lợi, hay khác vùng miền . .), ra ngoài khối ĐẦU NÃO dẫn đường
CỦA QUỐC GIA DÂN TỘC, gạt ra ngoài phạm vi quyền lực mà nó đang nắm giữ để bảo
vệ quyền và lợi của chính nó. Nó thường say sưa, u mê mà quên rằng, nếu lạc hậu
do cái đầu bó hẹp và sức sáng tạo bị ngăn chặn lại, sẽ dễ bị ngoại xâm, thì quyền
lợi và chính nó cũng sẽ dễ bị tiêu diệt. Cần thừa nhận rằng, SQL loại I chính
là kết quả sáng tạo nhưng đã NHẦM LẪN LỚN của NHỮNG NHÀ CHÍNH TRỊ THÔNG MINH
các thế kỷ trước.
+ SQL loại
2 là sản phẩm chung của toàn thể Loài người:
Quyền lực dựa cơ bản trên sức mạnh của lao động chân tay và trí tuệ. Loại
này là sản phẩm tự nhiên của Tự do dân chủ cạnh tranh kiếm sống, làm giầu chân
chính. . .của đa số nhân dân, của cả Loài người. Nơi không có gì hạn chế: Cứ ai
tài giỏi, thông minh, chăm chỉ năng động sáng tạo thì sẽ giầu có, từ đó tạo ra
sức mạnh đa nguyên, đa đảng, tự do công khai cạnh tranh chọn lọc đưa người tài
giỏi thực sự và có đạo đức lên cầm quyền: Đó là kết quả tự nhiên của Hiệu quả -
Văn minh. Thực chất là các thế lực giầu có, trí tuệ đường hoàng nhất (Siêu quyền
lực) loại này cũng có những khuyết tật, như thường điều khiển ngầm, thậm chí đạo
diễn bên trong “sân khấu” quá trình tự do cạnh tranh chọn lọc bộ máy chính quyền
sao cho có lợi cho mình.
Chính vì vậy, trong thể chế chính trị loại này, các
chính phủ và Nghị viện cũng chỉ là biểu hiện ra bên ngoài của SQL tư bản. Tuy
nhiên, phương thức SQL loại này là tổng hợp của những bước tiến thông minh, trí
tuệ cao cấp hơn hẳn loại 1, bởi vì nó đã biết thực thi quyền lực “văn minh”
hơn: Không giữ độc quyền tư tưởng trắng trợn, không áp đặt tư duy bằng mưu mô,
bưng ít thông tin, hay dùng sức mạnh vũ lực tàn bạo, mà nó dám dũng cảm tuân
theo pháp luật chung, có chừa ra dư địa cho nhân dân tự tham gia vào quyền lực,
dám để nhân dân được bình xét, phản biện công khai, thẳng thắn, bởi chính các
Siêu quyền lực loại này họ không tự cho rằng cái gì họ cũng đã hiểu hết, cũng
đúng cả, không NGU LÂU, KHÔNG MÙ QUÁNG, mà họ thừa nhận thực tâm rằng:
Nhân dân
mới chính là đầu óc, tai mắt, là người chủ thật sự và là sức mạnh tối hậu, là
người đã làm ra tất cả, chứ không phải chỉ có họ. Nhưng – chính vì vậy - họ mới
rất tự tin, rằng để nhân dân tự do công khai minh bạch lựa chọn, thì họ rất có
thể sẽ chiến thắng. Nhưng nếu họ không chiến thắng, thì họ - những người tài giỏi,
thông minh - cũng không thiếu việc hay ho khác để sinh sống.
Còn những người
chiến thắng lên nắm được quyền lực chắc phải có điều gì đó được nhân dân chấp
nhận hơn họ, hoặc thực tiễn môi trường trong nước và quốc tế chưa cho phép tiến
tới cái mà họ mong muốn. Chính vì vậy họ chỉ bàn rất sâu trong nội bộ và cố sức
‘ÁP ĐẶT” những nội dung quan điểm mấu chốt quyết định nhât ở tầm toàn cầu sang
hệ thống nhà nước (bởi chính trên bình diện TOÀN CẦU mới có ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
THỰC SỰ mà họ quan tâm, lo lắng cho đất nước). Còn lại, ở TRONG NƯỚC, họ không
LÀM THAY, họ để cho hệ thống nhà nước chính quy được tự do dân chủ chủ động triển
khai mọi chức năng chính thức của một nhà nước văn minh.
Vậy đối chiếu
với bẳng phân loại nói trên thì SQL của các nước XHCN trước đây là thuộc lại I
(chỉ quan tâm hẹp hòi ở tầm giai cấp, giai cấp đấu tranh, bè phái là chính).
Còn các nước
TBCN trên thực tế đã chấp nhận SQL loại II. Bởi thực chất việc mà các nhà tư bản
(có thể kể cả “tư bản đỏ”, dù nguồn gốc là bất chính), cộng tác với các nhân sĩ
trí thức trở thành SQL quốc gia, đã là kết quả tự nhiên của quá trình tuyển chọn
công khai, bình đẳng, cạnh tranh đua tài phát triển kinh tế xã hội của đất nước
rồi, như định nghĩa SQL loại II đã nói rất rõ, nên ở đây BẢN CHẤT (sự lựa chọn
đúng người tài lãnh đạo) và HIỆN TƯỢNG (người tài được dân chấp nhận giao quyền
lãnh đạo) đã trùng vào làm một ! (*)
Tuy nhiên chừng nào VN đã thật sự muốn đi theo cơ chế thị
trường (như lãnh đạo đảng CS vẫn kêu gọi quốc tế công nhận) và đã hội nhập, thì
tuy khối tư bản đỏ (con đẻ của thể chế công hữu độc quyền đảng trị) vẫn còn
phát triển, nhưng khối tư bản xanh do kinh tế tư nhân và hội nhập thế giới ngày
càng lớn mạnh, lại có đòi hỏi phải theo thể chế TPP, nên tất yếu về thực chất,
dù thế lực bảo thủ có muốn chống lại, cuối cùng áp lực HIỆU QUẢ và VĂN MINH
cũng sẽ buộc Đảng CS phải ngả theo SQL loại II.
RẤT HY VỌNG, thê đội lãnh đạo mới của VN hiện nay nhận thức rõ được bản
chất vấn đề mang tính tất yếu như vậy, sẽ biết thích nghi hợp lý và thông minh,
để khi thời cơ cho phép (***), sẽ dứt khoát phải chuyển được hoàn tòan QUYỀN LỰC
BAO TRÙM về dạng văn minh hơn.
VN ta, vì quán tính lạc hậu và do rất vướng trong quan hệ
quốc tế, vì muốn độc lập hòa bình tồn tại, nên muốn hay không, vẫn bị buộc vào
một trạng thái ĐU DÂY giữa các loại SQL: Ở trong nước là tranh chấp giữa SQL “Ý
thức hệ Mác – Lê” ngày một yếu thế, với SQL “Hiệu quả - Văn minh” ngày một lên
ngôi; trên trường quốc tế là phải cân bằng giữa SQL “Hiệu quả - Văn minh” với
SQL “CN Đại Hán cực đoan”. Nên lãnh đạo VN hiện nay mới buộc phải DIỄN cho thật
“giỏi”, (thậm chí có vị đã phải giả vờ NGU(?) . . .để VN tồn tại độc lập và
trung lập được giữa các SQL thế giới. Vì vậy, với thực chất các diễn biên đang
xẩy ra ở trong nước (như trên đã đề cập), và Đảng CS VN chỉ như một nhạc trưởng,
nên trước hết hãy chỉ cần tập trung QUYỀN LỰC BAO TRÙM vào những nội dung mà bất
cứ SQL thông minh loại nào, nếu đến tay họ, họ cũng phải làm:
1. Thống nhất lại bản Hiến pháp, quay trở về với tinh thần
của Hiến pháp năm 1946, không cần phải nói Đảng CS lãnh đạo toàn diện, bởi
chính Hiến pháp 46 đã được toàn dân – ông chủ thực sự - công khai chính thức
thông qua (còn những bản HP có điều 4 là do Đảng CS tự mình nêu ra và áp đặt).
Đương nhiên cần bổ sung hoàn chinh thêm cho phù hợp với VN thế kỷ XXI. Lý do: Đảng
chính trị - thực chất là Bộ Chính trị - thì chỉ nên, chỉ có thể đủ sức và quyền
hạn tập trung bao trùm vào mảng xây dựng văn hóa khởi nghiệp chính trị , tức cố
vấn Nhà nước đừng để nhân dân bị bóc lột quá đáng; Chính quyền phải thực thi
quyền lực văn minh: phải Tự do dân chủ công bằng; phải nghiên cứu sâu rộng toàn
cầu nhằm giữ độc lập toàn vẹn lãnh thổ . . .(như SQL loại II), nói khác đi là cố
vấn cho tốt tiến trình chính trị VIỆT NAM KHỞI NGHIỆP và BẢO VỆ đất nước. Còn tất
cả các lĩnh vực to lớn phong phú phức tạp khác là phải để toàn dân tham gia thật
đầy đủ và tự do dân chủ, phát huy, trọng dụng những nhân tài các thể loại khác
nhau trong nhân dân nhắm tới thành công giai đoạn VIỆT NAM KHỞI NGHIỆP (**).
2. HIỆN NAY rất nhiều vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội bất
hợp lý và sai lầm nặng nề đã tràn lan trong toàn hệ thống, do sai lầm THỂ CHẾ
trước đây tạo ra khó khăn kéo dài mấy chục năm, trộn với những khó khăn do cần
phát triển nhanh (thì ở đâu cũng có), nên CẦN GIẢI QUYẾT NGAY, để chuẩn bị MẶT
BẰNG CHO PHÁT TRIỂN, nhưng nếu giải quyết thiếu thông minh, vội vàng thiếu cân
nhắc, cực đoan . . .. thì điều đó lại sẽ gây ra rất nhiều mắc mứu, bất cập, rất
lộn xộn, thậm chí còn bị cả nhiều đảng viên, chính quyền lẫn các tổ chức đoàn
thể do đảng lập ra cùng kẻ địch của văn minh tiến bộ có cớ chống đối kịch liệt.
Vì dụ vấn đề CÔNG KHAI, MINH BẠCH và GIẢI TRÌNH tất cả mọi thứ (tạm thời trừ an
ninh, quốc phòng) cho nhân dân biết, góp ý kiến và kiểm tra. Rà lại, tiến tới
công khai: Toàn bộ Ngân sách và tài sản của VN hiện nay, phần đi vay, phần đầu
tư nước ngoài, rồi viện trợ, ODA, công khai thực sự chi tiêu NS; Hãy dồn 2- 3 hệ
thống hành chính quản lý đảng, hành chính, đoàn thể đều chi tiêu ngân sách QG
hiện nay thành một hệ thống gọn gàng như các nước văn minh;
Vấn đề bất lực trong
quản lý công dân VN và công dân nước ngoài hiện nay, hoặc cách thức cho lập ra
các Dự án tiêu tiền NS nhà nước rất tùy tiện, quá dễ dàng, vượt quá khả năng
NS, làm thất thoát cực lớn công quỹ hiện nay (vì phải cắt số % chia chác giữa
các Tư bản đỏ và những người phê duyệt); Vấn đề đụng độ khắp nơi trong “giải
phóng mặt bằng”, hay nông dân bỏ hoang
ruộng đồng ra thành phố tìm việc, mua biên chế, mua bằng bán chức rất phổ biến,
v .v .; Vấn đề quan hệ quốc tế trong tình thế mới, Và rất nhiều nội dung quan
trọng đã nêu ở phần tổng quan nói trên, .. .
Tuy nhiên, để hội nhập và tiến kịp
theo thế giới, đứng vững trong TPP, bảo vệ tốt chủ quyền quốc gia, chúng ta
không thể không ĐỔI MỚI thực sự và thực lòng, cần quyết liệt giảm được tối đa
tham nhũng tiêu cực để theo hướng văn minh toàn cầu của SQL thứ II, nhắm tới một
“Việt nam khởi nghiệp”(**). Vì vậy nhà nước rất nên thu hút thêm cả các tầng lớp
nhân sĩ trí thức ngoài biên chế và đã về hưu, trí thức người Việt ở nước ngoài,
các “Tù nhân lương tâm” đang rất nhiệt tình đấu tranh cho Tự do dân chủ, cho độc
lập toàn vẹn quốc gia và các chuyên gia thế giới yêu quý VN nữa (hầu như họ rất
tự nguyện không ăn lương) cùng tham gia vào những đề tài nghiên cứu đặc biệt nhằm
đưa kinh nghiệm TIÊN TIẾN quốc tế vào giải quyết khẩn trương, chất lượng, hợp
lý hợp tình những nội dung nêu trên (và chính vì vậy, họ - tù nhân lương tâm -
cũng sẽ rõ thêm thông tin thực chất mọi vấn đề và sẽ giác ngộ hơn tránh được mọi
sự NHẦM LẪN đã xẩy ra của các bên !)
3. Đảng nên chuyển ngay trọng tâm hoạt động nghiên cứu và
đào tạo chính trị của Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, Hội đồng Lý luận Trung ương
và Viện hàn lâm KHXH, chuyển cả nội dung hoạt động của các đoàn thể chính trị -
xã hội theo định hướng VĂN HÓA KHỞI NGHIỆP CHÍNH TRỊ (**). Đừng để lực lượng
lao động trí thức rất đáng trân trọng nói trên phải tiếp tục “múa rìu trong bị”
như hiện nay.
4. Đảng và Quốc hội hãy nghiên cứu khả năng thực hiện “Việt
nam khởi nghiệp” trong chính trị, bằng cách phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Chính trị
của Đảng với Ban thường vụ Quốc hội và Ban thường trực TƯ Mặt trận TQ VN nhằm
trao đổi sâu thông tin và tham khảo nghiêm túc lẫn nhau, tiến dần tới một
phương thức QUYỀN LỰC BAO TRÙM văn minh hơn, tức Đảng thực sự làm cố vấn chính
trị, như thế giới văn minh.
Nghĩa là, khác với Bộ chính trị thời đấu tranh
giành độc lập và chống ngoại xâm thủa trước, đừng tự mê hoặc mà cứ cho rằng Bộ
Chính trị của mình là ông Thánh, hay ông Vua, tự có quyền quyết định trùm lên cả
Quốc hội và Mặt trận Tổ quốc VN, xa rời về thực chất lực lượng trí tuệ của nhân
dân nói trên như hiện nay! (Nên nhớ: Ngay các SQL thế giới mà cũng đã nhầm lẫn
chiến lược kinh khủng khi “thật thà” nghĩ rằng, giúp TQ hội nhập vào cơ chế thị
trường tự do TBCN WTO thì TQ sẽ thay đổi thế chế Đại Hán và thế giới sẽ yên ổn!)
5. Thực tế hiện nay, chúng ta vừa DỌN MẶT BẰNG để xây dựng
cái mới, vừa chuẩn bị xây dựng chính cái mới là NHÀ NƯỚC và NỀN KINH TẾ KIẾN TẠO
(**). Nhưng xem ra việc CHUẨN BỊ MẶT BẰNG CÒN QÚA YẾU ! Xin Quý vị hãy rất tỉnh
táo, quan tâm rất thích đáng, không thể U MÊ, SƠ HỞ để “tức nước vỡ bờ”, tức là
đừng để nhân dân tự phát “san lấp mặt bằng” sẽ rất lộn xộn, hỗn loạn thì xây dựng
cái mới theo TPP làm sao kịp?
Tóm lại, Đảng cần
nhìn lên các nước văn minh, cần nhìn xa ra toàn cầu để đổi mới đủ tầm; đã muốn
vinh quang thì không thể biến mình thành ông vua, hay ngược lại, thành một thực
thể cạnh tranh kiếm sống như một ngành nghề bình thường (hay tầm thường); đã học
tập văn minh thì cần học đồng bộ, có hệ thống; đã chống lại những gì vi phạm luật
pháp quốc tế, thì không ngại ý tưởng của riêng cá nhân các lãnh đạo TQ; không
được tránh những gì tiến bộ có lợi cho dân, nhưng trước mắt có hại cho phe nhóm
mình;
Các vị TƯ UV và các Đại biểu QH khóa mới cần hiểu kịp và giác ngộ thật sự,
từ nay dứt khoát nên nhận rõ thật lòng: NHÂN DÂN mới là NGƯỜI CHỦ THỰC SỰ, NGƯỜI
nai lưng ra CHI TIỀN, về bản chất Nhân dân mới là SQL của cả nước, Đảng không
được tự coi nhầm mình là ông chủ của đất nước, mà chỉ là người NGƯỜI ĐẦY TỚ
TRUNG THÀNH (theo lời dậy của lãnh tụ HỒ Chí Minh), là cố vấn cho chính phủ cải
cách thực sự việc điều hành có kết quả công việc chung theo ý chí và nguyện vọng
của Nhân dân. Cần nắm chắc: Hạnh phúc thực sự lâu dài của mọi đảng viên là phụ
thuộc hạnh phúc thực sự của toàn dân.
(Trên đây, xin mạn
phép tóm tắt đôi điều rất chân thành đơn giản cho những lãnh đạo mới nhận trọng
trách với cả nước nhưng chưa có điều kiện và thời gian tìm hiểu sâu ABC về
chính trị SQL.. .)
Chú thích:
1.Thực chất ở nước nào các SQL cũng nắm quyền hết, nhưng
trong nghi thức không ở đâu quá lộ liễu, thô thiển, kém tâm lý xã hội và “U MÊ”
kéo dài từ thời chiến tranh như ở nước ta. Thể hiện rõ nhất là: Chỗ nào cờ Đảng cũng đặt đứng trước cờ Tổ quốc (của hơn 90
triệu người). Khẩu hiệu thì thường không “Mùng Tổ quốc, mừng Xuân”, mà chỉ “Mừng
Đảng, mừng Xuân”, Chủ tịch nước thì luôn luôn phải đứng sau Tổng bí thư, cả về
quyền lực thực chất lẫn ngoại giao quốc tế.
Vậy nay nếu đảng viên nào của Đảng
xứng đáng Tổng bí thư thì Đảng nên giới thiệu và giải trình kỳ được cho nhân
dân chấp nhận đảng viên đó trở thành Chủ tịch nước, để đỡ ngược đời so với thế
giới văn minh, tạo ra rất nhiều bất hợp lý và khó khăn trong quan hệ nội bộ và
giao tiếp quốc tế. Ở các cấp dưới cũng nên cải cách như vậy. (ví dụ rất nhỏ về
sự bất hợp lý, nhưng có thật, nói thêm để minh họa : Mấy cụ lãnh đạo về hưu đã
lâu mà làm sao vẫn cần có đội lính gác ở cổng nhà riêng ?).
2. Xin nhắc lại: SQL nào cũng là CON NGƯỜI, trước hết họ
cũng vì địa vị và quyền lợi của mình, song SQL thứ II do thông minh sáng suốt
trí tuệ và hiểu biết về tâm lý học hơn nên họ biết kiềm chế hơn: “ĂN SẠCH, NGỒI
CHỖ SANG và DẤU MẶT”, nên mới dễ được nhân dân hòa bình hữu nghị chấp nhận hơn.
Đương nhiên, cũng đang có dấu hiệu nhân dân vạch mặt một số sai lầm tầm sâu kín
của SQL II, có nghĩa, rồi cũng sẽ xuất hiện SQL thứ III. Nhưng ta không nên vì
thế lấy cớ để lưỡng lự với SQL loại II, vì sẽ dễ lặp lại sai lầm cũ (muốn bỏ
qua TBCN để lên ngay “Thiên đàng”!) bởi đó lại là nóng vội, cực đoan, muốn “đột
biến” nhẩy cóc ngay lên SQL loại III vẫn chưa hình thành!
(*) Nếu xem xét tầm
quốc gia, thì mấy chục năm qua, từ 1975 trở đi, do sai lầm về thể chế chính trị,
“kiên trì” CN Mác - Lê, nên đảng CS VN (vốn là anh hùng cứu nước) đã bị lên án
là TỘI ĐỒ. Vì sau khi hy sinh xương máu tranh đấu giành độc lập cho Tổ quốc từ
các ngoại bang, khi nắm được SQL quốc gia, anh lại – rất tự nhiên, vô tình –lại
bóc lột nhân dân thông qua tham nhũng tiêu cực để trở thành TƯ BẢN ĐỎ, và vì
anh chưa đủ thông minh trí tuệ, nên anh chưa dám cho tự do dân chủ cạnh tranh
thi đấu đường hoàng. Nhưng nếu xem xét cả thời gian hàng thế kỷ, và ở tầm toàn
cầu, thì Nhân dân VN và cả Đảng CSVN chính là NẠN NHÂN của những TỘI ĐỒ thực sự
của THẾ GIỚI, những thế lực THAM TÀN ĐỘC ÁC VÔ NHÂN ĐẠO của toàn Nhân loại.
Chính đó là những chi tiết khác biệt mà nhân dân các nơi do chưa hiểu rõ nên cứ
NHẦM LẪN phê phán, lên án, kết tội tùm lum, bất phân phải trái, đúng mức, đúng
người, đúng tội và đúng lúc.
--
Không được cực đoan tả kuynh như Tổng bí thư Lê Duẩn, cũng
không thể cực đoan hữu khuynh như TBT Nguyễn Văn Linh . . .; Không được duy trì
chế độ lương bổng quá bất hợp lý như thời hậu chiến, để cán bộ nhân viên nhà nước
phải “tự cải thiện sinh hoạt” dần dần chính họ đã dẫn đầu biến thành căn bệnh
chính quy rất quá trớn, phổ cập là “Tham nhũng tiêu cực” rất nặng nề hiện nay;
Không được tăng lãi xuất tiền gửi thật cao mà không có chế độ kiểm tra nguồn tiền
gửi như đã từng làm (giả vờ không biết) nên đã tạo động lực rất mạnh phá hoại sản
xuất, trì hoãn tiến độ và trật tự xã hội như đang xẩy ra . . ; Giảm chi tiêu NS
bất hợp lý, chứ không tăng thuế khóa - lệ phí đột biến; Đảng cần rất gần dân,
mà nhân sĩ trí thức cũng là dân. Không ngăn cấm, bưng bít thông tin, cấm tự do
ngôn luận, bởi chính cách đó là con dao hai lưỡi giết hại chính mình nhiều hơn
là “bảo vệ chế độ”. --
(**) Xem, chẳng hạn, “Việt Nam khởi nghiệp 1945 – 2015” của
TS Minh Đường, GS.John Gallup. Nhà Văn hóa Khởi nghiệp VN, tháng 3, 2015.
(***) Cuối cùng, liệu TQ có THỨC TỈNH để theo được con đường
dũng cảm hợp lý của Liên Xô trước đây hay không ? TQ, sau khi đã vận dụng Đấu tranh giai cấp
(CN Mác – Lê) để chiến thắng bằng vũ lực, Mao Trạch Đông đã chuyển ngay về mục
tiêu phục hồi Chủ nghĩa Dân tộc Đại Hán,. . .nhưng đã bị thất bại. Do đó, các
thế hệ lãnh đạo sau Mao có bị giao động ít nhiều về chủ thuyết phát triển (Chu
Ân Lai, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào. . .), đã đi theo cơ chế thị trường và hội
nhập với thế giới tư bản, phát triển hệ thống tư bản đỏ. . Nhưng vì CN Dân tộc Đại Hán mới trỗi dậy rất
mạnh, bắt đầu từ Đặng Tiểu Bình, nay là Tập Cận Bình, SQL loại I đã thắng thế
hoàn toàn. Nhưng quy luật phát của Nhân loại chắc chắn sẽ buộc TQ phải từ bỏ
con đường sai lầm này .
--
Bài 11 :
Đánh giá kết quả Đại hội XII
Kết quả của Đại hội XII làm cho nhiều nhân sĩ trí thức, một
bộ phận không nhỏ dư luận trong nước và nước ngoài bất ngờ. Ngẫm kỹ lại, ai có
học cũng thừa nhận rằng: Thực tiễn là chân lý. Lý luận chỉ dùng để hướng dẫn
con người hướng tới chân lý và giúp để giải thích thực tiễn, tức chân lý đó.
Vậy kết quả của Đại hội là thực tiễn đã xẩy ra. Vậy chắc rằng
lý luận hướng những ai trong chúng ta nghĩ tới kết quả khác với kết quả Đại hội
có thể là lý luận chưa toàn diện, còn sai lệch, hoặc là lý luận thì đúng, nhưng
chưa nắm vững, hay chưa hiểu kỹ thực tiễn, hoặc khi ghép vào thực tiễn thì chưa
thật chuẩn xác, chưa đầy đủ.
Các Mác rất thông minh, sáng suốt. Nhưng mới đủ trí tuệ để
giải thích rất chính xác phần lớn những hiện tượng cơ bản đã xẩy ra của CNTB
giai đoạn đầu. Nhưng khi dự báo, tiên đoán tương lai, nhất là khi đưa ra lý luận
Cách mạng Vô sản hướng dẫn Loài người đến tương lai là đã sai lầm tệ hại. Tại
sao ? Tại vì Các Mác dù rất thông minh nhưng cũng chỉ là một cá nhân, chứ Nhân
loại trong khối tư bản gồm hàng mấy tỷ người mới là “ông chủ” thật sự của thực
tiễn, hay chân lý.
Tương tự, tại Việt Nam, cái gì đã xẩy ra, thì đã được các
nhân sĩ trí thức giải thích khá rõ và đúng: Tại sao chúng ta đã đấu tranh thắng
lợi với CN phong kiến, CN Thực dân đế quốc. Hồ Chí Minh đã “vận dụng sáng tạo”
CN Mác – Lê nin như thế nào. Còn nay nước ta muốn tiến lên xã hội văn minh, Dân
giầu, Nước mạnh, thì chúng ta nên đi theo Chế độ tự do dân chủ đa nguyên, chứ
không nên tiếp tục đi theo CNCS ! Tại sao ? Tại vì (xin cho phép nhắc lại hơi
dài dòng để phục vụ các đọc giả không chuyên n/c chính trị):
1/ CNTB là kết quả
quá trình mò mẫm, trải qua bao đau đớn, chọn lọc, phát triển để tiến lên văn
minh hiện đại, với những thực tiễn có thật (chân lý) của toàn thể Loài người. Tổng
thống Mỹ Abraham Lincoln ngay từ năm 1864 đã nói với nhân dân Mỹ: “Một chính phủ
bởi dân, do dân và vì dân sẽ luôn luôn được nhân dân ủng hộ, sát cánh trong
công cuộc bảo vệ an ninh và toàn vẹn lãnh thổ”.
Còn CNCS chỉ là sáng tác rất bồng
bột của một nhóm người thông minh, rất nhiệt tình, rất căm thù bóc lột TB tàn bạo,
nhưng chưa có cơ sở thực tế nào giúp chứng minh cho những giải pháp cực đoan về
xây dựng tương lai (ví dụ: bỏ chế độ tư hữu, cấm đa nguyên đa đảng, công nông
thiểu năng trí tuệ lên độc quyền lãnh đạo . . .) của CNCS này được thực tiễn chấp
nhận cả;
2/ CNTB đã tồn tại được trên 3 thế kỷ, đã đi từ thô thiển
tiến dần lên văn minh hiện đại như ngày nay. CNCS mới tồn tại được gần một thế
kỷ. Nơi triển khai mạnh mẽ nhất là Liên Xô và Đông Âu . . nhưng do lý luận, đặc
bịêt là giải pháp thực hiện sai lầm trầm trọng, nên mới qua 70 năm đã bị/ tự
tan rã hoàn toàn. Vừa qua, ở rất nhiều các nước TBCN, các Đảng CS vần tồn tại
và được hoạt động tự do. Nếu CNCS là hay, có lý, thì hà tất phong trào CS thế
giới đang ngày một thoái trào thảm hại, còn thế giới TB văn minh đang ngả dần
theo CN xã hội dân chủ Bắc Âu, và Trung Quốc thì đang cố TÌM CÁCH THOÁT RA khỏi
CNCS một cách toàn diện (Chủ tịch Tập Cận Bình đang rất thực tâm tìm đường
“thoát Trung” hoàn toàn, tức thoát khỏi cái xã hội TQ tồi tệ về văn hóa xã hội
hiện nay)
3/ Trước tháng 8 năm 1945,Việt Nam phong kiến thực tế chưa
có giai cấp công nhân. Những người YÊU NƯỚC VN đã sử dụng CNCS như là một công
cụ tuyên truyền tập hợp quần chúng nghèo khổ đấu tranh cho độc lập dân tộc (tức
ngộ nhận có thể dùng CNCS như “cái bè” qua con sông thuộc địa- phong kiến”).
Sau đó, lại phải chịu hệ lụy CNCS một lần nữa khi phải dựa vào TQ và LX để
kháng chiến dành độc lập thống nhất đất nước. Sự hiểu nhầm, lẫn lộn quá sâu của
nhân dân VN sau mấy chục năm chiến đấu là:
1. VN cứ tưởng rằng thắng lợi của VN
là thắng lợi của CN Mác – Lê .Thực ra, thắng lợi của VN chính là kết tinh của ý
chí quật cường Dân tộc và sự thông minh của Đảng Lao Động VN. (thời kháng chiến
1947-1975 nếu hỏi các sĩ quan và chiến sĩ quân đội nhân dân VN rằng CNCS và
CNXH là gì, thì chẳng mấy ai biết để trả lời (gần đây Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
còn nói có lẽ phải hết thế kỷ này cũng chưa qua được thời kỳ quá độ, và đã yêu
cầu Hội đồng lý luận TƯ nghiên cứu để trả lời “CNXH là thế nào?);
2. VN đã phải
mang ơn một chiều TQ và LX. Thực ra, VN đã trả giá (trả nợ LX và TQ) bằng đem
xương máu của mình giúp tăng uy thế cho LX và giúp TQ có được Hiệp ước Thượng Hải
rất “béo bở” có lợi với Hoa Kỳ).
Thực tế sau tháng 8 năm 1945 Cách mạng VN đã làm theo Đề
cương CM dân tộc dân chủ của Hồ Chí Minh, còn Việt Minh đã đoàn kết toàn dân:
Trí, nông, công, thương, binh, quan lại, việt kiều yêu nước; Chính phủ VNDCCH đã là chính phủ đa đảng
phái, bao gồm phần lớn là trí thức và quan chức triều đình Huế, kể cả vua Bảo Đại,
chứ không phải là chính phủ công nông như Nga Xô;Hiến pháp đầu tiên đã vận dụng
tinh thần Hiến pháp Hoa Kỳ và Cộng hòa Pháp chứ không theo hiến pháp nước Nga của Stalin hay Trung Cộng;VN ngay sau khi mới
thành lập đã đề nghị được gia nhập Liên hiệp Pháp, chứ không gia nhập phe Liên
Xô, và mời Hoa Kỳ vào đầu tư phát triển kinh tế, chứ không mời nước Nga; Sau
này VN đã bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để đi theo cơ chế thị trường và
hội nhập với thế giới Tư bản . . .vì vậy Đảng ta đành coi những tư tưởng đó của
Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động VN là đã “vận dụng sáng tạo” CN Mác – Lê vào VN
(!) thì quan niệm “sáng tạo” rất linh hoạt như vậy cũng rất có lợi cho đoàn kết
trong nước và quốc tế (nên chúng ta không có ngại !)
Nhưng do mấy thế hệ lãnh đạo công nông sau này của Đảng CS
chúng ta đã quá nhầm lẫn (sau 1975 đã bỏ qua gần hết phần sáng tạo của HCM để
quay lại CN Mác – Lê chính gốc), cuối cùng thực tế sai lầm hơn 30 năm qua đã
giúp cho họ phần nào hiểu ra, nhưng vì chưa rõ làm mới cần thế nào, lại sợ phật
ý các bạn cũ, nên gần như chưa bao giờ dám nói rõ, thậm chí che dấu tất cả những
điều dích dắc nhầm lẫn thuộc BẢN CHẤT kể trên.
Còn nhân dân đông đảo do rất tin
tưởng vào Đảng ta nên vẫn một lòng một dạ tin theo cái CHÍNH TRỊ MÁC LÊ của Đảng,
chỉ chống những ai tham nhũng tiêu cực, mà không thấy rằng QUỐC NẠN suy thoái
xã hội, tham nhũng tiêu cực chỉ là HỆ QUẢ bề ngoài CỦA CÁI THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ
sai lầm ĐỘC ĐẢNG CS TOÀN TRỊ mất dân chủ này. Nhân dân ta và Đảng ta đã hiểu nhầm
rất lớn nguyên nhân đem lại thành công cho đất nước ta (giai đoạn 1945 -1975)
và vinh quang trong lãnh đạo chiến đấu vũ trang thiên tài của Đảng ta trước
kia. Đồng thời không giải thích đúng nguyên nhân của hiện tượng trì trệ thụt
lùi và sai lầm nghiêm trọng bắt đầu từ năm 1975 trở lại đây lại là do Đảng ta
đã kiên trì CN Mác – Lê và XHCN mô hình Liên Xô cũ.
Ngày nay NHỮNG CÁI SẼ XẨY RA – thí dụ kết quả Đại hội XII –
thì lại phụ thuộc hiểu biết và tâm trạng nhầm lẫn như đã nói trên của toàn dân,
của hàng triệu đảng viên ở các miền quê mà hơn một ngàn đại biểu hầu như CHỈ BIẾT
LĂN LỘN VỚI CUỘC SỐNG THỰC TẾ đại diện mang đến Đại hội. Chưa hết: Các nhà trí
thức và cựu chí sĩ yêu nước nhiều người đã rất tích cực nhiệt thành trình bầy
lý luận, hướng dẫn dư luận, vận động quần chúng nhận thức ra những sai lầm của
chế độ chính trị theo CN Mác – Lê .
Song rất ít đảng viên và người dân có điều
kiện đọc những thứ lý luận phân tích rất quan trọng đó trong các tập sách và
tài liệu dầy cộp! Trong khi đó, Đảng lại có nhiều viện nghiên cứu, nhiều ban bệ
đông đảo chuyên tâm ăn lương nhà nước đi tuyên truyền phiến diện và che dấu sai
lầm của CNCS khắp mọi nơi, trực tiếp đến với mọi người dân, đặc biệt là những
người có quyền lực trong bộ máy đảng và nhà nước. Tuyên truyền chính thức,
chính quy và ngăn chặn theo kiểu cực đoan “khác ta là địch” của đảng và nhà nước
về những nội dung nói trên đã đánh bạt mọi trao đổi, vận động chân thành và
không biết dùng thủ đoạn của các tư duy tiến bộ khách quan trong nước và từ nước
ngoài…
Ngoài ra ta không thể không nói đến tác động rất mãnh liệt
của môi trường thế giới. Chúng ta rất muốn độc lập, tự chủ để tiến lên, và như
vậy cần phải thể hiện sự “trung lập”. Nếu ASEAN đã mạnh lên, còn ta đã vào TPP
với Hoa Kỳ, thì TQ - vì quyền lợi dân tộc của họ - tất họ phải ép kì được đảng
ta giữ CN Mác – Lê để kìm hãm nước ta và góp phần ổn định “tư tưởng” nhân dân
trong nước họ, vì nếu ta bỏ được CN Mác – Lê và XHCN mô hình Stalin (dù là hình
thức) thì ta đã quá thiên về phương Tây, mất trung lập! Điều đó chắc chắn, trước
mắt TQ không thể chấp nhận, chứ không phải vì TQ còn tin CN Mác - Lê. Xu thế tất
yếu CN Mác Lê cũng sẽ thất bại hoàn toàn kể cả ở TQ, vậy để tạm cân bằng, để giữ
gìn hòa bình ổn định, đại hội Đảng ta đã đành phải chấp nhận một phương án tiến
chậm hơn, Đương nhiên như thế tất cũng sẽ mang đến khá nhiều khó khăn mới. . .
Một đặc điểm nữa của thể chế chính trị CS, vì cuối cùng đã
lộ rõ sự bất cập, ngụy biện, nên đã rất chủ động BƯNG BÍT THÔNG TIN, không thể
tự do ngôn luận, báo chí. Đây là một chủ trương XẤU, SAI LẦM CHẾT NGƯỜI, mà Đ/C
Lê Duẩn (cực tả, chỉ thấy mặt mạnh) và
Đ/C Nguyễn Văn Linh (cực hữu, chỉ chìm ngập trong thế yếu) là những người đã chịu
hậu quả tiêu biểu của căn bệnh chết người này và do đó đã phạm phải những sai lầm
nặng nề. Bưng bít thông tin đã là nguyên nhân chính tạo ra LÒNG TIN MỘT CHIỀU
MÙ QUÁNG, không rõ ta địch và thời thế đã thay đổi lớn, chính là nguyên nhân
sâu xa TỰ MÌNH LÀM HẠI MÌNH của Đảng và
nhân dân ta (Trái ngược hẳn với văn hóa tự do báo chí ngôn luận thời Cụ Hồ, và
của các nước Tư bản văn minh).
Bưng bít thông tin đã làm cho nhân dân và ngay đảng
viên lãnh đạo cũng không hiểu hết thực trạng mọi mặt lý luận và thực tiễn trên
thế giới, bản chất mọi câu chuyện trước đây tại Việt Nam, cũng như quan hệ của
VN với TQ và với Thế giới những năm gần đây. Mặt khác “bưng bít thông tin”
trong nội bộ cũng làm cho giới nhân sĩ trí thức tuy khách quan, nhưng không được
biết TQ thực sự đã nói gì, làm gì, bắt ép gì Đảng ta, trong đó có thể có cả những
thông tin mật xác đáng về TQ, quan hệ giữa TQ, Nga và Hoa Kỳ, và về môi trường
ngắn hạn toàn cầu ?
Như vậy cũng chứng tỏ TQ cố công đạo diễn, tác động ép buộc
mạnh mẽ cực kỳ giỏi hơn các nhân sĩ trí thức yêu nước – và Hoa Kỳ - , còn chắc
chắn Đ/C Nguyễn Phú Trọng và các đại biểu Đại hội XII đã “nắm vững nhiều thực tế
sâu kín” hơn đa số nhân dân, những người thụ động chịu sự bưng bít thông tin.
Trên đây là những NGUYÊN NHÂN CHÍNH làm cho kết quả của Đại
hội XII khác hẳn với dự báo của giới “thạo tin bề ngoài” và giới nhân sĩ trí thức
yêu nước vẫn khá trân trọng công lao thủa xưa của Đảng ta.
Tóm lại, đại hội XII đã thắng lợi từ một góc nhìn rất thực
tế. Kết quả Đại hội XII chứng tỏ rõ rằng, Thực tiễn của đất nước ta và tương
quan trên thế giới mới chỉ cho phép Đảng ta thắng lợi đến mức như đã thấy, đạt
được bước đi tổng quát, ổn định, tiến đến trình độ như Đại hội XII đã xác định
được, nên nhân dân ta và phần lớn thế giới đang vui mừng chào đón. Chắc chắn
các bước tiếp theo sẽ tiến bộ hơn, thậm chí, có thể tức nước vỡ bờ, có thể sẽ
có đột biến, trùng với cả dự báo trong Kinh dịch.
Tới đây Đảng ta trước mắt chỉ
cần nghiêm chỉnh thực hiện ngay những “tư tưởng sáng tạo” của Hồ Chí Minh (như
đã nêu lại ở trên) vào điều kiện hiện nay thì chắc chắn Nhân dân VN anh hùng,
cùng Đảng Lao Động VN quang vinh (vì thực tế không thể chỉ cùng riêng với công
nông) sẽ vượt qua mọi khó khăn mới để tiếp tục tiến lên cùng thế giới văn minh!
Hà Nội, ngày 27 tháng 1, 2016
No comments:
Post a Comment
Thanks