Ông Nguyễn Trường Tộ ơi !
Cái bất hạnh của đất nước mình là do sự hủ hóa bảo thủ ăn sâu đậm quá lâu vào giới quan lại nên không muốn thay đổi . Nhà vua ôm lấy hũ nho , bế quan tỏa cảng-- sợ mất ngai vàng nếu canh tân theo Tây Phương .
Khi hải quân Nhật đánh chìm Hạm Đội Nga ở eo biển Đối Mã năm 1905 thì Âu Châu rúng động , giật mình vì sự vươn lên của " Dân mọi Á Châu " .
Trong khi
đó , bên trời Nam, triều đình Huế chìm đắm
trong lạc hậu nên bị
thực
dân Pháp đô hộ. Trần Tế
Xương
nhìn sự dốt nát của
triều đình Huế
, nên ôm hận
than lên:
Nào có ra gì cái hũ Nho
Ông nghè ông cống cũng nằm
co
Sao không đi học làm thông phán
Tối rượu sâm banh sáng sữa bò.
Sao không đi học làm thông phán
Tối rượu sâm banh sáng sữa bò.
Nguyễn Trường Tộ ơi ! Bây gio thì nô lê Tầu , mất nước .
On Tuesday, May 17, 2016 4:40 AM, "chuong ngoc van dam [GoiDan]" <>
wrote:
Tiến
sĩ "Nổ" (6)
Trường hợp Nguyễn Trường Tộ khá đặc biệt vì ông không phải là một khoa bảng ...nhưng, chúng ta có thể nói đó là một người có kiến thức đúng nghĩa.
«Ông thông minh, học giỏi, nên được truyền tụng là "Trạng Tộ". Thế nhưng, ông không đỗ đạt gì, có thể vì ông là người Công giáo nên không được đi thi, hoặc là ông không muốn đi theo con đường khoa cử» (1)
Ông không là Tiến sĩ, nhưng tầm nhìn của ông rất xa khi nhận thức được bối cảnh và khuynh hướng vận động chung của thế giới thời bấy giờ, Nguyễn Trường Tộ có những nhận định:
«Ngày nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời, mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân đến, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ. Song tất cả đều không được phúc đáp. Đầu năm 1864, ông lại gửi cho đại thần Trần Tiễn Thành một bản điều trần nữa (hiện thất lạc) để thuyết phục Triều đình Huế nên tạm hòa với Pháp và mở rộng bang giao» (2).
Được thế, nhờ ông biết tiếng Pháp. Trong bài "Trần tình" (viết xong ngày 7 tháng 5 năm 1863), Nguyễn Trường Tộ phân trần rằng: lúc bắt đầu khởi hấn (đầu năm 1859, tức lúc quân Pháp chuẩn bị tấn côngthành Gia Định), quân Pháp có mời ông cộng tác, nhưng ông một mực từ chối. Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ (tháng 2 năm 1861), ông thấy rằng phải tạm hòa theo đề nghị của Pháp, để dưỡng quân và củng cố lực lượng. Chính vì thế mà Nguyễn Trường Tộ đã nhận làm từ dịch cho Pháp để mong góp phần vào việc hòa đàm.
Trường hợp Nguyễn Trường Tộ khá đặc biệt vì ông không phải là một khoa bảng ...nhưng, chúng ta có thể nói đó là một người có kiến thức đúng nghĩa.
«Ông thông minh, học giỏi, nên được truyền tụng là "Trạng Tộ". Thế nhưng, ông không đỗ đạt gì, có thể vì ông là người Công giáo nên không được đi thi, hoặc là ông không muốn đi theo con đường khoa cử» (1)
Ông không là Tiến sĩ, nhưng tầm nhìn của ông rất xa khi nhận thức được bối cảnh và khuynh hướng vận động chung của thế giới thời bấy giờ, Nguyễn Trường Tộ có những nhận định:
«Ngày nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời, mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân đến, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ. Song tất cả đều không được phúc đáp. Đầu năm 1864, ông lại gửi cho đại thần Trần Tiễn Thành một bản điều trần nữa (hiện thất lạc) để thuyết phục Triều đình Huế nên tạm hòa với Pháp và mở rộng bang giao» (2).
Được thế, nhờ ông biết tiếng Pháp. Trong bài "Trần tình" (viết xong ngày 7 tháng 5 năm 1863), Nguyễn Trường Tộ phân trần rằng: lúc bắt đầu khởi hấn (đầu năm 1859, tức lúc quân Pháp chuẩn bị tấn côngthành Gia Định), quân Pháp có mời ông cộng tác, nhưng ông một mực từ chối. Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ (tháng 2 năm 1861), ông thấy rằng phải tạm hòa theo đề nghị của Pháp, để dưỡng quân và củng cố lực lượng. Chính vì thế mà Nguyễn Trường Tộ đã nhận làm từ dịch cho Pháp để mong góp phần vào việc hòa đàm.
"Sau khi thôi việc,
Nguyễn Trường
Tộ đã
dồn hết
tâm trí
vào việc
thảo kế
hoạch giúp
nước. Nhờ
sự hiểu
biết sâu
rộng về
các phương
diệnchính
trị, kinh tế,
văn hóa,
khoa học kỹ
thuật... đến
đầu
tháng 5 năm
1863, thì ông
đã thảo
xong 3 bản điều
trần gửi
lên Triều
đình Huế
là: "Tế
cấp luận",
"Giáo môn
luận" và
"Thiên hạ
phân hợp
đại
thế luận"(3)
Nguyễn Trường Tộ đã gửi liên tiếp ba bản điều trần cho đại thần Trần Tiễn Thành, và hai bản điều trần cho đại thần Phạm Phú Thứ, để nhờ đưa các vấn đề quan trọng lên vua và Triều đình. Hai văn bản gửi cho ông Thứ, vì chưa tìm thấy nên không rõ nội dung. Còn ba văn bản gởi cho ông Thành, thì có thể là các bài: "Góp ý về việc mua và đóng thuyền máy" (cuối 1864), "Góp ý về việc đào tạo người điều khiển và sửa chữa thuyền máy" (tháng 2, 1865) và "Khai hoang từ" (tháng 2, 1866) (4)
Cũng trong thời gian trên, tại nước Nhật đã có sự thay đổi rộng lớn thời Minh Trị Thiên Hoàng (3 tháng 11 năm 1852 – 30 tháng 7 năm 1912).
Từ sự thay đổi trong thời gian đó, Nhật Bản đã dần dần trở thành một cường quốc ở Châu Á. Cũng chính từ sự canh tân đất nước như thế, dù bại trận sau thế chiến thứ hai, ngày nay Nhật vẫn là một trong những cường quốc trên thế giới, ít ra về mặt kinh tế.
Thật ra, tuy sự canh tân được mang tên ông vua Nhật bản, nhưng bối cảnh lịch sử và sự đóng góp của giới quan lại (nhất là của giới trí thức) trước thời Minh Trị, có phần đóng góp quan trọng hơn. Năm 1854, Matthew C. Perry lại mang một hạm đội 9 chiếc tàu chiến, bắt chính quyền Mạc phủ ký một hiệp định buôn bán bất bình đẳng, nhưng chế độ Mạc Phủ trước đó 200 năm, tuy bài ngoại, nhưng vẫn còn giao thương với một số các nước Tây Phương; đặc biệt là Hòa Lan.
Tình trạng Việt Nam lại trái ngược như thế. Việc cấm đạo Thiên chúa khá gắt gao và tuy cũng biết đến các nước Tây Phương khác, nhưng chính sách bế quan tỏa cảng gay gắt hơn nhiều. Đã thế, những đóng góp canh tân, chẳng hạn như trường hợp của Nguyễn Trường Tộ, không được sự quan tâm của triều đình.
«Nhưng sau khi đệ trình lên cách giải quyết, thì không được thi hành nên ông có lẽ chán nản, và xin về Nghệ An (ngày 10 tháng 4 năm 1866) [20]. Trong bức thư gửi Trần Tiễn Thành (viết từ Nghệ An đề ngày 15 tháng 6 năm 1866), thì tâm trạng của ông lúc bấy giờ khá u uất. Một phần vì ông nóng lòng việc canh tân đất nước, một phần vì thấy vua và một số quan lại bảo thủ hãy còn nghi kỵ mình» (5)
Tuy nhiên, công cuộc vận động của ông vẫn được duy trì một cách nhẫn nại, cho đến năm 1871. Ông mất đột ngột vào năm mới 41 tuổi.
Hòa ước
Giáp
Thân
1884 hay còn có
tên
là
Hòa
ước
Patenôtre (Pa-tơ-nốt),
là
hòa
ước
cuối
cùng
nhà
Nguyễn ký
với
thực
dân
Pháp
vào
ngày
6 tháng 6 năm 1884 tại kinh đô
Huế.
Điều
19. Các điều
ước
quốc
tế
hiện
nay sẽ thay thế
các
điều
ước
được
ký
kết
ngày
15 tháng 3, ngày
31 tháng 8 và
23 tháng 11 năm
1874.(6). Với Hòa
ước
này,
Việt
Nam càng lúc
càng
chịu
sự
đô
hộ
nặng
nề
hơn
của
Pháp.
Một
trí thức vì
căm
phẫn
với
triều
đình,
tìm
cách
chống
lại
nhà
vua đến
nỗi
bị
xử
chết
(Cao Bá Quát)
đến
một
trí
thức
(dù
không
bằng
cấp
cao) nhưng quan tâm
đến
vận
mệnh
của
đất
nước
nên
đã
tìm
đủ
cách
để
triều
đình
làm
một
cuộc
thay đổi,
cho kịp đà
phát
triển
...mỗi người
một
cách
thế;
nhưng
nói
cho cùng, đó
mới
chính
là
thái
độ
rất
đáng
được
kính
trọng
của
kẻ
sĩ.
Còn
những
Tiến
sĩ
"Nổ" thời
buổi
ngày
nay, không biết
có
xứng
danh là một
kẻ
sĩ,
hiểu
theo cách như
hai trường hợp
được
kể
đến
như
thế
không?!...
Đặng
Quang Chính
On Tuesday, 17 May 2016, 9:46, "vneagle_1>
Sent:
Tuesday, May 17, 2016 1:38 AM
Subject: NẾU VUA TỰ ĐỨC NGHE THEO NGUYỄN TRƯỜNG TỘ THÌ VIỆT
NAM NGÀY NAY VƯỢT XA NHẬT BẢN
Ông Nguyễn Trường Tô đuoc Vua Tự Đức cử sang Pháp . Sau khi quan
sát các tiến bộ khoa học , phát triển kinh tế, quân đội của nước văn minh nhất Âu Châu thời bấy giờ , ông về nước và viết bản điều trần gồm bảy điểm dâng lên vua Tự Đức , đề nghị vua phải cho thi hành ngay để canh tân đất nước .-- tránh cho đất nước khỏi sự đô hộ của Thực Dân Pháp sau này.
Than ôi , Vua Tự Đức có nghe đâu ...!!
Nguyễn Trường Tộ – một người Công giáo hết lòng vì đất nước
From: "'dinhthong3Gmail'
Cảm Ơn LM Alexandre
De Rhodes khi viết chữ Quốc Ngữ
Điểm nổi bật là các
trường học ,các bệnh viện ,các cơ sở từ thiện do Giáo Hội Công Giáo lập
ra và
trông coi chỉ có giúp DÂN.
Từ ngày Nhà Nước đòi Quản Lý hiện tượng Trộm Cắp xẩy ra
thường xuyên Khi kho thuốc của Bệnh Viện Hồng Bàng do 1 soeur ( nữ tu) coi
không mất 1 viên thuốc,sau đổi tên thành BV Phạm Ngọc Thạch kho thuốc do 1
Cán Bộ quản lý khi kiểm tra thuốc Rifadine ( thuốc chữa lao đắt tiền mất gần hêt
.
Nhìn tinh thần và cách phục vụ của Cán Bộ Y Tế Nhà Nước với các Tu
Sĩ tại các Trại Phong ( Cùi ) tại Qui Hòa (Qui Nhơn), Núi Sạn ( NhaTrang
) Di Linh ( ĐaLạt ) ta thấy sự khác biệt, một bên vì bổn phận ( bắt buộc ) một
bên vì Tình Yêu Thiên Chúa.
Gương Giám Mục Cassaigne, Mẹ Mơi, Linh Mục Bác Sĩ Cổ Tân Hưng: cả
cuộc đời phục vu người phong
cùi đáng kình phục.
Xin chuyen de nhan xet kinh nghiem :
TẠI SAO CS KHÓ KIÊM SOAT NHÀ THỜ
CG ?
Đạo CG người ta có tổ
chức chặt chẽ và đào tạo trình độ học vấn cao.
Một Linh Mục phải học Tiểu Chủng Viện, Đại CV.. Khi lên bậc Đại học, phải học Bốn năm Thần Học và bốn năm Triết học. Ngoài ra còn tư cách đạo đức và nhiều thử thách trước khi được chịu chức.
Một Linh Mục phải học Tiểu Chủng Viện, Đại CV.. Khi lên bậc Đại học, phải học Bốn năm Thần Học và bốn năm Triết học. Ngoài ra còn tư cách đạo đức và nhiều thử thách trước khi được chịu chức.
Hàng Giám Mục tiêu
chuần khó khăn hơn - Đại đa số có ít nhất một bằng Tiến Sĩ Gia'o
Lua^t hoặc Thần Học. Quan trong vẫn là đạo đức và uyên thâm chức nghiệp.
Cảm Ơn LM Alexandre De
Rhodes khi viết chữ Quốc Ngữ
Mới đây một nhóm người Việt đi tìm mộ Cha Alexandre De Rhodes . Ngài chết ở Iraq .
Có thể do bị truy lùng bắt đạo gắt gao VN , nên LM Al. De Rhodes phải qua truyền giáo ở Iraq . Ngày nay Iraq đã cố gắng nhưng cũng chưa có mẫu tự La Tinh abc như tiếng Việt chúng ta.
Các nhà truyền giáo Dao Chua Âu Châu phát minh ra
tiếng Việt lúc đầu chi? nhắm truyền giáo trong xóm làng nghèo VN , hoặc
giảng dạy trong các nhà thờ CG mà thôi .
Hơn hai thế kỷ sau , các nhà ngôn
ngữ VN mới thấy mẫu tự La tinh hay hơn nên tìm cách loại bỏ tiếng Hán của người
Tàu và thay cách viết tiếng Nôm bằng chữ quốc ngữ như ta thấy ngày nay . Tờ báo
đầu tiên dùng chữ quốc ngữ La Tinh abc là tờ Gia Đi.nh Báo phát
hành năm 1860.
Người Công giáo VN cám ơn nhiều hơn vì có chữ quốc ngữ liên tục từ
thế kỷ 17 .
Hơn nữa các nhà truyền giáo Âu Châu đã chịu hy sinh rất nhiều vì
phải bỏ đời sống an lành sung sướng ở quê nhà , phiêu lưu nguy hiểm vào các xóm
nghèo VN .
Rất nhiều nhà truyên giao Âu Châu nhu Hoà Lan , Y , Tây Ban Nha
, Phap , Bô Dào Nha ... đã bị các vua chúa VN giết chết .
Ba cống hiến quan trọng của Công giáo
Tôi là người ngoài Công giáo,
nhưng rất tôn trọng các tín ngưỡng.
Những xung đột giữa cộng đồng
Công giáo với nhà cầm quyền trong thời gian qua là điều không đáng có. Hơn thế,
sau những xung đột đó, một số cán bộ có chức sắc đã có những đánh giá thiếu
khách quan về vai trò của giáo dân với đất nước. Điều này không có ích cho khối
đại đoàn kết dân tộc.
Để tạo được sự đồng thuận,
không có cách nào khác là phải có cái nhìn khách quan về vai trò của các tôn
giáo. Xin được điểm qua một vài cống hiến của bà con giáo dân với sự nghiệp
chấn hưng nước nhà mà tôi có dịp chứng kiến suy ngẫm.
1- Chữ quốc ngữ (MT:
Latinh Lai) và
nền văn minh của nhân loại
CHỮ LATINH LAI (QUỐC
NGỮ) LÀ NIỀM HÃNH DIỆN CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO
Trước khi các nhà truyền giáo
vào Việt Nam , hàng ngàn năm qua, người Việt vẫn dùng chữ Hán hoặc bằng chữ Nôm
trong các giao
dịch. Nhưng đa số người Việt Nam mù chữ và không thể đọc và viết được chữ Tàu,
vì hệ thống chữ viết này quá phức tạp.
Từ thế kỷ XVI, cùng với các phát kiến hàng hải, các nhà truyền giáo theo các tàu buôn đến Việt Nam , họ là người tiên phong trong việc dùng mẫu tự La-tinh để viết lại âm giọng mà họ nghe được từ tiếng Việt. Đầu năm 1625, Linh Mục Alexandre de Rhodes đến Việt Nam , đã có một số phát âm tiếng Việt được viết bằng chữ La-tinh rồi.
Trên cơ sở đó,
Alexandre de Rhodes (1591- 1660) tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cách diễn đạt này,
để rồi năm 1651, lần đầu tiên ông cho xuất bản cuốn tự điển VIỆT-BỒ-LA tại
Roma. Đây được coi là năm sinh chính thức của chữ Quốc Ngữ. Cuộc khai sinh diễn
ra tại nhà in Vatican . Chính nơi nhà in Vatican mà Việt Nam nhận được chữ
viết của mình. Như vậy, chữ quốc ngữ từ chỗ là công cụ truyền giáo trong các
nhà thờ, đã từng bước trở thành ngôn ngữ cho toàn dân Việt Nam .
Ngày nay, không ai có phủ nhận sự thuận tiện và văn minh của chữ Quốc ngữ, chính nó đã góp phần lớn đưa đất nước VN hội nhập với thế giới dễ dàng, đơn giản hơn nhiều ngôn ngữ khác. Những ngôn ngữ chính dùng trên thế giới như Tiếng Anh, Tiếng Pháp… sẽ trở nên ít phức tạp hơn cho người học biết chữ quốc ngữ, so với người dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm. Nhưng nguồn gốc và công lao của người sinh ra ít được người ta nhắc đến, đó là sự thiếu công bằng.
Ngày nay, không ai có phủ nhận sự thuận tiện và văn minh của chữ Quốc ngữ, chính nó đã góp phần lớn đưa đất nước VN hội nhập với thế giới dễ dàng, đơn giản hơn nhiều ngôn ngữ khác. Những ngôn ngữ chính dùng trên thế giới như Tiếng Anh, Tiếng Pháp… sẽ trở nên ít phức tạp hơn cho người học biết chữ quốc ngữ, so với người dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm. Nhưng nguồn gốc và công lao của người sinh ra ít được người ta nhắc đến, đó là sự thiếu công bằng.
(csVN cũng đã fãi kông
nhận như rứa nên đã xữ-zụng hình ãnh kũa Cha Rhodes ..)
Cùng với sự xuất hiện
chữ quốc ngữ, những nét văn minh phương Tây cũng dần dần được du nhập vào VN đi
kèm với Công giáo. Những hủ tục mê tín, dị đoan như cúng tế, bói toán… khi có bệnh
được thay vào đó là bệnh viện, nhà thương bố thí, trường học cho người nghèo…
Trước đây, nơi nào có Nhà thờ, thì ở đó có thêm trường học, nhà thương cho
những người không có khả năng chữa bệnh hoặc học hành.
Ngoài ra, nếp sống quan niệm về cuộc sống cũng dần dần được đưa vào một cách khoa học, thiết thực hơn bởi các sản phẩm văn minh phương Tây mà những người truyền giáo mang đến cho đất nước An Nam theo bước chân truyền đạo của họ.
Nền văn hóa làng xã, cục bộ địa phương “sau lũy tre làng” cũng dần dần được thay đổi với cách nhìn toàn diện và tổng thể hơn. Với người Công giáo, bất cứ chỗ nào có giáo dân cũng là anh em, với mọi người đều là con Thiên Chúa dù khác đạo. Điều này dễ chứng minh nếu nhìn thấy bà con công giáo khắp nơi đã đổ về Thái Hà, về Xã Đoài… khi có những biến cố mà về mặt xã hội thì không liên quan đến những người ở xa xôi.
Những hoạt động của các
Dòng tu trong Công giáo như Dòng Chúa Cứu Thế với linh hướng phục vụ người
nghèo, Dòng Phanxicô theo linh hướng “Sống với tinh thần nghèo khó”… đã có
những tác dụng thiết thực xoa dịu nỗi đau của những người nghèo khổ trong xã
hội. Nhìn những cộng đồng tu hành phục vụ tại các trung tâm điều dưỡng, điều
trị cho bệnh nhân AIDS, phục vụ những người đang vướng vào tệ nạn xã hội, nuôi
dưỡng trẻ mồ côi… đã thể hiện rõ điều này và được xã hội công nhận.
2- Duy trì nền kinh tế nhiều thành phần.
2- Duy trì nền kinh tế nhiều thành phần.
Thời bao cấp, do quan
niệm thời kỳ quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế chỉ có hai
thành phần chính là Kinh tế tập thể và Kinh tế quốc doanh. Mọi thành phần
khác đều không được khuyến khích và chính thức thừa nhận.
Ruộng đất, các tư liệu sản
xuất quan trọng khác và cả các loại hình dịch vụ đều phải tập trung vào hợp tác
xã. Nhưng phong trào Hợp tác hóa nông nghiệp đã dần dần thể hiện rõ những bất cập
của nó và sớm chết yểu bởi nó đi ngược với quy luật kinh tế và cách nghĩ truyền
thống của nông dân Việt Nam . Chính vì thế có thể nói đó là một mô
hình công xã ảo tưởng, nó đã tiêu diệt nền kinh tế nông nghiệp VN từ chỗ thừa gạo
xuất khẩu đến một giai đoạn từ Trung ương đến địa phương, từ quan chức đến mỗi
người dân đều chỉ lo… cái đói.
Giám mục Đinh Đức Trụ
Tuy nhiên, nhiều nơi,
đặc biệt là các vùng Công giáo vẫn có những gia đình, thậm chí là có những cơ
sở không gia nhập Hợp tác xã nông nghiệp dù bị nhiều áp lực xã hội. Chẳng hạn
theo tôi được biết, ở Thái Bình, Giám mục Đinh Đức Trụ là người đã công khai
khuyến khích giáo dân không nên vào Hợp tác xã vì nó chỉ là ảo tưởng. Vì vậy bà
con giáo dân vẫn kiên trì mô hình kinh tế hộ, và sau này vào thời kỳ đổi mới,
đường lối đó được thực tế chứng minh là đúng đắn. Cả đất nước sau mấy chục năm
Hợp tác hóa đã chấp nhận trở lại kinh tế cá thể.
Những hộ kinh tế cá thể không tham gia Hợp tác xã nông nghiệp, tự họ có thể nuôi sống mình mà không cần trợ giúp của nhà nước. Hơn thế, họ còn có nông sản dư thừa cung cấp cho thị trường đã là minh chứng sống cho việc khẳng định đường lối Hợp tác xã nông nghiệp là sai lầm. Điều này giúp cho các nhà hoạch định chính sách mạnh dạn khẳng định chủ trương chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần.
Những hộ kinh tế cá thể không tham gia Hợp tác xã nông nghiệp, tự họ có thể nuôi sống mình mà không cần trợ giúp của nhà nước. Hơn thế, họ còn có nông sản dư thừa cung cấp cho thị trường đã là minh chứng sống cho việc khẳng định đường lối Hợp tác xã nông nghiệp là sai lầm. Điều này giúp cho các nhà hoạch định chính sách mạnh dạn khẳng định chủ trương chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần.
Thời kinh tế tập trung,
mọi thứ hàng hóa đều do nhà nước quản lý và đều chịu sự phân phối từ trung ương
xuống địa phương. Trong khi nhu cầu là sự đa dạng mà nhà nước thì không thể
quán xuyến hết nên trong một thời gian thực thi chính sách này, nền kinh tế dần
dần đi vào ngõ cụt, đời sống đói kém, hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng. Thế nên
dân gian mới có câu: “Cái cứt gì cũng phân mà phân thì… như cứt”.
Khi sự đói kém bao phủ toàn xã hội thì ở những làng công giáo, đời sống đỡ tệ hơn nhiều. Làng Vĩnh Hòa thuộc xã Hợp Thành, quê tôi là một làng như vậy. Vào thời điểm đó, trong cộng đồng bà con công giáo, nền kinh tế gia đình vẫn âm thầm phát triển, đặc biệt là các nghề truyền thống. Do bị phân biệt đối xử nên cộng đồng bà con công giáo vẫn ngầm “móc ngoặc” nhau sản xuất hàng hóa và tiêu thụ trong cộng đồng rồi tuồn ra bên ngoài. Sau này tìm hiểu được biết thêm, không chỉ ở làng Vĩnh Hòa quê tôi mà cả các khu vực khác đông đồng bào Công giáo như Phát Diệm, Bùi chu… các ngành nghề phụ vẫn âm ỉ hoạt động và cung ứng hàng hóa cho xã hội.
Khi sự đói kém bao phủ toàn xã hội thì ở những làng công giáo, đời sống đỡ tệ hơn nhiều. Làng Vĩnh Hòa thuộc xã Hợp Thành, quê tôi là một làng như vậy. Vào thời điểm đó, trong cộng đồng bà con công giáo, nền kinh tế gia đình vẫn âm thầm phát triển, đặc biệt là các nghề truyền thống. Do bị phân biệt đối xử nên cộng đồng bà con công giáo vẫn ngầm “móc ngoặc” nhau sản xuất hàng hóa và tiêu thụ trong cộng đồng rồi tuồn ra bên ngoài. Sau này tìm hiểu được biết thêm, không chỉ ở làng Vĩnh Hòa quê tôi mà cả các khu vực khác đông đồng bào Công giáo như Phát Diệm, Bùi chu… các ngành nghề phụ vẫn âm ỉ hoạt động và cung ứng hàng hóa cho xã hội.
Nhờ sự linh hoạt đó, nên
khu vực kinh tế tư nhân mà nhà cầm quyền quyết tâm tiêu diệt đã không chết. Đặc
biệt là trong cộng đồng Công giáo. Để rồi, khi dỡ bỏ chính sách cấm đoán đó,
thành phần kinh tế này được dịp trỗi dậy, làm sinh động của nền kinh tế.
Hiện tượng này vẫn được đảng ta gọi là: “Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo”
3- Tiên phong hội nhập
Hiện tượng này vẫn được đảng ta gọi là: “Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo”
3- Tiên phong hội nhập
So với các tôn giáo khác, Công giáo là cộng đồng dân cư đa sắc tộc, đa quốc nhất. Trải dài từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam , hơn 175 nước và vùng lãnh thổ có bà con Công giáo sinh sống, nhưng tập trung một tỷ lệ lớn nhất ở các nước phương Tây. Chính vì sợi dây liên lạc này, nên ngay cả khi cấm đoán đang ở vào thời điểm cao trào thì cộng đồng Công giáo vẫn duy trì liên lạc với các tín hữu của mình ở ngoài biên giới quốc gia.
Những công trình Công
giáo nguy nga, rộng lớn dành cho việc thờ tự đã là một nét văn hóa không thể
tách rời từ lâu của nền văn hóa Việt Nam . Việc xây dựng các công trình đó đã
đem đến cho Việt Nam những quan niệm ban đầu về một lĩnh vực mới về kiến trúc
và xây dựng hiện đại… thoát ra khỏi những quan niệm xây dựng tranh tre lá nứa hoặc
vôi cát từ lâu đã in sâu đậm trong quan niệm người Việt.
Cùng với đó, những nhà truyền giáo ngoại quốc vào Việt Nam khiến nhu cầu học tập ngôn ngữ nước ngoài cũng đã dần dần xuất hiện và cổ vũ cho sự tìm hiểu thể giới bên ngoài bắt đầu từ những cá nhân trong chính Công giáo như Nguyễn Trường Tộ…
Nguyễn Trường Tộ – một người
Công giáo hết lòng vì đất nước – sinh năm 1830 tại làng Bùi Chu, huyện Hưng
Nguyện, tỉnh Nghệ An. ( không phải huyện Nghi Lộc đã ghi sai )
Việc sinh hoạt cộng đồng
đã từng bước thay đổi cách sinh hoạt truyền thống của người Việt. Cùng kiến
trúc là âm nhạc, hội họa là những môn nghệ thuật mới tạo ra sự khác biệt trong
sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Việt xưa. Thông qua những sinh hoạt
như vậy, người Việt Nam vượt qua được chính những định kiến, những tư tưởng cục
bộ địa phương… đó được coi là những mầm mống đầu tiên cho sự hội nhập của đất
nước sau này.
Cũng cần nói thêm, cuộc
di cư vĩ đại từ Bắc vào Nam năm 1954 hầu hết là bà con Công giáo. Sau năm 75,
là cuộc di tản vĩ đại sang các nước không cộng sản, trong đó chiếm tỷ trọng lớn
là bà con Công giáo. Một tỷ lệ lớn người Việt ở Mỹ là bà con Công giáo. Họ là
người có điều kiện tiếp cận với thể chế văn minh, dân chủ phát triển ở trình độ
cao.
Khi nhà nước Việt Nam mở cửa, họ là những người đầu tiên về nước hoặc là gửi ngoại tệ về giúp thân nhân ở trong nước. Cùng với đó là hàng hóa, dịch vụ... Điều này giúp cho Việt Nam giảm căng thẳng về sự khan hiếm kéo dài trong những năm bao cấp. Hơn thế là cách thức tổ chức làm ăn, cách thức tổ chức đời sống và ý thức chấp hành pháp luật của một xã hội pháp quyền.
Khi nhà nước Việt Nam mở cửa, họ là những người đầu tiên về nước hoặc là gửi ngoại tệ về giúp thân nhân ở trong nước. Cùng với đó là hàng hóa, dịch vụ... Điều này giúp cho Việt Nam giảm căng thẳng về sự khan hiếm kéo dài trong những năm bao cấp. Hơn thế là cách thức tổ chức làm ăn, cách thức tổ chức đời sống và ý thức chấp hành pháp luật của một xã hội pháp quyền.
Có thể nói, cộng đồng
công giáo là những người tiên phong hội nhập.
Trên đây là những cảm nhận được của riêng tôi, có thể các bạn có những phát hiện khác, xin mời có
Trên đây là những cảm nhận được của riêng tôi, có thể các bạn có những phát hiện khác, xin mời có
ý kiến tham gia!
Phan Thế Hải
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks