----- Forwarded Message -----
From: V Pham <vpham
To:
Sent: Thursday, November 24, 2016 9:47 PM
Subject: Fwd: GS Phạm Cao Dương: Nhân vụ các cô giáo tỉnh Hà Tĩnh bị ép “tiếp khách, rót rượu, hát karaoke cho quan chức tỉnh”, nhìn lại Những đặc tính truyền thống cơ bản của Nền Giáo Dục ở Miền Nam Thời Trước Năm 1975
GS Phạm Cao Dương: Nhân vụ các cô giáo tỉnh Hà Tĩnh bị ép
“tiếp khách, rót rượu, hát karaoke cho quan chức tỉnh”, nhìn lại Những đặc tính
truyền thống cơ bản của Nền Giáo Dục ở Miền Nam Thời Trước Năm 1975
Bồng bồng mẹ bế con
sang,
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo.
Muốn sang thì bắc
cầu kiều,Muốn con hay chữ thì yêu lấy thày
(Ca dao Việt Nam)
“Tôi muốn thấy có
sự kính trọng trong một trường học. Ông thày tới,học trò phải nghiêm chỉnh đứng
dạy chào thày…”
Nicolas Sarkozy,
khi tranh cử Tổng Thống Pháp
(Từ Nguyên, “Tựu
Trường 2006”, Báo Người Việt, 10 tháng 9, 2006)
Một người bạn mới
về thăm Việt Nam trở lại Mỹ trước ngày Lễ Tạ Ơn 2016 ít ngày cho biết rất nhiều
người trong nước hiện tại đã đánh giá cao nền giáo dục ở Miền Nam thời trước
năm 1975; riêng bà con ở Miền Nam lại lấy làm hãnh diện là đã được đào tạo bởi nền
giáo dục ấy, trong những học đường Miền Nam và bởi các thày cô Miền Nam. Bạn
tôi là một nhà nghiên cứu. Anh đã khách quan kể lại không thêm bớt. Sau
đó dư luận lại ồn ào về chuyện xảy ra ở trong nước: 21 cô giáo ở Thị Xã Hồng
Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh bị Ủy Ban Nhân Dân tỉnh ép phải “tiếp khách, rót rượu, hát
karaoke” cho quan khách. Chưa hết, các nạn nhân lại còn bị vị Bộ
Trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, ông Phùng Xuân Nhạ, thay vì bênh vực cho những
nhân viên thấp cổ bé miệng nhất của bộ mình, trước sự bắt nạt của những ông vua
con ở các địa phương, lại công khai trách cứ họ là không biết phản đối, khiến
dư luận trong và ngoài nước vô cùng phẫn nộ, nhiều người lấy làm tủi hổ.
Việc làm của các quan chức Cộng Sản tỉnh Hà Tĩnh này phải nói là chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử dân tộc Việt Nam,
một dân tộc luôn luôn hãnh diện tự coi mình là có nhiều ngàn năm văn hiến.
Nhân dịp này, tôi
xin được cùng bạn đọc ôn lại những ưu điểm qua một số những đặc tính cơ bản của
sinh hoạt giáo dục ở Miền Nam thời trước năm 1975 nói riêng và văn hóa miền Nam
nói chung, chính yếu là sự liên tục lịch sử. Nói như vậy không phải là trong
thời gian này miền đất của tự do và nhân bản mà những người Quốc Gia còn giữ
được không phải là không trải qua nhiều xáo trộn. Chiến tranh dưới hình thức
này hay hình thức khác luôn luôn tồn tại và có những thời điểm người ta nói tới
các chế độ độc tài hay quân phiệt và luôn cả cách mạng. Nhưng ngoại trừ những
gì liên hệ tới chế độ chính trị, quân sự hay an ninh quốc gia, sinh hoạt của
người dân vẫn luôn luôn diễn ra một cách bình thường, người nào việc nấy, người
nào trách nhiệm nấy và được tôn trọng hay tôn trọng lẫn nhau. Sự liên tục lịch
sử do đó đã có những nguyên do để tồn tại, tồn tại trong sinh hoạt hành chánh,
tồn tại trong sinh hoạt tư pháp, trong văn chương và nghệ thuật và tồn tại
đương nhiên trong sinh hoạt giáo dục. Trong bài này tôi chỉ nói tới tới giáo
dục và giáo dục công lập. Đây không phải là một bài khảo cứu mà chỉ là một bài
nhận định và những nhận định được nêu lên chỉ là căn bản, sơ khởi, và tất nhiên
là không đầy đủ. Đồng thời mỗi người có thể có phần riêng của mình.Một sự
nghiên cứu kỹ càng, có phương pháp hơn và đầy đủ hơn là một điều cần
thiết.
Giáo dục là của
những người làm giáo dục
Giáo dục công lập ở
Việt Nam đã có từ lâu đời và tùy theo nhận định của các sử gia, tới một mức độ
nào đó định chế này đã tồn tại trên dưới mười thế kỷ. Mục đích của nó là
để đào tạo nhân tài cho các chế độ, nói riêng, và cho đất nước, nói chung. Các
vua chúa Việt Nam thời nào cũng vậy, cũng coi trọng việc học cả. Có điều coi
trọng thì coi trọng, các vua Việt Nam, nói riêng và các triều đình Việt Nam,
nói chung, chỉ vạch ra những đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm theo
là tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn người tài mà không trực tiếp can dự vào
sinh hoạt giảng dạy của các trường, hầu hết là các trường tư ở rải rác khắp
trong nước. Sinh hoạt này hoàn toàn do các thày ở các trường do các tư nhân đảm
trách. Giáo dục là của người dân và của những người làm giáo dục, và cho đến
khi người Pháp sang, nó là của giới trí thức đương thời, đúng hơn là của các
nhà Nho với tất cả những học thuyết, những nguyên tắc căn bản của giới này.
Sang thời Pháp, do nhu cầu bảo vệ và phát triển văn minh và văn hóa của họ,
người Pháp lập ra một nền giáo dục mới, nhưng việc điều hành, việc soạn thảo
chương trình vẫn được giao cho các nhà giáo được huấn luyện chuyên môn hay ít
ra là lựa chọn nghề dạy học với tinh thần quí trọng kiến thức và yêu mến nghề
dạy học dù chỉ là tạm thời về phía người Pháp cũng như về phía người Việt. Họ
mở các trường sư phạm để huấn luyện giáo chức chuyên nghiệp.
Đặc tính kể trên đã
liên tục được tôn trọng trong suốt thời gian miền Nam tồn tại và luôn cả trước
đó, từ thời Chính Phủ Quốc Gia của Cựu Hoàng Bảo Đại. Chức vụ bộ trưởng hay
tổng trưởng giáo dục có thể là do các chính trị gia hay những người thuộc các
ngành khác đảm nhiệm, nhưng trong việc lựa chọn nhân sự điều hành trong bộ,
ngoại trừ các chức vụ có tính cách chính trị như đổng lý văn phòng, chánh văn
phòng, bí thư tức thư ký riêng của bộ trưởng... tất cả các chức vụ chỉ huy khác
trong bộ, từ thứ trưởng, tổng thư ký, tổng giám đốc, giám đốc cho tới các hiệu
trưởng các trường và đương nhiên là các giáo sư, giáo viên, đều là những nhà
giáo chuyên nghiệp, không có đại diện đảng phái chính trị ở bên cạnh. Lý do rất
đơn giản: họ là những người vô tư, biết việc, rành công việc và có kinh nghiệm,
chưa kể tới sự yêu nghề. Chính trị đối với họ chỉ là nhất thời, tương lai của
cả một dân tộc, hay ít ra là của những thế hệ tới mới, là quan trọng. Trong
phạm vi lập pháp, rõ hơn là ở quốc hội, các chức vụ đứng đầu các ban hay tiểu
ban, dù là thượng viện hay hạ viện đều do các nghị sĩ hay dân biểu gốc nhà giáo
phụ trách. Ngoại trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc phạm vi chính trị
nhất thời đã ngưng lại trước ngưỡng cửa của học đường. Thày cô giáo là nhân
viên của bộ giáo dục, do bộ giáo dục bổ nhiệm, trực thuộc vị hiệu trưởng của
trường sở tại , rồi các nha sở của bộ giáo dục ở trung ương chứ không trực
thuộc các quận hay tỉnh trưởng.
Về tên các
trường, tất cả các trường trung, tiểu học đều được gọi bằng tên của các danh nhân hay anh hùng dân tộc thời
trước, được mọi người công nhận, Trưng Vương, Ngô Quyền, Chu Văn An,
Đoàn Thị Điểm, Gia Long, Petrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu,
Phan Thanh Giản, Lê Ngọc Hân, …không hề có tên
nào là của các lãnh tụ đương thời dù đó là Bảo Đại, Ngô Đình Diệm hay
Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, kể cả Trần Văn Hương gốc nhà giáo… thay vì
những tên hoàn toàn xa lạ đối với quảng đại quần chúng Miền Nam về sau này như
Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám…, những người của
một đảng chính trị hay, tệ hơn nữa, là ngụy tạo, không có thật.
Tôn chỉ và mục đích
nhằm hướng tới quốc gia, dân tộc và con người, dựa trên những truyền thống đã
có từ lâu đời
Nói tới ba nguyên
tắc căn bản, đồng thời cũng là tôn chỉ và mục đích tối hậu của nền giáo dục của
miền Nam trước năm 1975, có người tỏ ý không thích ba nguyên tắc này. Lý do có
lẽ, tôi chỉ đoán như vậy, là vì ba nguyên tắc này phần nào đã được người Cộng
Sản Việt Nam nêu lên trong Đề Cương Văn Hóa 1943 của họ. Ba nguyên tắc đó là
Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng, sau này là Nhân Bản, Dân Tộc và Khoa Học trong
khi trong Đề Cương Văn Hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì là Dân Tộc, Đại
Chúng và Khoa Học… Ở đây người viết không đi sâu vào khía cạnh này vì dù không
thích, không đồng ý, ba nguyên tắc Dân Tộc, Nhân Bản và Khai Phóng này vẫn đã
trở thành căn bản của nền giáo dục của miền Nam mà không ai lưu tâm tới vấn đề
là không biết. Chúng đã giúp cho nền giáo dục này giữ được những truyền thống
cơ bản của dân tộc và phát triển một cách vững vàng từng bước một để theo kịp
với đà tiến triển của cả nhân loại mà không chạy theo những gì của thời thượng
để trở thành lai căng, mất gốc, đồng thời cũng không bị gán cho là bảo thủ, lỗi
thời… Tính cách liên tục lịch sử của nền giáo dục của miền Nam sở dĩ có được,
phần nào là dựa trên những nguyên tắc này, đặc biệt là nguyên tắc Dân Tộc. Nó
cho phép người ta đề cao và bảo tồn những truyền thống dân tộc trong học đường,
dù đó là những truyền thống thuần túy Việt Nam hay những truyền thống của Khổng
giáo. Đôi câu đối được khắc trên cổng chính của một trong những trường trung
học lớn nhất của miền Nam là trường Petrus Trương Vĩnh Ký sau đây là một trường
hợp điển hình:
Khổng Mạnh cương cường tu khắc cốt
Âu Tây khoa học yếu minh tâm
Sự khủng hoảng hiện
tại của nền giáo dục ở trong nước là do ở sự thiếu những yếu tố chỉ đạo
này. Điều này đã được thấy rõ qua sự vô cùng lúng túng của Ông Vũ
Đức Đam, đương kim Phó Thủ Tướng, đặc trách văn hóa, xã hội, khoa học, giáo dục
và đào tạo trong một buổi điều trần trước Quốc hội và bị hỏi câu hỏi là “có
hay không một triết lý giáo dục Việt Nam?” Điều khiến cho người ta ngạc
nhiên là không lẽ là một cán bộ ở cấp cao chuyên lo về văn hóa, như vậy, ông
lại không biết tới Đề Cương Văn Hóa 1943 của Đảng Cộng Sản
Việt Nam trong đó ba nguyên tắc cơ bản chỉ đạo cho các vận dụng văn hóa, nói
chung, văn học và giáo dục… nói riêng, là: dân tộc hóa, đại chúng
hóa, và khoa học hóa đã được nêu cao hay sao? Không lẽ ba nguyên
tắc này đã trở thành lạc hậu trong tình thế mới, trước quyền hành và quyền lợi
của Đảng Cộng Sản Việt Nam?
Liên tục trong phạm
vi nhân sự
Nhân sự ở đây không
ai khác hơn là các nhà giáo, căn bản là các nhà giáo chuyên nghiệp. Tôi muốn
nói tới các nhà giáo tốt nghiệp từ các trường sư phạm, những người ngay từ thuở
thiếu thời đã chọn nghề dạy học làm lý tưởng cho mình và chỉ sống bằng nghề dạy
học, vui với nghề dạy học hãnh diện với vai trò làm thày, làm cô của mình, dù
đó là sư phạm tiểu học hay sư phạm trung học. Một nghề bị coi là “bạc nghệ”, là
bị xếp sau so với các nghề khác:
Dưa leo ăn với cá kèo,
Cha mẹ anh nghèo, anh học noọc-man.
Tất cả các vị này
vẫn còn nguyên vẹn khi đất nước bị qua phân và đã ở các trường trong Nam khi
các trường này được mở cửa trở lại sau một thời gian chiến tranh bị tạm đóng
cửa, không mấy người tập kết ra Bắc.
Sau khi đất nước bị
chia cắt và qua cuộc di cư của non một triệu người từ miền Bắc vô Nam, họ lại
được tăng cường thêm bởi một số đông các đồng nghiệp của họ từ miền Bắc vô cùng
với các trường được gọi là Bắc Việt di chuyển: Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Chu Văn
An, Trưng Vương, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục... Tất cả đã cùng nhau hướng dẫn và điều
hành các học đường miền Nam trong thời kỳ chuyển tiếp từ Pháp thuộc sang độc
lập, đồng thời cũng là những giảng viên cơ bản trong các trường huấn luyện giáo
chức thuộc thế hệ mới. Từ phong thái đến cách giảng dạy, từ cách vào lớp, cho
phép học trò ngồi, tới cách viết bảng và xóa bảng, cách chấm bài hay phê bài,
các vị này đã để toát ra một sự chừng mực và vô cùng thận trọng của những nhà
sư phạm nhà nghề, khác hẳn với một số các đồng nghiệp của họ từ ngoại quốc về
chỉ lo dạy các môn học chuyên môn. Học đường do đó đã tránh được nạn chánh trị
hóa, tránh được nạn cán bộ chánh trị xâm nhập. Nhiều vị vào những lúc tình thế
vô cùng tế nhị đã giữ được thế vô tư và độc lập, nghiêm chỉnh của học đường và
tư cách của giáo chức. Cũng cần phải nói thêm là trong thời gian này nhiều vị
xuất thân là cử, tú, kép, mền, luôn cả tiến sĩ của thời trước, những người tinh
thâm Nho học, vẫn còn có mặt ở các học đường, đặc biệt là các Đại Học Văn Khoa ở
Saigon và Huế như Tiến Sĩ Nguyễn Sĩ Giác, Cử Nhân Thẩm Quỳnh, Tú Tài Kép Vũ Huy
Chiểu... mà không ai là không quý trọng.
Hệ thống tổ chức,
tổ chức thi cử và chương trình học vẫn giữ được những nét chính của Chương
Trình Pháp và Chương Trình Hoàng Xuân Hãn, Phan Huy Quát
Đây là một trong
những đặc tính căn bản của nền giáo dục của miền Nam trong suốt thời kỳ nền
giáo dục này tồn tại. Những gì người Pháp thiết lập không những không bị hủy
bỏ, coi như tàn tích của chế độ thực dân, đế quốc mà còn được thận trọng giữ
gìn, song song với việc bảo tồn truyền thống văn hóa cổ truyền và đạo đức của
dân tộc. Người Việt ở miền Nam trong tinh thần cởi mở và tự do đã biết phân
định những gì là kìm kẹp và những gì là hay đẹp mà một chế độ chính trị đem
lại, thay vì cứ nhắm mắt đập bỏ để sau này hối tiếc. Các nhà làm giáo dục ở
miền Nam đã tỏ ra vô cùng thận trọng trong mọi quyết định. Những gì gọi là cách
mạng vội vã, nhất thời dường như không được chấp nhận. Họ chủ trương cải tổ để
thích ứng với hoàn cảnh mới và cải tổ từ từ, kể cả khi thế lực và ảnh hưởng của
người Mỹ, từ đó áp lực của họ đã trở nên rất mạnh. Hệ thống giáo dục do người
Pháp từ tiểu học cho đến đại học đã tồn tại dưới hình thức Việt hóa bắt đầu từ
thời chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945, với chương trình Hoàng Xuân Hãn, vị bộ
trưởng giáo dục đương thời, sau này là Phan Huy Quát thời Quốc Gia Việt Nam mới
được thành lập. Nó cho phép người ta, từ thày đến trò, dễ dàng chuyển sang một
nền giáo dục mới của một quốc gia độc lập không hề có chuyện trục trặc. Ngay từ
cuối niên học 1944-1945, trong rất nhiều khó khăn, từ giao thông, vận chuyển
đến thông tin, liên lạc, người ta đã tổ chức được những kỳ thi ở bậc tiểu học
bằng tiếng Việt mà không hề có chuyện than phiền, khiếu nại. Điều nên nhớ là
Chính Phủ Trần Trong Kim chỉ tồn tại có vẻn vẹn bốn tháng hay hơn một trăm
ngày, vô cùng ngắn ngủi, với những phương tiện giao thông và liên lạc hết sức
nghèo nàn. Sau này khi gửi sinh viên ra ngoại quốc du học, miền Nam đã
không gặp phải những khó khăn trong việc đối chiếu bằng cấp, hệ thống học và
khả năng của các đương sự, không phải chỉ riêng cho những ai muốn sang du học
bên Pháp mà luôn cả cho những ai muốn sang các quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ, Gia
Nã Đại, Úc, Nhật... vì đó là một hệ thống giống như các hệ thống khác thuộc thế
giới tây phương, một hệ thống gần với hệ thống chung của quốc tế.
Duy trì mối liên
tục lịch sử cũng cho phép người ta sử dụng được các sách giáo khoa của người
Pháp và những sách giáo khoa về lịch sử và văn chương Việt Nam do chính người
Việt soạn thảo từ thời trước năm 1945 và sau đó là từ năm 1947 đến năm 1954 ở
những vùng đất của người quốc gia. Điển hình là các sách toán và khoa học bằng
tiếng Pháp, do các tác giả Pháp soạn và xuất bản ở bên Pháp nhưng đã được không
những các thày mà luôn cả các trò sử dụng làm tài liệu hay để tự học. Trong
phạm vi văn chương, những sách của Dương Quảng Hàm, đặc biệt là hai cuốn Việt
Nam Văn Học Sử Yếu và Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển đã
được dùng rất lâu dù cho nhiều sách giáo khoa khác đầy đủ hơn đã được soạn thảo.
Cũng vậy, trong phạm vi sử học với cuốn Việt Nam Sử Lược của
Trần Trọng Kim. Về nội dung, đặc biệt là trong văn học, người ta cũng thấy nền
giáo dục của miền Nam vẫn giữ được tinh thần tự do, cởi mở. Các tác giả được
đem dạy hay trích dẫn đã được lựa chọn căn cứ vào giá trị của các công trình
của họ thay vì gốc gác và sự lựa chọn chế độ của họ, thay vì căn cứ vào chuyện
họ ở miền Bắc hay ở miền Nam trong thời gian này. Tô Hoài, Xuân Diệu, Thanh
Tịnh, Nguyễn Tuân... là những trường hợp điển hình.
Trong phạm vi thi
cử, các kỳ thi được thiết lập từ thời Pháp hay có ở bên Pháp vẫn được duy trì,
đặc biệt là hai kỳ thi tú tài. Ở bậc đại học hệ thống tổ chức cũng tương tự.
Ảnh hưởng của người Mỹ chỉ được chấp nhận một cách từ từ với nhiều thận trọng,
mặc dầu người Mỹ đã bỏ ra nhiều tiền bạc và nhân sự qua các chương trình viện
trợ khiến cho nhiều người Mỹ đã tỏ vẻ bất bình. Hình thức thi trắc nghiệm áp
dụng cho các kỳ thi tú tài chỉ được thực hiện rất trễ về sau này và dư luận đã
đón nhận nó với những nhận định khác nhau. Tiếc rằng chỉ vài năm sau Miền Nam
đã không còn nữa.
Trong phạm vi tổ
chức thi cử, người ta có thể thấy không riêng gì quan niệm, cách tổ chức, cách
coi thi và chấm thi cũng như cách cho điểm, định kết quả và công bố kết quả hãy
còn chịu ảnh hưởng nhiều của người Pháp mà còn luôn cả những thời quân chủ
trước đó nữa. Quyền uy của các giám khảo, các chánh phó chủ khảo, các giám thị
đã luôn luôn được tôn trọng và nhiều vị chủ khảo đã tỏ ra vô cùng can đảm giữ
thế độc lập cho mình hay biết khôn ngoan né tránh cho mình và cho các đồng
nghiệp của mình khi phải lãnh nhiện vụ ở những vùng xa thủ đô Saigon, an ninh
và giao thông không bảo đảm. Nên nhớ là trong thờ gian này hệ thống trung ương
tập quyền vẫn còn tồn tại. Ra đề thi, in đề thi và gửi đề thi về địa phương với
tất cả sự bảo mật cần thiết là vô cùng khó khăn, tế nhị và phức tạp. Về phía
chính quyền thì từ trung ương đến địa phương hầu như không hề có sự trực tiếp
can thiệp. Báo chí, các cơ quan truyền thông vẫn luôn luôn hiện diện và sẵn
sàng phanh phui mọi chuyện.
Một Xã hội tôn
trọng sự học và những người có học
Đây là một trong
những đặc tính cơ bản của văn hóa Việt Nam mà xã hội Miền Nam nói chung và nền
giáo dục Miền Nam nói riêng thời trước năm 1975 được thừa hưởng. Đặc tính này
đã được biểu lộ không riêng qua tinh thần tôn sư trọng đạo mà còn được coi như
một giá trị và là một giá trị đứng đầu trong mọi giá trị. Sự học là một giá trị
và giáo dục là một giá trị. Sự học hay giáo dục làm nên con người chứ không
phải là những yếu tố khác, dù đó là quyền uy và tiền bạc. Người làm công tác
giáo dục được tôn trọng và từ đó có được những điều kiện ít ra là về phương
diện tinh thần để thực thi sứ mạng của mình mà những người làm chánh trị, những
nhà chủ trương cách mạng, kể cả những người cấp tiến nhất cũng phải kiêng nể.
Nhưng bù lại, người ta lại trông đợi rất nhiều ở các người làm công tác giáo
dục, ở đây là các thày, cô. Giữa những người cùng làm công tác dạy học cũng
vậy, tất cả đã tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng các bậc tôn trưởng, kể cả những người
đã khuất. Sự thiết lập những bàn thờ tiên sư ở các trường trung học Nguyễn
Đình Chiểu ở Mỹ Tho và Phan Thanh Giản ở Cần Thơ phải được kể là tiêu biểu cho
tinh thần giáo dục của miền Nam. Đối với các phụ huynh học sinh, sự
trông đợi các thày nhiều khi quá mức, ngày nay khó ai có thể nghĩ được điển
hình là chuyện “giáo sư mà cũng ăn phở”. Câu chuyện do một vị giáo
sư từ Bắc vô Nam sau Hiệp Định Genève và được cử xuống Mỹ Tho chấm thi tú tài
kể lại. Buổi sáng, các thày rủ nhau đi ăn phở trước khi nhập
trường. Ở tiệm phở, ông nghe người địa phương thầm thì “giáo sư mà cũng
ăn phở”. Nên nhớ là Mỹ Tho là một tỉnh nhỏ và hồi giữa thập niên 1950,
bằng tú tài là to lắm rồi trong khi các vị giáo sư này lại là giám khảo chấm
thi tú tài lận!
Tạm thời kết luận
Bài này bắt đầu
được viết vào lúc những tin tức về những tệ hại trong nền giáo dục ở nước Việt
Nam chiếm một phần không nhỏ trong sinh hoạt truyền thông quốc tế cũng như quốc
nội. Ngoài những tin tức, những bài nhận định còn có những hình ảnh của các kỳ
thi đi kèm. Tất cả đã xảy ra hàng ngày và đã chiếm những phần không nhỏ trong
thời lượng phát thanh hay phát hình hay trên các trang báo, đặc biệt là vào
những thời kỳ bãi trường hay khởi đầu của một niên học. Mọi chuyện đã liên tiếp
xảy ra từ nhiều năm trước và người xem, người nghe có thể đoán trước và chờ đợi
mỗi khi mùa hè và sau đó là mùa thu đến. Nhiều người còn dùng hai chữ phá sản
để hình dung tương lai của nền giáo dục này và nhiều người khác còn tỏ ý nuối
tiếc quá khứ mà họ cho là rất đẹp của nền giáo dục ở miền Nam thời trước năm
1975. Ở đây, như đã nói trong phần mở đầu, người viết chỉ vắn tắt ghi nhận một
số những dữ kiện căn bản liên hệ tới nền giáo dục ở Miền Nam thời truớc năm
1975. Một công trình nghiên cứu qui mô hơn và kỹ càng hơn còn cần phải được
thực hiện trước khi người ta có thể khẳng định những nhận xét này. Tuy nhiên có
một điều người ta phải để ý và thận trọng khi nói tới cách mạng và đặc biệt khi
làm cách mạng. Người ta có thể xóa bỏ một chế độ chính trị bằng cách mạng, từ
đó đoạn tuyệt với quá khứ nhưng người ta không thể theo đà đó mà làm cách mạng
trong những phạm vi sinh hoạt khác trong đó có giáo dục một cách máy móc, không
thận trọng. Nhận định này có thể bị coi là bảo thủ, nhưng đó là một sự thật và
là một sự thật bắt đầu bằng kinh nghiệm. Có điều vì bằng kinh nghiệm nên
khi biết được là sai lầm thì đã quá muộn. Những gì thuộc về quá khứ, kể cả quá
khứ bị coi là phong kiến, lạc hậu không phải là luôn luôn tệ hại, là cổ hủ và
những gì được coi là canh tân, đổi mới không phải luôn luôn là tốt đẹp. Tất
cả cần phải có thời gian để “gạn đục, khơi trong”. Duy có một điều không bao
giờ thay đổi là khi giáo dục không còn được coi là một giá trị và khi các thày
cô không còn được coi trọng thì xã hội sẽ không còn là xã hội của loài người
nữa.
Trở về với thực tế
trước mắt, với vụ 21 cô giáo ở Thị Xã Hồng Lĩnh, tỉnh Quảng Trị, nhiều người tự hỏi nếu các cô không được chính Bộ
Giáo Dục và Đào Tạo, cơ quan trực tiếp phải lo cho đời sống và điều kiện hành
nghề của các cô bênh vực, thì nghiệp
đoàn giáo chức của các cô ở đâu?
Tự hỏi nhưng ai cũng biết là ở Việt Nam hiện tại làm gì có nghiệp đoàn vì các
luật về lập hội, lập nghiệp đoàn, biểu tình vẫn chưa được Quốc Hội đem ra thảo
luận. Tưởng cũng nên nhớ là
ngay từ thời Vua Bảo Đại, qua Chính Phủ Trần Trọng Kim, các đạo Dụ về tự do hội
họp, tự do lập hội, tự do lập nghiệp đoàn đã được ban hành ngay từ Tháng Bảy
năm 1945. Tất cả đã xảy ra trong một tuần lễ đầu tháng Bảy khiến
cho báo chí đương thời đã mệnh danh tuần lễ này là Tuần Lễ Của Các Tự
Do. Nhưng chỉ chưa tới ba tuần lễ sau ngày tuyên bố nền độc lập và
thành lập Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Hồ Chí Minh đã ký sắc
lệnh ngày 22 tháng 9 năm 1945, bãi bỏ các nghiệp đoàn trên toàn cõi Việt
Nam. Đồng thời Bộ Trưởng Nội Vụ Võ Nguyên Giáp đã ký nghị định giải tán
Hội Khai Trí Tiến Đức và cho Hội Văn Hóa Cứu Quốc tư cách pháp nhân. Trong khi
đó, ở các nước tiền tiến, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, các nghiệp đoàn giáo chức rất
mạnh và được phía chính quyền kính nể. Tương
lai của các giáo chức Việt Nam, nói riêng, và nền giáo dục Việt Nam, nói chung,
quả thật không có gì sáng sủa.
Phạm Cao Dương
Quận Cam Hoa Kỳ Mùa
Lễ Tạ Ơn 2016
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks