GIẢI
PHÓNG: NỖI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN NAM VIỆT
Tiến Sỹ
LÊ HIỂN DƯƠNG, Nguyên Hiệu Trưởng Đại Học Đồng Tháp
|
Ngày
nay hầu như nhân loại trên khắp hoàn cầu đều lấy năm Chúa Kitô giáng sinh làm
mốc định thời gian, chúng ta đang ở vào năm 2010, tức là 2010 năm kể từ ngày
Chúa giáng thế. Nhiều sự kiện khoa học hay lịch sử cũng được xác định dựa trên
mốc thời gian này cho dù những dữ kiện đó hoàn toàn không liên quan gì đến niềm
tin tôn giáo hay tín ngưỡng. Chẵng hạn nhà
toán học Pythagore sinh năm 580 và mất năm 500 trước Công Nguyên, Tề Hoàn
Công trị vì từ năm 685 đến năm 643 trước Công Nguyên… Cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng xảy ra năm 42 sau Công Nguyên… Các văn bản bằng tiếng Anh thì dùng BC
(before Christ) hoặc AD (Anno domini) để chỉ những sự kiện xảy ra trước hoặc
sau Thiên Chúa giáng thế. Riêng người Việt nam chúng ta từ trong Nam ngoài
chí Bắc từ sau 30 tháng tư năm 1975 lại có một mốc định thời gian mới: “hồi
trước giải phóng” hay “hồi sau giải phóng”, tất nhiên người Việt mình nghe mãi
rồi quen tai và không thấy gì phản cảm khi dùng hoặc nghe cụm từ này… Nhưng khi
tôi vô tình dùng nó lúc nói chuyện với một đồng nghiệp người nước ngoài rằng
“…after the liberation of the south…” thì ông ta sững sốt hỏi ngay rằng “…
liberation from what?…” – Giải phóng khỏi cái gì? Thì tôi mới hốt hoảng với
cách dùng cụm từ này để định mốc thời gian của người Việt… bởi đối với hầu hết
người Việt, nhất là người miền Nam hoặc đối với cả đồng bào miền Bắc di cư vào
Nam năm 1954 nữa, thì “giải phóng” là một nỗi ám ảnh trong cả đời người…
Video: GIẢI PHÓNG NỖI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM
Còn
nhớ ngày 30 Tư năm 1975, lúc đó chúng tôi còn là sinh viên của đại học sư phạm
Vinh đã hồ hởi, phấn khởi hò reo meeting nhiều đêm ngày để mừng Miền Nam được
hoàn toàn giải phóng, bởi chúng tôi tin rằng từ đây đồng bào Miền Nam ruột thịt
của chúng tôi sẽ không còn đói rách lầm than và không còn sống trong cảnh “ngụy
kềm, Mỹ hãm” nữa… Họ đã được đảng và Bác cùng nhân dân Miền Bắc chúng tôi giải
phóng. Và những tháng tiếp theo đó chúng tôi được tận mắt nhìn thấy hàng đàn
hàng lủ bọn ngụy quyền ác ôn bị sự trừng phạt của chính quyền cách mạng, của
nhân dân miền Bắc và của chính chúng tôi… Số là mỗi tuần một lần. chúng tôi
được chính quyền và ban giám hiệu nhà trường thông báo vào những ngày giờ có
những ô tô của cục quân pháp chuyển tù cải tạo là những sỹ quan, ngụy quyền ác
ôn của chính quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua địa phương để đến các trại cải tạo ở
mạn ngược. Cùng với đồng bào địa phương, mỗi sinh viên chúng tôi phải chuẩn bị
đầy đủ cơ số đá trứng nhặt từ đường ray xe lửa để khi đoàn xe tù đi ngang qua
là hô hào toàn dân trút những trận mưa đá lên đầu những tên ngụy quyền ác ôn
này, bởi chúng có quá nhiều nợ máu với nhân dân, với đất nước… Và sau mỗi lần
trừng trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng tôi đều có hội họp, báo công và được
tuyên dương khen thửơng, được kết nạp vào đoàn, được vinh dự đứng vào hang ngũ
của đảng vì đã đả thương được bao nhiêu sỹ quan ngụy quyền đó. Tất nhiên là
cũng có nhiều buổi họp báo công, chúng tôi cũng bị phê bình kiểm điểm vì đã
không có trường hợp thương vong nào được ghi nhận trong những vụ “tập kích” đó…
Kết
thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển
tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học, rồi được đảng và nhà nước chi viện
vào miền Nam để mang ánh sáng văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao
năm qua sống trong u tối lầm than vì cứ liên miên bị ngụy kềm, Mỹ hãm chứ đâu
có được học hành gì…
Chúng
tôi thực sự choáng ngợp khi xe qua khỏi vùng chiến sự Quảng Trị, đến Huế, đến
Đà Nẵng.. rồi Nha Trang, Sài Gòn rồi về Miền Tây, đến thị trấn Cao Lãnh, đâu
đâu cũng lầu đài phố xá chứ có tường đất mái tranh như ở thành phố Vinh chúng
tôi đâu!
Nhận xong nhiệm sở từ ty giáo dục Đồng Tháp, chúng tôi được đưa
về công tác tại trường trung học sư phạm Đồng Tháp ngay tại trung tâm của thị
trấn Cao Lãnh, và tại đây, trong suốt nhiều năm liền chúng tôi được bố trí ở
tại khách sạn Thiên Lợi mà chính quyền cách mạng đã tịch biên từ tên tư sản
Thiên Lợi… Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần
đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết được thế nào là
lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay
thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng
nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh
nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh mà được bác Hồ khen thưởng
và có thơ ca ngợi rằng:
“Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân Bắc, phân xanh đầy nhà”…
Thậm chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy giờ còn có
cả những vụ án các tập đoàn viên, các hợp tác xã viên can tội trộm cắp phân bắc
từ các hố xí của láng giềng để nộp cho hợp tác xã… Tôi thấm thía hơn với những
câu thơ ca ngợi miền Bắc đi lên XHCN của Tố Hữu mà ngoài sinh viên học sinh
chúng tôi ra thì hầu như cả nhân dân miền Bắc lúc bấy giờ ai cũng thuộc nằm
lòng:
“Dọn tí phân rơi nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than mẩu thóc cân ngô
Hai tay ta gom góp dựng cơ đồ…”
Tôi bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải phóng miền nam” … Rồi
những trận đổi tiền để đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào bị tịch
biên, rồi hàng triệu đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường
chúng tôi cũng vắng dần theo làn sóng đi tìm tự do đó… tôi bắt đầu hiểu đích
thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng niền nam” và bắt đầu cảm thấy xấu hổ cho
bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân… mà dù ở chừng mực
nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội…
Dần dần tôi hiểu sâu hơn cái sự mỉa mai chua chát của hai từ
“GIẢI PHÓNG” đang được dùng trong kho tàng Tiếng Việt của nước nhà… “Giải phóng
miền nam” thực sự có mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc vô biên và cả sự thịnh
vượng nữa với gia sản có thể đột ngột tăng lên cả 16 tấn vàng ròng… những tất
nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội, chỉ chừng 16 người trong tổng số non
50 triệu dân lúc bấy giờ thôi… Còn lại thì “giải phóng” đồng nghĩa với cảnh côi
cút vì “sinh bắc tử nam” mất con, mất chồng, mất cha, mất anh mất em bởi họ đã
vào chiến trường và không bao giờ trở về nữa… Giải phóng cũng có nghĩa là tù
đày, là cải tạo nơi rừng thiêng nước độc, là mất vợ.. mất con, mất nhà cửa
ruộng vườn, mất bao nhiêu người thân trên biển cả và mất hết tự do dân chủ nhân
quyền và mất luôn cả tổ quốc! Rồi “giải phóng mặt bằng” cũng chỉ mang nguồn lợi
lớn lao cho một nhóm quan phương, nhưng lại là nỗi ám ảnh nỗi hãi hùng của muôn
dân, bởi sau “giải phóng mặt bằng” là hàng trăm đồng bào lại phải vô tù ra khám
bởi tội “chống người thi hành công vụ”, bởi sau giải phóng mặt bằng là cái chết
của thiếu niên Lê Xuân Dũng và Lê Hữu Nam, là thương tật của nông dân Lê Thị
Thanh …
Chẳng biết người dân Việt nam từ nay còn dùng cụm từ “trước ngày
giải phóng” hay “ sau ngày giải phóng” để định mốc thời gian nữa không… Riêng
tôi, tôi cảm thấy quá căm thù nhân loại bởi đã bịa ra từ ngữ “giải phóng” và
“giải phóng mặt bằng” mà chi để dân Việt chúng tôi vì nó mà phải khổ lụy đến
dường này.
Tiến
Sỹ Lê Hiển Dương
Hiệu
Trưởng-Đại Học Đồng Tháp
Đồng Tháp ngày 29 tháng 5 năm 2010
PHẢN
HỒI BÀI VIẾT CỦA TS LÊ HIỂN DƯƠNG VỀ "GIẢI PHÓNG MIỀN NAM"
Kính chào ông Lê
Hiển Dương –
tiến sĩ, cựu hiệu
trưởng Đại Học Đồng Tháp,
Thưa Ông, bài báo
ngày đầu năm 2012 vô tình tôi được đọc là bài “GIẢI PHÓNG” Nỗi kinh hoàng của
người dân Nam Việt, bài viết này là của Ông. Bài được đăng trên Hải ngoại
phiếm đàm Online ngày 05/01/2012, cuối bài viết có ghi trọn vẹn tên tác giả
cùng học vị và chức vụ. Học vị cùng chức vụ và nhất là qua bài viết của ông,
cho tôi biết ông đã một thời là cán bộ giáo dục của nhà nước cộng sản hiện
thời Việt Xã Nghĩa, còn tôi cũng xin vài dòng được nói về mình. Tôi một người
tù mà các người cộng sản chiến thắng, gọi xách mé là sĩ quan Ngụy của 36 năm
trước, trên bước đường tù biệt xứ đã hai lần, tôi đươc hân hạnh đi ngang qua
thành phố Vinh của ông. Khi chúng tôi đọc xong bài của ông viết, tôi biết ông
là người như thế nào, những gì ông suy nghĩ khiến chúng tôi mến ông, và thấy
cần phải viết vài dòng xin được thưa chuyện cùng ông, những dòng
chữ đậm là tôi xin phép ông được ghi lại những gì ông đã viết.
Không giấu gì ông,
ban đầu sau khi đọc xong bài ông viết, tôi định cho nó qua, nhưng câu kết của
ông như níu tôi lại, khiến tôi thấy nên nói chuyên với ông thì quí hơn, vì
mấy khi ta gặp được người như ông. Ông Dương ạ câu kết ông viết Chẳng
biết người dân Việt nam từ nay còn dùng cụm từ “trước ngày giải phóng” hay “
sau ngày giải phóng” để định mốc thời gian nữa không… Riêng tôi, tôi cảm thấy
quá căm thù nhân loại bởi đã bịa ra từ ngữ “giải phóng” mà chi để dân Việt
chúng tôi vì nó mà phải khổ lụy đến dường này. Câu này làm tôi thấy
chúng ta tuy là kẻ Nam người Bắc, nhưng vô tình lại chung phận là nạn nhân,
nạn nhân của kẻ bợm, chúng sống bằng sự lừa lọc dối trá, sự trí trá đó khiến
biết bao người “sinh bắc tử nam” mất con, mất chồng, mất cha, mất anh mất
em bởi họ đã vào chiến trường và không bao giờ trở về nữa”.
Đó là phần không may
cho dân miền Bắc, còn miền Nam như ông thấy đó và ông đã viết “là tù
đày, là cải tạo nơi rừng thiêng nước độc, là mất vợ mất con, mất nhà cửa
ruộng vườn, mất bao nhiêu người thân trên biển cả và mất hết tự do dân chủ
nhân quyền và mất luôn cả tổ quốc!”. Để rồi những kẻ bợm CS đó chúng
đoạt lấy tất cả, những gi của người dân hai miền Nam-Bắc nước ta, từ cơ bản
quyền làm người đến của cải vật chất, chúng dìm đời sống người dân cả nước
xuống tận bùn đen, còn sự tồn vong của đất nước thì đang trong tình trạng
treo chỉ mành. Trong những cái chúng cướp đoạt của đất nước, có cả 16 tấn
vàng là số vàng thuộc tài sản quốc gia, mà chính phủ VNCH để lại, chúng đã
chia chác nhau số vàng này, và cái tận cùng bỉ ổi là chúng lại tuyên truyền
là chính quyền miền nam đã lấy số vàng đó. Nhưng nay tất cả người dân VN đều
biết như ông viết, kẻ lấy số vàng 16 tấn không ai khác hơn là 16 tên chóp bu
bộ chính trị CSVN “Giải phóng miền nam” thực sự có mang lại niềm vui,
niềm hạnh phúc vô biên và cả sự thịnh vượng nữa với gia sản có thể đột ngột
tăng lên cả 16 tấn vàng ròng… nhưng tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã
hội, chỉ chừng 16 người trong tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ
thôi…”, Cám ơn ông thật nhiều Ông Lê Hiểu Dương ạ, sự thực cuối cùng vẫn
là sự thực.
Sau ngày 30
tháng 04 năm 75, trước khi chúng tôi bị đưa ra miền bắc để lưu đày, các “ông
cộng sản” đã nói với chúng tôi về thiên đường cộng sản xã hội chủ nghĩa miền
bắc như sau: Miền Bắc XHCN không có người nghèo kẻ giàu, không có nhà cao
tầng, và cũng không có nhà lá, tất cả đều nhà gạch giống như nhau, ý nói kiểu
nhà cư xá hay chung cư,- Không có kẻ rách rưới, mà kẻ khác thì dư thừa tơ
lụa, tất cả đều bận kaki Nam định thoải mái. Miền bắc XHCN vật chất thì nhiều
vô kể, không thiếu một thứ gì, còn trong Nam toàn thể dân chúng, và ngay cả
trong trại, tất cả mọi người phải sống trong khó khăn thiếu thốn, đó là do
tàn dư của chế độ tư bản Mỹ Ngụy để lại, rồi đây miền Bắc sẽ chi viện cho
miền Nam(?). Nghe nói vậy cũng có nhiều anh em tù tin, xã hội cộng sản mà,
tất cả đều bình đẳng, cái ăn, cái mặc, cái ở đều như nhau, chủ thuyết của Mác
Lê, chả mong muốn xây dựng một nhà nước, một xã hội theo mô hình như thế là
gì (!).
Nhưng cũng như ông
nói, ông nhận ra sự thật khi vào nam,“Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến
choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là
lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay
thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng
nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh
nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh”. Thì sự thật phũ
phàng cũng đến với chúng tôi, khi chúng tôi vượt qua cầu Hiền Lương, trên
bước đường lưu đày lên mạn ngược, lần đó qua cầu Hiền Lương là vào khoảng 10
giờ sáng, đây đất Đồng Hới nào thấy đâu nhà gạch, Quảng Bình quê ta nào thấy
đâu giàu đẹp. Cả một vùng xác xơ đều khắp với những mái tranh vách đất tiêu
điều, dọc đường thỉnh thoảng một vài ngôi nhà xây, đấy là những nhà gạch duy
nhất mà chúng tôi thấy, nhìn kiểu dáng kiến trúc cho thấy chúng đã có từ thời
Pháp. Cái nhiều mà chúng tôi thấy được trên chuyến đi là khẩu hiệu, suốt
chuyến đi hai bên đường không biết cơ man nào là khẩu hiệu, đều là khẩu hiệu
màu đỏ máu, chữ vàng, to có nhỏ có, dài có ngắn có, ca ngợi hết lời tình hữu
nghị Việt Hoa, như răng với môi, như anh với em, tình đồng chí đời đời bền
vững. Ngoài ra cũng không ít những cái suy tôn họ Hồ, họ Mao, Các Mác, Lê
Nin, tất cả các chữ dao to búa lớn như vĩ đại, vô địch, quang vinh.v.v…đều
được đem ra dùng tối đa.
Cũng ngay trong lần
đầu diện kiến dung nhan thiên đường cộng sản đó. Xe vừa vào tới Đồng Hới, thì
đậu tập trung chờ lịnh bên đường, tình cờ giờ tan trường, những trẻ học trò
tò mò đứng nhìn đoàn xe bít bùng. Học sinh là mầm non đất nước, tương lai của
cả một dân tộc, mà dường như những đứa trẻ này, thiếu ăn như lủ tù chúng tôi
hay sao?, mà nhìn chúng gầy và xanh quá, quần áo chúng luộm thuộm rách rưới.
Vậy mà chúng lại đang sống trong cái thiên đường XHCN, do đảng cộng sản quang
vinh tể trị… cái khăn quàng màu máu trên cổ chúng, nói thêm một điều nữa,
Chúng là cháu ngoan họ Hồ. Chúng đang học tập và theo gương Bác vĩ đại của
chúng, nhưng không hiểu lý do gì mà nhìn chúng thảm quá, như phường ốm đói.
Đấy ông Dương thấy không, tôi có khác mấy chi ông khi ông đặt chân vào miền
Nam như ông nói, “Chúng tôi thực sự choáng ngợp khi xe qua khỏi vùng chiến sự
Quảng Trị, đến Huế, đến Đà Nẵng.. rồi Nha Trang, Sài Gòn rồi về Miền Tây, đến
thị trấn Cao Lãnh, đâu đâu cũng lầu đài phố xá chứ có tường đất mái tranh như
ở thành phố Vinh chúng tôi đâu!”.
Ông Lê Hiển Dương
mến, quê ông là Vinh, quê ngoại tôi cũng là Vinh, nhưng tôi không sống ở đó,
tôi chỉ được cái hân hạnh đi ngang qua thành phố Vinh hai lần, năm 1975 trong
lúc chuyển tù từ nam ra bắc. Và năm 1981 sau khi TQ đánh vùng phía bắc sáu
tỉnh biên giới, chúng tôi đựơc di dần vào trong, chuyến xuôi nam bất đắc dĩ,
mà nhà nước cộng sản không muốn tí nào, tôi biết chắc như thế. Họ muốn chúng
tôi phải vùi thân nơi núi rừng tây bắc họ mới vui, lý do gì thì ông thừa biết
phải không ông Dương, những gì ông nói ra cho thấy ông rất thành thật, vì những
gì ông làm cho chúng tôi tại Vinh. Thì tại các nơi khác người dân nơi ấy cũng
làm theo một cách như ông, vì đó là chính sách chung của Đảng, ông ném đá thì
họ cũng ném đá, thậm chí có người xấn xổ nhổ nước bọt vào chúng tôi. Thoạt
đầu thì chúng tôi khó chịu vì sự lỗ mãng của họ, nhưng khi thấy những nụ cười
đểu của bọn cán binh áp tải, thì chúng tôi nhận ra ngay đấy là những gì người
dân bị “make up”, hoàn cảnh chúng tôi lúc đó, không khác gì cảnh trong những
thước phim tài liệu “đấu tố” cải cách ruộng đất năm nào.
Ông
nói “những tháng tiếp theo đó, chúng tôi được tận mắt nhìn thấy hàng đàn
hàng lủ bọn ngụy quyền ác ôn, bị sự trừng phạt của chính quyền cách mạng, của
nhân dân miền Bắc và của chính chúng tôi… Số là mỗi tuần một lần, chúng tôi
được chính quyền và ban giám hiệu nhà trường thông báo, vào những ngày giờ có
những ô tô của cục quân pháp, chuyển tù cải tạo là những sỹ quan, ngụy quyền
ác ôn của chính quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua địa phương, để đến các trại cải
tạo ở mạn ngược. Cùng với đồng bào địa phương, mỗi sinh viên chúng tôi phải
chuẩn bị đầy đủ cơ số đá trứng nhặt từ đường ray xe lửa, để khi đoàn xe tù đi
ngang qua, là hô hào toàn dân trút những trận mưa đá lên đầu những tên ngụy
quyền ác ôn này, bởi chúng có quá nhiều nợ máu với nhân dân, với đất nước…Và
sau mỗi lần trừng trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng tôi đều có hội họp, báo
công và được tuyên dương khen thửơng, được kết nạp vào đoàn, được vinh dự
đứng vào hang ngũ của đảng, vì đã đả thương được bao nhiêu sỹ quan ngụy quyền
đó. Tất nhiên là cũng có nhiều buổi họp báo công, chúng tôi cũng bị phê bình
kiểm điểm vì đã không có trường hợp thương vong nào được ghi nhận trong những
vụ “tập kích” đó…”
Nay đã hơn ba mươi
sáu năm, sau ngày oan nghiệt của vận nước, muốn hay không muốn chúng ta cũng
phải thấy, Nam hay Bắc đều là nạn nhân của bọn cộng sản vong nô, chúng tôi
không trách ông đâu Ông Dương ạ. Thứ nhất vì cái thành thật của ông làm chúng
tôi mến, thứ đến là đã có người xin lỗi chúng tôi thay cho ông rồi, những
người làm việc tạ lỗi với chúng tôi là những người nghèo bán hàng rong tại
nhà ga thành phố Vinh của ông. Chúng tôi cảm được cái ray rứt trong lòng ông
qua câu ông viết “Kết thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích
để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học…”.Nên
chúng tôi xin mạn phép gởi đến ông một đoạn ký sau đây để ông đọc, mà thấy
được rằng cái thật luôn tỏa sáng và làm rung động lòng người, cũng tựa như
cái thật của ông đã làm cho chúng tôi mếm.
XUÔI NAM….
…Ðoàn tàu vẫn tiếp
tục lăn bánh, hướng về nam với rộn rã của tiếng bánh xe gõ nhịp trên đường
ray, tấm bảng cắm bên đường cho thấy ga kế tiếp là nhà ga Vinh. Thành phố
Vinh là quê ngoại của Mẹ tôi, thuở còn nhỏ Mẹ theo Ngoại nhiều lần về Vinh.
Nhận xét về quê của mẹ sau bao nhiêu năm nhìn lại, trong lần ra bắc thăm nuôi
tôi, Mẹ bùi ngùi nói không có gì thay đổi, tất cả vẫn như xưa, có chăng là
mọi vật cũ đi theo thời gian mà thôi. Còn tôi tuy biết Vinh là quê ngoại,
nhưng trong tôi, sau năm 75 trong chuyến lưu đày ra xứ bắc, tôi cũng đã qua
đây vào một đêm, nhưng tình cảm lần đầu tiên đó, không phải thứ tình cảm bồi
hồi nao nao, khi đi qua chốn mà mình biết đó là quê mẹ.
Ðêm đó qua đây lúc
trời đã tối, nhà ga tỉnh lẻ, tôi nhìn qua vách xe, trong ánh sáng vàng đèn
trứng vịt mù mờ, vài người bán hàng rong hỏi vọng vào trong xe, mời chúng tôi
mua bánh. Vài anh tù vô tình trả lời họ, và thế là sau khi họ biết chúng tôi
là tù miền nam, thì những viên đá nhặt từ đường ray ném tới tấp vào thùng xe,
kèm theo lời chửi thô tục, nghe đâu có vài anh tù ở xe phía trước vì tò mò,
thò đầu ra khỏi tấm bạt để nhìn cho rỏ, đã nhận ngay viên đá củ đậu vào đầu,
máu ra ướt áo. Cán bộ sau đó qua sự việc này để mà lên lớp chúng tôi, anh ta
nói do thấu triệt chính sách khoan hồng nhân đạo, mà đảng đã giáo dục, nên
nhân dân chỉ ném đá mà thôi, nếu không có đảng dạy, thì nhân dân đã cắt cổ
chúng tôi rồi(?).
Ðoàn xe từ từ vào
ga, kinh nghiệm của lần ra, nay lần về phải cẩn trọng, chúng tôi không muốn
ăn đá củ đậu. Chúng tôi giữ im lặng, không trả lời bất cứ tiếng mời mua hàng,
hay tiếng gõ vào thành tàu của người mua đồ cũ… Bánh mật… mía… chuối… ai mua
không?… Quần áo cũ… đồ cũ… ai bán không?… khung cảnh nhà ga ồn hẳn lên, với
lời rao của kẻ mua người bán, và đặc biệt là trong toa càng lặng tiếng, thì
người mua kẻ bán đứng dưới đường ray càng gào to.
Bổng quản chế áp tải
tù, chúng được lịnh cho phép nghỉ giải lao, chúng í ới gọi nhau vào nhà ga để
chè lá, thấy thế các người mua bán rong, vội ùa đến gần con tầu hơn, áp sát
miệng vào khe hở thành toa mà rao to. Một anh mua đồ cũ, vô tình rao đúng chỗ
của anh Khanh “mù” ngồi, anh Khanh xuất thân võ bị Ðàlạt và cận nặng, nên anh
em thêm chữ mù sau tên anh mà gọi cho vui. Máu tếu nổi lên anh Khanh hỏi: -Có
bộ đồ tù rách mua không?… Một bất ngờ và ngỡ ngàng đến với chúng tôi, thay vì
là câu chửi thề, hay chuyện gì đó như ném đá, để đáp lại câu nói của anh
Khanh như chúng tôi nghĩ, thì lại là tiếng reo vui thật to: -Tầu chở tù về
Nam bà con ơi… sau đó qua các khe hở của vách tầu… chuối, mía được nhét vào
cho chúng tôi, thật tôi không tin những gì tôi thấy. Bấy giờ buổi sáng trời
vừa nắng lên khoảng chín giờ sáng, đâu phải đêm đen đâu mà không thấy những
gì đang diễn ra trước mắt mình. Từ khe hở ngay chỗ tôi, tôi cũng được một cái
bánh mật, bánh còn ấm nóng, đây là bánh của người dân quê xứ Nghệ, làm từ bột
trộn với đường mật, gói lá chuối xong đem hấp hay luộc, đường mật mà trong
nam ta gọi là đường chảy hay đường thùng.
Ăn bánh mật hơi
giống như ăn bánh ếch trong nam, không ngon bằng bánh ếch, vì nó không có
nhân. Nhưng quí vị ạ, miếng bánh mà tôi đưa vào miệng , tôi ngậm nó mà nghe
ngọt tận tâm can, tôi không muốn nuốt vì sợ mất, mất những gì đang đến với
tôi trong suy nghĩ, trong cảm xúc. Tới đây chắc quí vị nghĩ là tôi càn rở ăn
nói lung tung chăng, không đâu, cảm xúc đang trào dâng trong tôi, thật ngọt
ngào và ấm áp lắm. Ngày nào cộng sản tuyên truyền, gọi chúng tôi là lính đánh
thuê, chúng tôi là dã thú, ăn gan uống máu người.
Ðưa chúng tôi ra Bắc, chúng
thật an tâm, chúng tôi mà trốn trại ư?, tai mắt nhân dân, sẽ giúp chúng bắt
chúng tôi lại dễ dàng, nhưng sau đó chúng biết chúng lầm, dưới ánh mặt trời
làm sao chúng che đậy mãi cái gian manh của chúng.
Và hôm nay theo thời
gian, đã xóa sạch những gì cộng sản bôi bẩn chúng tôi. Từ ngay trong lòng
người dân, người dân của phần đất Xô Viết Nghệ Tỉnh, mà cộng sản cai trị giáo
dục họ từ những năm đầu họ Hồ du nhập chủ thuyết cộng sản vào Việt nam. Nay
chúng tôi đã có chỗ, chổ chúng tôi là trong lòng những người dân nghèo bán
rong, người mua đồ cũ, họ chia sẻ cho chúng tôi những gì họ có, trong nhà ga
này, nhà ga Vinh, quê ngoại tôi, mà hơn năm năm về trước, họ ném vào chúng tôi
bằng những viên đá xanh, to bằng nắm tay, mà họ nhặt từ đường ray. Những gì
cộng sản tuyên truyền, nhồi sọ người dân quê Ngoại tôi, hay nói chung là cả
miền Bắc, nay đã bị cái thật đánh gục.
Chuyến xuôi nam này,
quả đúng với câu niềm vui nối tiếp niềm vui, hôm nay người dân ga Vinh họ
chuyền qua khe hở vách toa tàu, những lóng mía, những quả chuối lẻ, cùng bánh
mật, những thứ này là vốn liếng của kẻ nghèo, mua bán hàng rong trong sân ga.
Bằng chính rổ cơm của gia đình, họ đãi chúng tôi, những người tù miền nam, mà
chính quyền cộng sản gọi là Ngụy. Nguyên do đâu sự việc này xảy đến?. Lý do
gì mà tình cảm, của những người nghèo cùng khổ này, dành cho chúng tôi?.
Chúng tôi chưa từng gặp họ, họ ở lại Bắc, chúng tôi xuôi Nam, bao giờ biết
găp lại?, rổ hàng của họ ít ỏi lắm, mỗi người chỉ dăm quả chuối, dăm lọn mía,
ít bánh mật. Cái gì đã thôi thúc, khiến họ cho đi?, phải là một cái gì đó
mãnh liệt lắm. Gần sáu năm trong nhà tù cộng sản tại miền bắc, trong khoảng
thời gian này tôi đã nhìn thấy quá nhiều biến đổi từ mọi phía, mọi lãnh vực,
từ người dân đến cán binh, cán bộ cộng sản. Những sắt máu giáo điều không còn
giá trị đối với mọi người, những son những phấn tô lục chuốc hồng, cho chế độ
XHCN đã lã chã rơi, lộ nguyên trạng những gì bọn chúng cố dấu. Một câu nói
trong Kinh Thánh: “Những gì của César hãy trả lại cho César” thật đúng cho cả
hai bên, cho chúng tôi và cho cả cộng sản.
Bọn cán bộ áp tải đã
trở lại, con tàu kéo còi từ từ chuyển bánh, qua khe hở tôi dõi nhìn, những
người mua bán hàng rong trong sân ga, cho đến mãi khi không còn nhìn thấy cả
họ lẫn nhà ga. Trời vào trưa nắng thật đẹp, mây có che thì chỉ một lúc nào
thôi, sau đó trời vẫn lại rực rỡ như xưa….
|
VIỆT
NHÂN
--
--
HỘI ÁI HỮU TÙ NHÂN
CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM
CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM
--
--
HỘI ÁI HỮU TÙ NHÂN
CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM
CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM
--
--
HỘI ÁI HỮU TÙ NHÂN
CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM
CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks