Cho ngày Ba mươi tháng Tư: Nỗi
đau và Tình yêu
Nguyễn Thị Từ Huy, viết từ Paris
2015-04-29
2015-04-29
- In
trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Một phụ nữ đi ngang những áp phích tuyên truyền cho ngày 30 tháng
4 được trưng bày tại Saigon hôm 11/4/2015.
Nếu một cộng đồng có một ngày mà trong ngày đó một nửa số người
cảm thấy hạnh phúc và một nửa số người cảm thấy đau khổ thì ta nên đứng về nửa
nào?
Những người có hiểu biết và lương tri sẽ chọn đứng về phía nỗi
đau.
Tôi chưa bao giờ dám nói gì về ngày ba mươi tháng tư. Bởi vì thực
tế quá phức tạp và những gì tôi biết là quá ít ỏi và rất có thể là không chính
xác so với sự thật của cuộc chiến, một cuộc chiến mà chỉ tên gọi của nó thôi
cũng đã có thể gây ra cả một cuộc chiến khác.
Nhưng hôm nay, tình cờ tôi đọc một tập sách của Václav Havel có
tựa đề : « Tình yêu và sự
thật cần phải chiến thắng hận thù và dối trá ». Cuốn sách tập hợp một số
diễn từ của Havel trong hai năm 1989-1990, trong thời gian ông đứng ra tranh cử
và được bầu làm tổng thống của nước Tiệp Khắc, một nước Tiệp Khắc dân chủ ở
thời điểm vừa thoát khỏi đêm trường cộng sản chủ nghĩa.
Câu nói trên đây của Havel và tư tưởng của ông khiến tôi có đủ can
đảm để muốn viết một vài lời vào dịp này, vào dịp bốn mươi năm kết thúc cuộc
nội chiến hay cuộc chiến tranh chống Mỹ giành độc lập hay cuộc chiến tranh giữa
hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Phân định bản chất của cuộc chiến
là công việc khó khăn của những người có chuyên môn về khoa học lịch sử, nó đòi
hỏi sử gia phải có cả bản lĩnh khoa học lẫn sự can đảm của người trí thức. Việc
phân định ấy không thuộc chuyên môn của tôi và tôi cũng không định làm ở đây.
Tôi chỉ muốn nói rằng tôi ý thức được tính chất phức tạp của cuộc chiến.
Độc giả đừng quan tâm tôi sinh ra lớn lên ở đâu hay được dạy dỗ
như thế nào. Dù tôi sinh ra và lớn lên ở đâu, dù tôi nhìn lịch sử ra sao, dù tôi
đánh giá cuộc chiến như thế nào, thì tôi cũng lựa chọn đứng về phía những người
mang nỗi đau đã bốn mươi năm nay chưa được hóa giải. Những nỗi đau cũ vẫn còn
nguyên và những nỗi đau mới. Những người mang nỗi đau có thể là người miền Nam,
có thể là người miền Trung, cũng có thể là người miền Bắc.
Nhiều người cho rằng, người Mỹ rút khỏi Việt Nam đã bốn mươi năm, nhưng
từ đó đến nay cuộc chiến giữa những người Việt với nhau vẫn chưa kết thúc.
Những người này không phải là không có lý của họ. Cái lý đó không chỉ được
chứng minh bởi hiện tượng di tản vẫn tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay, mà còn
được chứng minh bởi các vụ bắt bớ những người bất đồng với chính quyền không
ngừng tăng lên trong những năm vừa qua.
Vì thế hòa hợp hòa giải được đặt ra như một vấn đề quan trọng đối
với dân tộc.
Có những người nghĩ rằng chỉ khi nào chủ nghĩa cộng sản sụp đổ ở
Việt Nam lúc đó mới có hòa hợp hòa giải dân tộc. Những người ấy chắc chắn có lý
riêng của mình.
Tuy nhiên, liệu ta có thể nghĩ theo một cách khác : chỉ khi
nào những người dân hòa hợp hòa giải với nhau, kết hợp lại với nhau để tạo nên sức
mạnh chung, thì lúc đó chủ nghĩa cộng sản mới có thể bị sụp đổ ở Việt Nam ?
Tôi là một trong những người nghĩ theo hướng này, và cho rằng
tình trạng nghi kỵ, chia rẽ, ly tán hiện nay của người Việt dẫn tới sự suy yếu
nội lực của dân tộc, và trở thành điều kiện tốt cho chủ nghĩa cộng sản tiếp tục
duy trì và phát triển.
Có những người nghĩ rằng chỉ khi nào chính quyền tiến hành các
động thái cần thiết thì mới có thể tiến hành hòa hợp hòa giải dân tộc, và dĩ nhiên
họ có lý của họ, đồng thời những gợi ý, những đề xuất mà họ đưa ra đều thuyết
phục.
Tuy nhiên, người ta không thể nào tiến hành hòa hợp hòa giải dân
tộc một khi còn lấy nỗi đau của người khác làm niềm vui của mình, nhất là khi
họ lấy nỗi đau của anh em trong nhà làm niềm tự hào của họ.
Trước niềm vui mà chính quyền đang lộ liễu phô trương (như đã
không ngừng phô trương suốt từ bốn mươi năm nay với một sự kiêu ngạo thái quá),
chúng ta không thể hy vọng rằng bộ máy chính quyền đương nhiệm có thể thực hiện
việc hòa giải hòa hợp dân tộc.
Vì vậy, tôi nghĩ rằng chỉ còn hy vọng vào chính chúng ta, những
người dân bình thường, những thường dân trong xã hội, của cả hai miền. Cần hy vọng
rằng những thường dân chúng ta có thể vượt lên trên (chứ không phải là xóa đi
hay quên đi) vết thương lòng của chính mình, để có thể hiểu nhau và từ đó mà
tìm lại niềm tin đối với nhau, để có thể kết hợp lại với nhau mà tạo thành sức
mạnh chung.
Làm thế nào để có thể vượt lên vết thương lòng của mỗi chúng ta ?
Tôi sẽ nói hai ý, đó chính là hai ý tưởng mà Havel đã đề cập đến : tình
yêu và sự thật. Tôi đảo ngược trật tự hai cụm từ này của Havel để nói về vấn đề
sự thật trước.
Sự thật
Có lẽ chúng ta đều đồng ý với Havel rằng chỉ có sự thật mới có thể
chiến thắng sự dối trá. Chúng ta cũng biết rằng bộ máy tuyên truyền khổng lồ
của chính quyền độc tài, độc đảng chỉ tuyên truyền những gì có lợi cho chính
chính quyền và cho đảng, và như thế tất yếu họ phải tạo ra những dối trá, hoặc
tránh không đề cập đến những sự thật bất lợi cho họ.
Các sử gia là những người lẽ ra phải giúp dân chúng nhận thức sự
thật lịch sử. Nhưng chúng ta đều biết, trong chế độ toàn trị, sử gia (và không
riêng gì sử gia) bị sử dụng như một công cụ phục vụ cho bộ máy tuyên truyền. Vì
thế chính họ, chứ không phải ai khác, đã biến lịch sử thành những chuyện kể có
lợi cho chính quyền và cho đảng.
Vậy thì, câu hỏi đặt ra là: những ai có thể và phải làm gì để có
thể trả lại sự thật cho lịch sử ?
Tôi không có câu trả lời cụ thể. Có lẽ nhìn một cách khái quát thì
đó là công việc của những người có trách nhiệm và lương tri, nghĩa là những ai
cảm thấy bị thôi thúc bởi trách nhiệm và lương tâm thì cần phải lên tiếng.
Ở đây, tôi muốn nói tới một điểm, một khó khăn thì đúng hơn :
thế nào là sự thật?
Có lẽ chúng ta ai cũng muốn mình nói lên tiếng nói của sự thật, ai
cũng muốn mình là đại diện cho sự thật. Nhưng khó khăn là ở chỗ : chúng ta
chỉ có thể xuất phát từ điểm nhìn của riêng mình, trong khi thực tế là :
nếu ta xuất phát từ điểm nhìn riêng mình thì người khác cũng sẽ xuất phát từ
điểm nhìn riêng của họ. Nghĩa là 90 triệu người sẽ có 90 triệu điểm nhìn khác
nhau, tùy thuộc vào nghiệm sinh và hiểu biết của mỗi người. Nghĩa là sự thật
của mỗi người chúng ta chỉ là một trong muôn vàn sự thật của muôn người. Điều
này cũng có nghĩa : để có thể tiếp cận với sự thật, chúng ta cần phải đặt
sự thật của mình trong quy chiếu với sự thật của muôn người. Nếu ta khăng khăng
rằng chỉ có sự thật của ta mới là sự thật, thì lúc đó có thể ta sẽ ở rất xa sự
thật.
Toàn bộ đoạn văn trên của tôi (mà độc giả có thể cảm thấy nó rất
lằng nhằng) nhằm nói lên điều này : chúng ta rất có thể tự đẩy mình vào
tình trạng bị giam cầm trong chính cái điều mà ta tin là sự thật. Lúc đó, dù rằng
đúng là ta nắm giữ sự thật ta vẫn sẽ đánh mất sự sáng suốt, cùng với việc đánh
mất sự sáng suốt, ta đánh mất khả năng kết hợp với người khác, và như thế đánh
mất luôn sức mạnh của mình.
Bao giờ ta thừa nhận rằng trên đời này không chỉ có một sự thật
duy nhất của một mình ta, trái lại, có rất nhiều sự thật khác nhau, lúc đó ta
mới có thể tìm cách để nhìn sự thật như nó vốn tồn tại, trong toàn bộ tính chất
phức tạp và khó nắm bắt của nó.
Bao giờ trong đầu óc của mình, ta chừa chỗ cho những suy nghĩ, cảm
xúc, nhận thức của người khác, lúc đó ta mới mong có thể thoát ra khỏi vị thế
hạn hẹp của mình để nhìn thực tế từ những góc độ khác, lúc đó ta mới mong có
thể giải thoát được chính mình, để ra khỏi không gian riêng của mình và đi đến
với người khác, mở rộng trái tim và chìa bàn tay của ta cho họ.
Tình yêu và nỗi đau
Có lẽ chúng ta sẽ đồng ý với Havel rằng chỉ có tình yêu mới chiến
thắng được thù hận.
Bao giờ chúng ta suy nghĩ và hành động theo hướng tích cực, không
còn bị giam cầm trong thù hận, trong ghét bỏ, nghĩa là không còn bị ràng buộc
trong những xúc cảm tiêu cực nữa, thì lúc đó hành động của chúng ta mới có thể
có hiệu quả như chúng ta mong muốn.
Bằng thù hận, chúng ta không thể thắng được những kẻ đang nhân
danh chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội để « làm nghèo đất nước, làm
khổ nhân dân » (cảm ơn nghệ sĩ Kim Chi về cụm từ này). Chúng ta chỉ có thể
thắng họ bằng « tình yêu và sự thật » (chữ của Havel), và bằng trí
tuệ của chúng ta. Đất nước của chúng ta đang bị tàn phá bởi lòng tham và sự mù
quáng của lãnh đạo.
Chúng ta chỉ có thể chống lại lòng tham và sự mù quáng của họ bằng
chính tình yêu và sự sáng suốt của chúng ta. Như một nhóm người Hà Nội ít ỏi
đang chống lại lòng tham và sự mù quáng của những kẻ tàn phá cây bằng chính
tình yêu cây và tình yêu môi trường sống của họ.
Hận thù không giúp chúng ta trở nên sáng suốt, trái lại, hận thù
sẽ đẩy chúng ta vào tình trạng mù quáng. Chúng ta có thể nào lấy sự mù quáng để
chống lại sự mù quáng ?
Chúng ta chỉ có thể thuyết phục cùng với bằng chứng và lý lẽ, lý
lẽ của trí tuệ và lý lẽ của tình yêu. Hơn nữa, chúng ta cũng không thể giải
thoát khỏi nỗi đau của mình, nếu chỉ bằng cách dùng những lời lẽ thô bạo và cay
nghiệt. Những lời lẽ ấy có thể giúp giải tỏa cho tâm lý của ta trong chốc lát,
trong một giây phút ngắn ngủi khi ta nói ra hoặc viết ra những lời đó. Nhưng
khi giây phút đó qua đi, ta sẽ phải tiếp tục đối diện với một thực tế vẫn còn y
nguyên trước mắt, thậm chí thực tế ấy ngày càng tồi tệ hơn, ngày càng tuyệt
vọng hơn, bởi thực tế ấy được tạo ra từ lòng tham và sự mù quáng của những
người đang nắm các vị trí lãnh đạo.
Chúng ta lựa chọn điều gì giữa hai mong muốn : mong muốn giải
thoát khỏi nỗi đau đớn của cá nhân mình, và mong muốn toàn bộ đất nước được giải
thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ cộng sản, để có thể phát triển một cách lành
mạnh, đảm bảo công bằng và nhân quyền cho tất cả mọi người ?
Liệu chúng ta có thể để cho các dân tộc khác nhận thấy vẻ đẹp nhân
văn của tình yêu và sự hy sinh trong những nỗ lực bền bỉ, không mệt mỏi của
chúng ta nhằm chống lại hệ thống toàn trị ? Liệu chúng ta có thể để lại
cho nhân loại những kinh nghiệm quý giá riêng của dân tộc chúng ta, những kinh
nghiệm nhân bản dù chúng ta phải trả giá đắt, trong nỗ lực bảo vệ quyền con
người và bảo vệ các giá trị người phổ quát ?
Liệu sẽ có một ngày chúng ta có thể nói về chính chúng ta như
Václav Havel từng nói về dân tộc Tiệp Khắc: « Khắp nơi trên thế giới,
người ta ngạc nhiên tự hỏi ở đâu ra cái sức mạnh to lớn của các công dân Tiệp Khắc,
những người vốn cho tới lúc này vẫn phục tùng, chịu tủi nhục, hoài nghi và
tưởng chừng như chẳng còn tin gì nữa, nhưng trong vài tuần lễ, một cách chính
trực và hòa bình họ đã thành công trong việc tự giải thoát khỏi hệ thống toàn
trị. » (L'amour et la vérité
doivent triompher de la haine et du mensonge, Václav Havel, Editions de
l'Aube, tr.28)
Nếu ngày 30/4 còn có thể cho chúng ta một hy vọng, thì tôi sẽ nói :
chúng ta có thể làm được điều đó nếu mỗi người chúng ta có thể vượt lên trên
nỗi đau riêng của mình.
Tôi nói điều này trong khi hoàn toàn ý thức được rằng nỗi đau của
mỗi người cần được tôn trọng, cần được hiểu và cần được chia sẻ. Và tôi cũng
hiểu rằng khi chúng ta vượt khỏi nỗi đau của mình để nhìn thấy nỗi đau của
người khác thì lúc đó nỗi đau của chúng ta sẽ mang một chiều kích khác.
Chúng ta có nên thử gộp nỗi đau của cả hai miền lại với nhau, biết
đâu chúng ta sẽ đỡ đau hơn, và biết đâu chừng ta có thể tin nhau ?
Có thể chính là trong ánh sáng của nỗi đau, chính là trong khi
người này nhìn thấy nỗi đau của người kia, mà chúng ta có thể xóa bỏ thù hận, xóa
bỏ bức tường dựng lên giữa hai chiến tuyến; cái bức tường vô hình vẫn tồn tại
trong lòng mỗi người từ bốn mươi năm nay; cái bức tường khiến chúng ta người
này không thể tin ở người kia, khiến chúng ta nghi kỵ và chia rẽ; cái bức tường
khiến cho cờ đỏ và cờ vàng thành ra những vật trở ngại, ngăn cản chúng ta xích
lại gần nhau, ngăn cản chúng ta cùng nhìn về tương lai và cùng tạo dựng một
tương lai chung.
Những nỗi đau cộng hưởng với nhau có thể tạo thành sức mạnh, và
đến lượt nó, sức mạnh này có thể hóa giải nỗi đau, và có thể biến nỗi đau thành
tình yêu…
Paris, 29/4/2015
*Nội
dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks