Kính chuyển để tùy nghi.
On Sunday, April 30, 2017 6:45 PM, "Truc Chi >
wrote:
QUỐC HẬN, HẬN AI, HẬN
CÁI GÌ, HẬN ĐỂ LÀM GÌ?
Thiện Ý
Thấm thoát mà đã 42 năm (1975-2017), cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam đã
chấm dứt nhanh gọn, phi lý và bất ngờ cho cả hai bên nội thù tham chiến, sau 21
năm diễn ra khốc liệt (1954-1975). Thế nhưng đó mới chỉ là sự kết thúc một giai
đoạn của cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam kéo dài nhiều thập
niên qua. Cuộc nội chiến ấy vẫn tiếp diễn từ sau ngày 30-4-1975 đến nay và vẫn
đang tiếp tục, là vì cuộc chiến ấy vẫn chưa phân thắng bại. Và vì vậy hàng năm
cứ đến ngày 30-4, bên Việt cộng thì ăn mừng như một chiến thắng, còn bên Việt
quốc thì tưởng niệm như một “ngày quốc hận” và coi cả Tháng 4 là
“Tháng Tư Đen”.Vì sao ?
I/- Ý NGHĨA TỪ
NGỮ “NGÀY QUỐC HẬN” VÀ “THÁNG TƯ ĐEN”.
Chúng tôi không biết cá
nhân hay đoàn thể Việt quốc nào ở hải ngoại lần đầu tiên đã dùng từ ngữ “Quốc
hận” để gọi ngày 30-4-1975 và “Tháng Tư Đen” để chỉ tháng 4-1975 .
Nhưng điều đó không quan trọng bằng ý nghĩa của từ ngữ này đã nói lên được điều
gì?
Theo suy luận của chúng
tôi,thì cụm từ “Ngày Quốc hận 30-4” diễn tả nỗi đau uất hận của những
người Việt quốc gia từng sống ở Miền Nam Việt Nam trước 30-4-1975, dưới chế độ
dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa.Vì ngày ấy đánh dấu chế độ tự do dân chủ non
trẻ ở Miền Nam Việt Nam bị cưỡng tử, khiến cho gần 20 triệu dân quân Miền Nam
Việt Nam lúc đó mất hẳn vùng đất tự do, rơi vào ách thống trị chế độ độc tài
toàn trị Việt cộng.
Chế độ Việt Nam Cộng
Hòa bị cưỡng tử, có nghĩa là đã bị bắt buộc phải “chết bất đắc kỳ tử”, khi
mà chế độ ấy cơ thể còn khỏe mạnh, không thể chết được hay ít ra chưa thể chết
được, còn có thể cứu vãn được tình hình để hồi phục và tồn tại.Bị cưỡng tử vì
chính quyền, quân, dân của chế độ có chính nghĩa ấy vẫn còn thừa khả năng chiến
đấu để tự tồn, trước một đối phương Việt cộng phi chính nghĩa lúc đó đang ở thế
cùng lực kiệt, thực sự không có khả năng để chiến thắng như vậy.
Vậy mà, đối phương ấy
đã được các thế lực khuynh đảo quốc tế sắp xếp cho đóng vai “Bên thắng cuộc”,
trong một cuộc chiến tranh Quốc-Cộng kéo dài 21 năm (1954-1975), chỉ vì nhu cầu
thay đổi thế chiến lược quốc tế mới của các cường quốc cực.Thật là điều bất
công, phi lý khi họ đã cho phe “Tà cộng” thắng “Chính quốc”. Quốc
tế và đồng minh Hoa Kỳ đã làm ngơ bỏ mặc Việt Nam Cộng Hòa, trước hành động xâm
lăng của Việt cộng, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh
lập lại hòa bình choViệt Nam ngày 27-1-1973, dù có những cam kết đa phương và
bảo đảm quốc tế.
Như thế bảo sao người
Việt quốc gia ở Miền Nam Việt Nam không uất hận. Chính vì vậy ngày 30-4-1975 đã
là “Ngày Quốc Hận” và Tháng Tứ năm 1975 đã là “Tháng Tư Đen” đối
với người Việt quốc gia ở hải ngoại cũng như trong nước. Bởi vì ngày ấy, tháng
ấy đã diễn ra những sự kiện đen tối cho Việt quốc và là ngày tháng khởi điểm
đưa Việt Nam vào một giai đoạn “Đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam
thời cận đại”.
Vậy thì:
II/- VIỆT QUỐC HẬN AI, HẬN CÁI GÌ VÀ HẬN ĐỂ
LÀM GÌ?
1.-Trước hết Việt quốc hận ai và hận cái gì?
Về mặt khách quan, Việt
quốc hận đối phương Việt cộng và hận cả người bạn đồng minh Hoa Kỳ năm xưa, nay
lại đang là đối tác làm ăn với cựu thù Việt cộng.
Về mặt chủ quan, người
Việt quốc gia hận những người lãnh đạo hàng đầu về chính trị cũng như quân sự
có trách nhiệm trước sự sụp đổ nhanh chóng chế độ Việt Nam Cộng Hòa và có thể
hận với chính mình nữa.
Thật vậy, người Việt
quốc gia ở hải ngoại 42 năm qua và có thể cho đến lúc chết vẫn mang trong lòng
mối hận người, hận mình, với tính chất và cường độ hận khác nhau.
Mối hận hàng đầu là đối
với đối phương Việt cộng.
Với đối tượng này, tính chất và cường độ mối hận phải được diễn đạt bằng ngôn
từ căm hận hay thù hận. Căm hận hay thù hận Việt cộng là điều tất nhiên, vì là
đối phương, kẻ thù chính trong một cuộc chiến phi nghĩa do họ phát động, tiến
hành đã gây nhiều hận thù trong chiến tranh. Và sau cuộc chiến tiếp tục gây
nhiều thù hận vì đã xích hóa nhân dân cả nước dưới chế độ độc tài cộng sản hà
khắc, tàn bạo, phi nhân.Trong chế độ này, Việt cộng đã sử dụng “Chuyên chính
vô sản” cướp đoạt mọi tài sản của nhân dân Miền Nam (bị miệt thị là “Dân
ngụy”), đầy ải, lăng nhục hàng trăm ngàn quân, dân, cán chính chế độ Việt
Nam Cộng Hòa trong các trại tù “Tập trung cải tạo”. Trong khi cha, mẹ,
vợ con họ ở nhà bị Việt cộng phân biệt đối xử như những công dân hạng hai, bị
bạc đãi, xua đuổi khỏi các thành thị hay các vùng đất mầu mỡ, đẩy đến các vùng
kinh tế mới nơi đèo heo hút gió, đồi núi khô cằn hay bùn lầy nước đọng; phải bỏ
lại tất cả nhà cửa, đất đai tài sản và các tiện nghi khác nơi các thành thị hay
nông thôn, nhường lại tất cả cho giai cấp mới, giai cấp cán bộ đảng viên cộng
sản thụ hưởng.
Không căm hận và thù
hận sao được, khi khởi đi từ Tháng Tư Đen 1975, Việt cộng đã đưa cả đất nước và
dân tộc vào một thời kỳ bi thảm và đen tối nhất trong lịch sử cận đại
Việt Nam.Bởi vì từ đó, Việt cộng đã phá nát tài sản quốc gia, của nổi cũng như
của chìm, nhượng đất, nhượng biển cho ngoại bang, làm băng hoại toàn diện đất
nước về vật chất cũng như tinh thần. Những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc và nền đạo đức luân lý xã hội cổ truyền đã bị đảo lộn, phá hủy, thay vào đó
cái gọi là “Nền đạo đức cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa” vô
luân, vô thần. Mọi tôn giáo, tín ngưỡng của người dân đều bị bài bác và tìm
cách tiêu diệt qua các hành động chống phá các giáo hội và đàn áp, khủng bố các
chức sắc giáo hội và tín đồ dưới nhiều hình thức tinh vi, thâm độc.Mọi
tầng lớp nhân dân bị bác đoạt các dân quyền và nhân quyền cơ bản. Đời sống của
quảng đại quần chúng nhân dân bị đói khổ lầm than và sự cách biệt giầu nghèo
giữa thiểu số giai cấp thống trị cán bộ đảng viên cộng sản với tuyệt đại đa số
nhân dân ngày một sâu sắc. Hệ quả là sau 42 năm cầm quyền, Việt cộng đã làm tan
hoang đất nước,lòng người ly tán, hận thù và đói nghèo, di hại toàn diện và lâu
dài cho nhiều thế hệ Việt Nam tương lai phải gánh chịu.
Hận kẻ nội thù Việt
cộng là như thế, còn đối với người bạn Hoa Kỳ đồng minh năm xưa thì sao, Việt
quốc hận gì?
Tất nhiên là có hận,
nhưng mối hận có khác về tính chất và cường độ được diễn đạt bằng ngôn từ “Oán
hận” hay “Uất hận”. Nó tương tự như mối hận của một người tình bị
phụ bạc sau những năm chăn gối mặn nồng tưởng như chung thủy. Vì sao hận và hận
cái gì?
Câu trả lời chi tiết
thì đã được nhiều người đưa ra,còn câu trả lời tổng quát thì đã được Tướng
Nguyễn Văn Thiệu, vị Tổng Thống dân cử cuối cùng nền Đệ nhị chế độ Việt Nam
Cộng Hòa đưa ra trong bài diễn văn từ nhiệm ngày 21-4-1975 trước khi kịp “lưu vong”,
rằng “Họ đã bỏ rơi chúng tôi.Họ bán rẻ chúng tôi. Họ đâm sau lưng chúng
tôi. Thật vậy, họ đã phản bội chúng tôi. Một nước đồng minh lớn đã không làm
tròn lời hứa với một nước đồng minh nhỏ…”. Đây là những lời tố cáo muộn
màng của người lãnh đạo cao nhất chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sau 9 năm cầm
quyền, chẳng thay đổi được gì, chỉ bầy tỏ nỗi uất hận của cá nhân và cũng là
mối uất hận chung của quân, dân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa trước sự “phản
bội” của Hoa Kỳ.
Sự bầy tỏ uất hận trên
đây của cố Tổng Thống Thiệu có tính đổ lỗi cho Hoa Kỳ,song vẫn không tránh khỏi
mối hận thứ ba của người Việt quốc gia đối với cá nhân Ông Thiệu và tập đoàn
lãnh đạo chính trị cũng như quân sự chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Vì chính họ đã là một
trong những nguyên nhân chủ yếu làm sụp đổ chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày
30-4-1975, đã tạo tiền đề cho ngoại bang để cho Việt cộng đóng vai “Bên thắng
cuộc” trong cuộc chiến, dù chỉ là chiến thắng giả tạo (Chiến thắng biểu kiến
như chúng tôi phân tích trình bầy trong “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế
Mới”) song thực tế đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di
hại lâu dài cho nhân dân, dân tộc và đất nước Việt Nam, như mọi người đã biết.
Oán hận và uất hận, vì với trách nhiệm lãnh đạo, họ đã để
mất Miền Nam Việt Nam vào tay Việt cộng một cách dễ dàng, chóng vánh
và hầu hết trong số họ đã kịp cao bay xa chậy di tản ra hải ngoại trước khi chế
đô Việt Nam Cộng Hòa bị cưỡng tử,để lại sau lưng hàng trăm ngàn quân, dân, cán
chính cho đối phương Việt cộng hành hạ, xỉ nhục trong các trại tù “Cải tạo”
nhiều năm sau đó. Nhất là đã đẩy gần 20 triệu nhân dân Miền Nam Tự Do rơi vào
ách thống trị cộng sản độc tài và độc ác, cùng chia khổ và bị xích hóa với nhân
dân Miền Bắc trong gông cùm của cái gọi là “Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt
Nam” kéo dài cho đến hôm nay đã 42 năm qua.
Trên đây là những mối
“Hận người”, còn với “chính mình” thì sao?
Có lẽ người Việt
quốc gia cũng phải xét mình để tự “hận mình”, song với tính chất và
cường độ có khác, được diễn tả bằng từ “Ân hận”. Tùy vị trí trong xã hội
Miền Nam, trong tương quan với cuộc chiến để có “mối ân hận khác nhau”. Ân
hận rằng nếu như ngày ấy, ở vị trí ấy mình nên làm thế này, không nên làm thế
kia thì có thể đã góp phần xây dựng và củng cố chế độ, chính quyền, quân đội,
xã hội ở Miền Nam ngày một vững mạnh, để không thể xẩy ra “Ngày Quốc Hận
30-4-1975”, ngày cuối cùng của một “Tháng Tư Đen”?
Chặng hạn là người chỉ
huy lãnh đạo các cấp chính quyền, quân đội “ân hận” vì đã không quan tâm
đúng mức và dồn hết tâm lực cho cuộc chiến chống cộng bảo vệ chế độ dân chủ
Việt Nam Cộng Hòa và phần đất Miền Nam tự do. “Ân hận” vì đã lợi dụng vị
trí lãnh đạo, chức quyền mua quan bán chức, nuôi dưỡng linh ma lính kiểng để
thủ lợi, tham nhũng, đục khoét của công để làm giầu bất chính; tập trung vào
các hoạt động hưởng thụ, ăn chơi trong lối sống tương phản với cuộc chiến đấu
gian nguy của những người lính tham chiến trực tiếp với Việt cộng và đời sống
thiếu thốn của gia đình họ ?- Ân hận vì đã cấu kết bè phái để tranh danh đoạt
lợi, ám hại những người công chính, coi lợi ích cá nhân và phe nhóm cao hơn lợi
ích chống cộng, khoán trắng việc chống cộng cho Hoa Kỳ và coi việc chống cộng
thắng bại là trách nhiệm của Hoa Kỳ,do Hoa Kỳ hoạch định, tài trợ mọi mặt?
Chẳng hạn là những
thương gia ân hận vì đã chậy theo lợi nhuận, móc ngoặc, mua chuộc hủ hóa các
viên chức chính quyền quân sự cũng như dân sự, môi giới buôn bán vũ khí và cung
cấp lương thực cho Việt cộng….?
Chẳng hạn, là bậc cha
mẹ đã ân hận vì đã tìm cách chậy chọt cho con làm lính ma, lính kiển, để được về
phục vụ hậu phương xa chiến trường lửa đạn. Là thanh niên ân hận vì đã tìm cách
chốn lính khi đến tuổi thi hành nghĩa vụ trai thời loạn.
Chẳng hạn là những
người gốc Việt cộng, hay ngưỡng vọng Việt cộng, hay “Nằm vùng”, “ăn
cơm quốc gia thờ ma cộng sản” sớm muộn nay đã “phản tỉnh” thì ân hận
vì những nhận thức, hành động sai lầm trong quá khứ làm lợi cho Việt cộng, hại
cho Quốc gia ngày ấy….và di hại nghiệm trọng, toàn diện, lâu dài cho đất nước, dân
tộc cho đến hôm nay, sau 42 năm Việt cộng thống trị cả nước. và cả sau này chưa
biết bao giờ mới khắc phục được.
2.- Đến đây, Việt quốc mang mối “Hận” để làm gì?
Theo suy luận của chúng
tôi, đối với Việt cộng, Việt quốc “căm hận” không phải nuôi chí phục thù
rửa hận theo kiểu “Răng đền răng, mắt đền mắt” thời Trung Cổ ở Tây
Phương; cũng không phải tìm cách diệt đến tên Việt cộng cuối cùng, vì không phù
hợp với bản chất nhân đạo và lý tưởng chiến đấu của Việt quốc (mà dù ai đó
vì“căm thù Việt cộng” có muốn thế cũng không thể làm được).
Nhưng điều Việt quốc có
thể, đã và đang làm và chắc chắn làm được để “phục thù” Việt cộng là
kiên trì đấu tranh vương đạo như đã kiên trì đấu tranh 42 năm qua nhằm tiêu
diệt toàn bộ chế độ độc tài toàn trị Việt cộng để thiết lập chế độ dân
chủ pháp trị đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Thắng lợi sau cùng này của cuộc
đấu tranh sẽ khẳng định sự tất thắng của chính nghĩa quốc gia và như thế
là Việt quốc đã rửa được mối “Quốc hận 30-4-1975” ?
Đối với người bạn đồng
minh Hoa Kỳ năm xưa, nay lại là “Đối
tác” làm ăn với Việt cộng, song cũng vẫn đang là đồng minh với Việt quốc về
mục tiêu hiện thực lý tưởng tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam, mối “oán
hận” chỉ nên coi là bài học kinh nghiệm để có cách ứng xử thận trọng và
khôn ngoan hơn trong tương lai sao cho có lợi cho sự nghiệp chống cộng vì tự do
dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam. Đó là bài học kinh nghiệm về tinh thần độc lập tự
chủ, sức mạnh đoàn kết và luôn chủ động trong tổ chức, chiến lược, chiến thuật
đấu tranh chính trị, ngoại giao, truyền thông, để huy động được sức mạnh nội
lực (trong nước) cũng như ngoại lực (quốc tế), nhưng luôn dựa
trên sức mình là chính để chống cộng và thắng cộng.
Đối với những người
lãnh đạo có trách nhiệm đã
để chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, mối hận của Việt quốc đến nay sau 42 năm
dường như đã được cảm thông và tha thứ phần nào đối với những người còn sống
hay đã khuất. Nghĩ lại, trong bối cảnh Miền Nam vào những năm tháng cuối cùng
trước khi rơi vào tay Việt cộng, Hoa kỳ đã có ý định bỏ cuộc và cố tình tạo
tiền đề thuận lợi cho Việt cộng cưỡng tử Việt Nam Cộng Hòa càng nhanh càng tốt,
để khỏi phải dính líu thêm nữa, rút ngắn thời gian đi vào thế chiến lược quốc tế
mới, thì cá nhân cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tập đoàn lãnh đạo chính trị
cũng như quân sự chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó cũng chẳng làm được gì
hơn là trốn chậy để bảo toàn tính mạng, trừ khi họ dám chọn cái chết hào hùng
để trở thành anh hùng bất tử như các vị Tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê
Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ... Tiếc rằng phần đông họ đã không chọn
con đường như vậy, mà đã chọn con đường thà “Sống nhục hơn chết vinh”.Thôi
thì công tội của họ xin hãy đề lịch sử mai này phán định công minh.
Riêng mối hận mình, mỗi người trong bên Việt quốc hãy tự xét mình
xem có điều gì “ân hận” về những gì nên làm đã không làm hay không nên
làm mà đã làm có lợi hay có hại cho Việt quốc, có lợi cho Việt cộng trong cuộc
chiến tranh Quốc- Cộng hôm qua?- “Ân hận” để tự rút ra bài học kinh
nghiệm vận dụng vào cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam hôm
nay, để chỉ nên làm những gì có lợi , tránh làm những gì có hại cho cho sự
nghiệp chống cộng vì tự do dân chủ cho đất nước. Có như vậy Việt quốc mới rửa
được “Quốc hận 30-4-1975”, ngày cuối cùng của “Tháng Tư Đen”,để
đưa cất những ngày, tháng, năm này đi vào những trang lịch sử đen tối
nhất của dân tộc, đất nước, mở ra những trang sử mới tươi sáng cho Tổ Quốc Việt
Nam.
Thiện Ý
Houston, 30 tháng 4 năm 2016.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks