Sau
30 tháng 4 năm 1975, trận gió giáo dục mang tính chiến đấu của miền Bắc đã xô
dạt những thư viện giáo dục nhân bản miền Nam. Và hậu quả của nó là suốt
42 năm, nền giáo dục càng lúc càng bệ rạc.
Một nền giáo dục tốt phải là nền giáo dục có khả năng tác động, làm giàu nhân tính xã hội....
Giáo dục trước và sau năm 1975
Nhóm phóng
viên tường trình từ VN
2017-04-28
2017-04-28
Hai nữ sinh trên đường
phố Sài Gòn.
Giáo
dục các thế hệ trở thành những con người có đầy đủ lòng yêu thương và nhân cách
để bước vào đời, hòa điệu cùng xã hội hay đào tạo ra những cỗ máy biết đi, đứng,
nằm ngồi và biết đào ra tiền nhưng lại nhanh chóng làm nghèo đất nước? Đó là
câu hỏi chung của mọi nền giáo dục. Vấn đề giáo dục tại Việt Nam trước và sau
30 tháng 4 năm 1975 là một câu chuyện dài. Trong giới hạn của tường trình này,
chúng tôi chỉ xin phép đề cập đến những lát cắt thông qua các nhận định của những
người từng có kinh nghiệm trong lĩnh vực này, trong phép so sánh của họ về giáo
dục trước và sau 1975 tại Việt Nam.
Một nền giáo dục nhân bản đã mất
Thầy
Luận, một giáo sư dạy cấp trung học phổ thông (trước năm 1975, những người dạy
trung học phổ thông được gọi là giáo sư), chia sẻ: “Hồi đó giáo dục thì yêu
thương gia đình, tổ quốc, tôn sư trọng đạo, nhưng họ làm thật. Rồi chào cờ thì
phải nghiêm túc, đi gặp đám tang thì dở mũ đưa tiễn, đó là nhưng thứ liên quan
đến đạo đức mà gần như ai cũng được dạy và làm. Hồi đó học sinh tôn trọng thầy
lắm, sợ thầy lắm. Còn thầy thì gương mẫu lắm, nghiêm túc. Cái kiểu mặc quần đùi
lên giảng dạy là không có rồi. Anh có thể dạy học sinh phá vỡ nhiều thứ, ví dụ
như những hủ tục nhưng tư cách của anh phải nghiêm túc. Mô phạm đó.”
Theo
thầy Luận, vấn đề trọng tâm của giáo dục nằm ở chỗ người làm quản lý và người dạy
đang nắm cái lõi nào, nhắm vào trung tâm, hạt nhân nào để từ đó khai triển
thành một bộ khung triết lý trong giáo dục con người. Và nền giáo dục Việt Nam
Cộng Hòa miền Nam Việt Nam đã làm được điều này.
Theo
ông, chính nhờ vào nền giáo dục nhân bản, lấy triết lý con người làm trung tâm
mà trong vòng hai mươi năm nội chiến với khói lửa chiến tranh và máu đổ, nền
giáo dục miền Nam vẫn mọc lên những cây trái thành tựu hết sức xuất sắc với những
cái tên như Bùi Giáng, Bùi Văn Nam Sơn, Phạm Cộng Thiện, Toàn Phong Nguyễn Xuân
Vinh cùng hàng loạt trí thức, nghệ sĩ tài năng và đức độ khác.
Điều
này, cũng tại miền Nam Việt Nam, với quĩ thời gian hơn gấp đôi, 42 năm, sống
trong hòa bình, không có lửa đạn chiến tranh nhưng lại không có những cá nhân
xuất sắc như trước đây. Đó là nói riêng về các thành tựu đỉnh cao,nhưng khi nói
tới giáo dục, mặt bằng chung vẫn là quan trọng nhất, nghĩa là một xã hội được
hình thành từ giáo dục như thế nào. Điều này thì giáo dục miền Nam Việt Nam tốt
hơn rất nhiều so với giáo dục sau 1975.
Với
triết lý nhân bản, dân tộc và khai phóng, qua giáo dục, phát triển toàn diện mỗi
cá nhân, phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh, phát triển tinh thần dân
chủ và tinh thần khoa học… Điều này đã mang lại một mặt bằng xã hội tương đối
cân bằng, ổn định bởi sự hiểu biết, tôn trọng dân chủ, yêu quê hương, đất nước
và yêu dân tộc cũng như coi trọng con người, lấy nhân cách và phẩm hạnh làm mục
tiêu của đời người.
Như
kết luận vấn đề đã nêu, thầy Luận cho rằng nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là một
nền giáo dục tốt nhất trong lịch sử các nền giáo dục Việt Nam trong lịch sử và
cho đến thời điểm hiện nay. Và hơn nữa, vấn đề chính phủ, nhà nước quan tâm đến
giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa cũng là điều đáng nói, bởi ngân sách giáo dục
tuy không phì đại như hiện nay nhưng lại đảm bảo học sinh không tốn tiền khi đến
trường và nếu học tốt thì có cơ hội du học nước ngoài. Nền giáo dục không có
tính chợ búa như nền giáo dục hiện tại.
Một nền giáo dục chợ búa
Như
để chứng mình cho những luận điểm của thầy giáo cũ của mình, thầy Toàn, một
giáo viên dạy môn văn vừa nghỉ hưu, chia sẻ thêm: “Thì đầu tiên, chính sự dối
trá đã phá vỡ giáo dục. Nó dẫn đến giả bằng thật, dẫn đến bệnh háu danh, cả xã
hội bùng lên lạm phát bằng cấp. Rồi người ta lợi dụng, hợp thức hóa những cái bằng,
học vị chuyên tu, toàn bi kịch, dốt nát kinh khủng, điều này kéo dài đã bao
nhiêu năm. Rồi những cái học vị xỏ lá đó tạo nên những vết thương trong xã hội,
cái bất công trong giáo dục cũng giống như bất công trong xã hội vậy.
Cái bất công trong giáo dục là thằng học vị cao nhất, ngu dốt nhất
sẽ là thằng lên học vị cao nhất bởi nó sẽ tìm cách hợp thức hóa cái bằng nhanh
nhất, cái học vị khốn nạn nhất. Những cái thằng học đại học chuyên tu nó sẽ là
thằng đầu tiên đi học thạc sĩ chuyên tu. Chính vì sự chen lấn như vậy nên người
có học theo kiểu này càng có nhiều bằng cấp, học vị càng tàn ác bởi họ trả giá
quá đắt. Cái kiểu đổi tình, đổi tiền lấy điểm phổ biến.
Và khi mà họ đã trả giá quá đắt cho việc có được cái bằng, cái học
vị đó, cả thân xác họ mà họ còn không quý nữa thì nghĩa lý gì người khác, họ phải
tận thu để ‘bù vốn’, vì họ đầu tư quá lớn. Cái trụ cột đạo đức bị gãy. Như những
cô giáo mẫu giáo, họ nghĩ ra việc trộn thuốc ngủ cho con người ta ăn đi ngủ khỏi
phải trông Những cái độc ác xuất phát từ những gì độc ác mà họ phải trải qua
trong quá trình chen lấn để lấy cái bằng.”
Theo thầy Toàn, để nói về nền giáo dục Việt Nam hiện tại, ông có
thể tóm gọn trong mấy chữ, đó là nền giáo dục chợ búa. Tính chợ
búa này thể hiện rất rõ trong các chính sách giáo dục tốn kém nhưng không có hiệu
quả và đằng sau nó là hàng tá các nhà giáo dục xôi thịt đang chực chờ để tham
nhũng, đục khoét. Cứ mỗi lần cải cách giáo dục, học sinh phải chịu thêm một
gánh nặng mới từ học phí, sách mới, học thêm, kính thưa các loại gánh nặng chất
lên đôi vai non nớt của học sinh.
Nói
sâu xa hơn một chút, nền giáo dục phía Bắc vĩ tuyến 17 những năm trước 1975 đã
có những dấu hiệu thiếu vắng tính nhân bản. Nếu như miền Nam chú trọng vào triết
lý nhân bản trong giáo dục thì miền Bắc lại tập trung vào tính chiến đấu trong
giáo dục. Những bài thơ, những truyện ngắn đầy tính giết tróc được áp dụng triệt
để trong các giáo trình văn học miền Bắc Từ thơ Tố Hữu cho đến truyện ngắn của
Nguyên Ngọc và nhiều nhà văn, nhà thơ khác. Các tác phẩm văn học miền Bắc đều lấy
tinh thần kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam làm kim chỉ Nam.
Sau
30 tháng 4 năm 1975, trận gió giáo dục mang tính chiến đấu của miền Bắc đã xô dạt
những thư viện giáo dục nhân bản miền Nam. Và hậu quả của nó là suốt 42
năm, nền giáo dục càng lúc càng bệ rạc. Những quan chức giáo dục bị kỷ luật ở cấp
thấp thì lại được thăng cấp, nhảy tót lên ghế trên để làm quản lý. Hiện tại, có
nhiều quan chức giáo dục cấp tỉnh, với vị trí giám đốc sở giáo dục, nhưng nếu
chịu khó kiểm tra kiến thức, trình độ và đạo đức của họ, dường như là có quá
nhiều vấn đề để bàn.
Theo
thầy Toàn, có người từng bị kỷ luật ở nhà trường vì nạn đề đóm nhưng sau đó lại
được cất nhắc làm chuyên viên sở, rồi cuối cùng là giám đốc sở giáo dục, trong
khi đó, người này từng ra đề thi sai nhiều lần vì không có kiến thức và ông ta
chỉ giỏi duy nhất một điều, đó là biết làm được lòng cấp trên, biết đội trên đạp
dưới.
Một
nền giáo dục không có triết lý, không coi trọng dân chủ và không đề cao nhân
cách đã và đang cho ra những đáp số xã hội đầy rẫy tội lỗi và cái ác. Thầy Toàn
khẳng định rằng nếu như truy tìm nguyên nhân gây ra một xã hội hết sức manh động
và vô cảm như hiện tại, nền giáo dục đã góp một phần rất lớn để xây dựng nên xã
hội như đang thấy.
Nói
cho cùng, một nền giáo dục chỉ lấy vật dục làm kim chỉ Nam và không coi trọng
tính nhân bản, tính dân chủ, cộng thêm với sự thiếu thành thật và phiến diện sẽ
không bao giờ là một nền giáo dục có khả năng hoàn thiện con người. Và những
người trưởng thành trong nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nói cho cùng là nhờ vào
niềm đam mê tri thức cũng như thiện căn có sẵn của họ chứ không phải do tác động
của giáo dục.
Một nền giáo dục tốt phải là nền giáo dục có khả năng tác động,
làm giàu nhân tính xã hội, ngược lại, một nền giáo dục tồi
tệ là nền giáo dục luôn chịu lời nhắc nhở về nhân tính cũng như phẩm hạnh từ xã
hội. Và nền giáo dục Việt Nam kể từ sau 30 tháng 4 năm 1975 đến nay là nền giáo
dục như thế!
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks