TƯỞNG NHỚ
NGÔ TỔNG THỐNG
Yêu nước thương dân lại nhớ Ngài
bây giờ thiên hạ biết còn ai
một phường tôi tớ không đầu óc
mấy kẻ đồng minh thiếu mắt tai
đến lúc Đông Tây cần chí sĩ
đang khi Nam Bắc ngóng nhân tài
chao ôi ! Chúa định là như thế
đã giặc trong còn có giặc ngoài .
Yêu nước thương dân lại nhớ Ngài
bây giờ thiên hạ biết còn ai
một phường tôi tớ không đầu óc
mấy kẻ đồng minh thiếu mắt tai
đến lúc Đông Tây cần chí sĩ
đang khi Nam Bắc ngóng nhân tài
chao ôi ! Chúa định là như thế
đã giặc trong còn có giặc ngoài .
Tố
Nguyên
CÒN AI CHÍ
SĨ GIỐNG NHƯ NGƯỜI
( riêng tặng những kẻ không
tử tế chửi tệ Ngô Tổng Thống )
biết ai công
chính để thay Người
Đất Nước mòn
chờ mù mịt khơi
toàn đức tự
tôn
đầu
đặc
quánh
chỉ tài
chê
trách lưỡi tuôn
rơi
gian manh vô
đạo kết vào chức
dối trá bất
nhân chễm chệ ngôi
ngóng đợi
tìm đâu người chí sĩ
Dân ta bạc
phước xót bùi ngùi .
Tố Nguyên
__._,_.___
TT NGÔ ĐÌNH DIỆM
KẺ SĨ CUỐI CÙNG
Từ mươi năm nay, nhất là ở Hải-Ngoại,
tháng 10 dương-lịch là thời-điểm nhiều người nhắc/viết nhiều nhất về cố Tổng-Thống
Ngô Đình Diệm (và nền Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa) để chuẩn-bị cho dịp kỷ-niệm
ngày mất của TT. Diệm và Cố-Vấn Ngô Đình Nhu 54 năm trước đây vào ngày 2-11-1963.
Năm nay, 2017, tôi thấy có bài-viết của Ô. Phạm Phong Dinh, nhan đề “Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Kẻ Sĩ Cuối Cùng” là
tổng-lược được các sự-kiện lịch-sử liên-quan tương-đối đầy-đủ nhất.
Tuy nhiên, trong bài-viết dài bằng một cuốn sách mỏng này, tôi gặp phải một số
chi-tiết không đúng Sự Thật, xin nêu lên
đây để rộng đường dư-luận (theo thứ-tự trước sau trong nguyên-văn).
I
Quân Pháp rời khỏi Việt-Nam
I.1/ Nguyên-Văn:
Ô. Phạm Phong Dinh viết:
“Chỉ với hai bàn tay trắng cùng một tấm lòng son
sắt, ông đã tống khứ được đạo quân viễn chinh 150,000 quân Pháp vĩnh viễn ra khỏi
Việt Nam.”
I.2/ Ý-Kiến:
Đây chỉ
là một đoạn văn tuyên-truyền trong thời-điểm đó mà thôi, chứ sau này mà đem nó ra diễn-tả như một
thắng-lợi lịch-sử của một cá-nhân thì không còn có giá-trị gì. Lí-do:
I.21) Tổng-Thống Hoa-Kỳ Franklin
Roosevelt ngay trong Đệ-Nhị Thế-Chiến, đã khởi-xướng vấn-đề trả tự-do cho tất cả các quốc-gia bị ngoại-quốc
thống-trị trên khắp thế-giới, ghi rõ trong “Hiến-Chương Đại-Tây-Dương (The Atlantic
Charter), nhất là thuyết-phục
thành-công để Thủ-Tướng Winston
Churchill của Liên-Hiệp Anh (một đại-đế-quốc mà lãnh-thổ hồi đó được
mô-tả là “mặt trời không
bao giờ lặn trên đất nước Anh”) đồng-thuận kí tên vào để chấp-hành Hiến-Chương ấy (vào ngày 14-8-1941).
I.22) Sau Tổng-Thống Franklin Roosevelt, Tổng-Thống Harry Truman đã đưa nội-dung Hiến-Chương Đại-Tây-Dương vào “Tuyên-Ngôn
Liên-Hiệp-Quốc” vào ngày 1-1-1942 trong đó nhấn mạnh là “mọi quốc-gia thành-viên Liên-Hiệp-Quốc [trong đó Hoa-Kỳ
là nước chủ-xướng việc giải-phóng
các nước nô-lệ] phải tham-gia một cuộc chiến chung, chống lại việc sử-dụng các
lực-lượng dã-man tàn-bạo để chiếm-ngự các nước khác trên thế-giới”. Các lực-lượng
“dã-man tàn-bạo” đó chính là quân-đội của các nước đế-quốc
& thực-dân (trong đó có Liên-Hiệp
Pháp). (Tham-Chiếu)
I.23) Hiệp-Định Geneva 1954 “dẫn đến chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp trên bán đảo Đông Dương, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương (trong đó có Việt-Nam)”.
I.24) Tuyên Bố cuối cùng của Hiệp Định Geneva 1954 có 13 Điều,
mà Điều 10 là:
10.
“Hội nghị ghi nhận tuyên bố của chính phủ Pháp về việc sẵn sàng rút
quân khỏi lãnh thổ Việt Nam, Lào và Campuchia theo yêu cầu của chính
phủ những nước liên quan trong thời gian do các bên lựa chọn.”
Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Hiệp_Định_Genève,_1954 (Xem
phần "Tuyên Bố Cuối Cùng")
I.25) Phàm làm việc gì thì ai cũng cần
có người và tiền,
chứ chỉ có “tài” và “chí/tâm” không thôi thì không làm nên được gì (nói ngay bản-thân
TT. Ngô Đình Diệm cũng thế, trước khi được Đức Quốc-Trưởng Bảo Đại cử làm Thủ-Tướng, thì chỉ là một chính-khách lưu-vong). Chính trong bài-viết của Ô. Phạm Phong Dinh cũng đã có những đoạn văn (trong ngoặc kép) như sau:
I.25a. Về phần TT. Ngô Đình Diệm: “Cùng với 15 cộng sự viên, ngân khố trống rỗng, nhân lực thiếu thốn trầm trọng, quân đội thất tán, lòng người còn ngơ ngác hoang mang”, “chỉ với vỏn vẹn 12 người lính bảo vệ”, “ngay cả lực
lượng bảo vệ trong những năm đầu làm tổng thống của ông cũng không có”, bị xem
là một con người xa lạ “LL các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài, chẳng lẽ sau bao nhiêu năm gian khổ chiến đấu [đánh cả cộng-sản lẫn thực-dân], giờ đây lại buông
súng quy hàng một con người xa lạ là Thủ Tướng Ngô Đình Diệm”….
I.25b. Về phần các lực-lượng vũ-trang chống đối:
“Hoa Kỳ đã cắt ngân khoản, Pháp không có tiền trả lương cho quân Bình Xuyên”; “dưới sức ép của người Mỹ lên người Pháp,
Quốc Trưởng Bảo Đại ra chỉ dụ bãi chức Trung
Tướng [Nguyễn Văn] Hinh”;
“Các tướng Lâm Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ của Hòa
Hảo chùng chình nửa muốn nửa không, chờ xem những đề nghị quyền lợi do Đại
Tá CIA [Edward]
Lansdale đứng giữa
móc nối”, “Những tướng lãnh chịu quy phục như Trần Văn Soái, Tổng Thống Diệm
trọng dụng và tưởng thưởng vật chất xứng đáng (Sử liệu của người Mỹ
viết rằng CIA đã
giúp Tổng Thống Diệm 12 triệu mỹ kim trong việc này)”; về việc
“chinh phạt lực lượng võ trang Cao Đài. Với
sự giúp sức của CIA Mỹ,
qua trung gian của Đại Tá Lansdale, Thiếu Tướng
Trình Minh Thế, Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương chịu quy thuận với những thăng thưởng cấp bậc và vật chất rất hậu từ
phía chính phủ (sử liệu Mỹ tiết lộ CIA đã giúp 1 triệu
mỹ kim)”….
I.25c. “Hoa Kỳ
trong tháng 10.1954 gửi công hàm báo cho người Pháp biết, Hoa Kỳ sẽ
viện trợ trực tiếp cho Việt Nam [tức
chính-quyền TT. Diệm] không qua trung gian Pháp nữa.” và “Kết quả, có 800 ngàn người dân Miền Bắc đã được tàu biển
và máy bay của Pháp, Mỹ vận chuyển vào Nam
cùng với 300 ngàn binh sĩ và gia đình thuộc Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.”
I.25d. Về phần quân đội Pháp: “[Mỹ]
chẳng còn thiết tha đến viêc giúp người Pháp…
ở Điện Biên Phủ. Người Pháp phải ra đi để nhường sân khấu chính trị lại cho người Mỹ. Không nhận được viện-trợ đầy đủ của Hoa Kỳ, quân Pháp đành cam chiến bại tại
chiến trường này, đánh dấu chấm hết một thế kỷ đô hộ
Việt Nam, bằng Hiệp Định Đình
Chiến Geneva có hiệu lực từ ngày 20.7.1954”; “ngân khoản tài
trợ của Hoa Kỳ đã cắt đứt, người Pháp thấy không còn hy vọng gì, những người lính Pháp cuối cùng đã lục tục
xuống tàu về nước ngày 28.4.1956”….
II
TT Diệm có bao nhiêu anh+chị+em
II.1/ Nguyên-Văn:
“Người vợ lớn cụ [Ngô Đình] Khả mất sớm, bà cụ Khả
là người vợ sau sinh cho ông chín người con,
trong đó có bảy trai Khôi, Thục, Diệm, Nhu, Cẩn, Luyện.”
Tức là hai gái.
II.2/ Ý-Kiến:
Sự Thật là sáu trai (kể tên như trên) và ba gái.
III
Ô. Ngô Đình Khôi
III.1/ Nguyên-Văn:
“Năm 1945, Việt Minh đã chôn sống quan tuần phủ Quảng Ngãi
Ngô Đình Khôi và người con trai của ông, vì
cái ‘tội’ tuyên bố chống cộng đến kỳ cùng.”
III.2/ Ý-Kiến:
Ông Ngô Đình Khôi
lần-lượt làm tri huyện Phù Cát (Bình Định), tri phủ Tuy-An
(Phú Yên), án sát tỉnh Phú Yên, bố chánh Bình
Định, tuần vũ Quảng Ngãi. Đến
năm 1930 làm Tổng đốc Quảng Nam cho đến
năm 1945. “Tội” của Ô. Khôi không phải chỉ là tuyên bố chống cộng đến kỳ cùng (vì trong thời Pháp-thuộc, ông đã thực-sự nặng tay với cộng-sản rồi), mà là:
Khi Việt Minh mới nổi lên, Ô. Ngô Đình Khôi bí-mật khuyên Hoàng-Đế Bảo Đại đừng thoái-vị, để quân-đội Nhật giúp đánh chiếm Miền Trung, giữ vững ngai vàng cho vua; vì con trai ông, Ngô Đình Huân, là người được Nhật tin-cậy, và ông đã có liên-lạc trước với Nhật rồi. (Đồng-thời, có một cấp chỉ-huy quân-đội Nhật cũng ngỏ ý với vua Bảo Đại như thế; nhưng Bảo Đại hỏi là có đánh nhau đổ máu hay không, người Nhật nói là không thể tránh khỏi, nên Hoàng-Đế Bảo Đại không chấp-thuận). Đổng-Lý Ngự-Tiền Văn-Phòng của Bảo Đại là Ô. Phạm Khắc Hòe, lại là “tay trong” của Việt Minh, nên Việt Minh biết chuyện ấy, và Ô. Ngô Đình Khôi cùng con là Ngô Đình Huân bị giết về “tội” mưu-toan cản-trở, chống lại cuộc “Cách Mạng Tháng Tám” năm 1945.
Nguồn: http://www.vietnamdaily.com/?c=article&p=83759
IV
Ông Ngô Đình Diệm làm thơ
Ô. Phạm Phong Dinh chép lại bài thơ “Nỗi Lòng” cho là của Ô. Ngô Đình Diệm làm năm 1953.
Thật ra, đó là bài thơ “Vô Đề” của Cụ Nghè Nguyễn Sĩ Giác, in trong cuốn sách “Chơi Chữ” xuất-bản ở Sài-Gòn vào năm 1961. (Tham-Chiếu)
V
Charles Degaulle ca ngợi Ngô Đình Diệm
Là một Winston Churchill của Á Đông
“Đến như Charles Degaulle, con người từng bôn ba xứ người tìm cách phục quốc như ông Diệm, dù ở tư thế đối đầu chính kiến với ông, cũng đã thành thật ca ngợi ông Diệm là một Winston Churchill của Á Đông.”
V.2/ Ý-Kiến:
V.21) Tổng-Thống Charles de Gaulle của Pháp không bao giờ “thành thật ca-ngợi” Tổng-Thống Ngô Đình Diệm của Việt-Nam Cộng-Hoà là “Winston Churchill cuả Á Đông” (lớn hơn Đông-Nam Á-Châu). Ô. Phạm Phong Dinh đã biết và viết là vị kia ở tư thế đối đầu chính kiến với vị này, thì lấy đâu ra câu nói kia?
V.22)
Sự Thật là
Phó Tổng-Thống Lyndon Johnson của Hoa-Kỳ, lúc qua thăm Việt-Nam,
vào ngày 11-5-1961, đã gọi Tổng-Thống Ngô Đình Diệm là
“the Winston
Churchill of Southeast
Asia” (một
nhân-vật [có tầm cỡ như] Winston Churchill, ở Đông-Nam Á-Châu).
V.23)
Về câu nói này, L.
Fletcher Prouty, tác-giả cuốn sách “JFK: The CIA, Vietnam, and the Plot to Assassinate John
F. Kennedy” (Kennedy: cơ-quan CIA, Việt Nam, và Âm Mưu Ám Sát TT. Kennedy), do Skyhorse Publishing
ở New York ấn-hành năm 2011, ở trang 53, đã viết:
Ngay cả Ngô Đình Diệm cũng là một phần của vấn-đề.
Có lẽ Lyndon Johnson đã phát-biểu đúng nhất,
vào năm 1961, khi trả lời cuộc phỏng-vấn của Stanley Karnow, tác-giả cuốn sách “Việt-Nam: Một Lịch Sử” rằng: “Cục cứt! Diệm chỉ là thằng nhóc duy-nhất
mà chúng ta vớ được ở đó. ”
V.24) Cũng về câu nói đó, Seth Jacobs, tác-giả cuốn sách “Cold War
Mandarin: Ngo Diem Dinh and the Origins of
America's War in Vietnam, 1950-1963” (Ông
Quan thời Chiến Tranh
Lạnh: Ngô
Đình Diệm và các Nguyên Nhân gây ra cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam), do Rowman and Littlefield Publishers ở New York ấn-hành năm 2006, đã viết ở trang 124:
Trước ngày lên đường qua Việt Nam, Johnson đã nhận được các văn-bản chỉ-thị ông “hãy trình-bày khúc-chiết với Tổng-Thống Diệm về lòng tin-tưởng của chúng ta rằng ông ấy là một con người có danh-tiếng tuyệt-vời.” Và ngài phó tổng-thống đã thi-hành nhiều hơn cả nhiệm-vụ ấy. Johnson
ca-ngợi Diệm trong
mọi dịp, ví Diệm với George Washington, Andrew Jackson, Woodrow
Wilson, và Franklin Roosevelt. Trong buổi tiệc chia tay, Johnson hoan-hô Diệm là
“Winston Churchill cuả Đông Nam Á Châu.”
Stanley Karnow, lúc ấy đang thu-thập dữ-kiện để tường-thuật về các sự-kiện quan-trọng ở Việt Nam để đăng lên tờ Saturday
Evening Post, hỏi Johnson rằng các lời tán-dương TT. Diệm như
thế có thành-thật hay không, thì ngài phó tổng-thống cười điệu, yêu-cầu đừng ghi âm, và thú-nhận: “Cục cứt! Bạn ơi, hắn là thằng nhóc duy nhất mà chúng ta vớ được ở bên ngoài đấy!”
VI
Gi ải Thưởng Magsaysay
VI.1/ Nguyên-V ăn:
“Nước Phi có giải thưởng Tổng Thống
Magsaysay dành trao tặng cho những vị nguyên thủ quốc gia tài năng của châu Á, năm 1960 đã tặng giải này cho Tổng Thống Ngô Đình
Diệm của Việt Nam Cộng Hoà, bởi những thành tích sáng
chói mà ông cùng chính phủ của ông đã tạo được. Tổng Thống Diệm đã làm một nghiã cử cao đẹp, khi
ông hiến tặng số tiền thưởng 15,000 mỹ kim cho ngân
quỹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma cứu giúp người Tây Tạng vượt biên sang cư ngụ tại Ấn
Độ.”
VI.2/ Ý-Kiến:
Vụ này đã được kết-luận từ lâu là không hề có (tham-chiếu), nhưng Ô. Phạm Phong Dinh vẫn
chưa biết được Sự Thật ấy.
Riêng về thời-điểm
nói là giải thưởng Magsaysay được trao cho Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm thì Ô. Dinh viết là năm 1960, là một điều mới+lạ―mới+lạ trong câu chuyện phịa―vì người khác viết là năm 1959 hoặc 1962! (Tham-Chiếu)
VII
Mao Trạch Đông muốn bang-giao cấp Đại-Sứ
Với Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa
VII.1/ Nguyên-Văn:
“Mao Trạch Đông, Chủ Tịch Trung Cộng bấy giờ có lần
tìm cách liên lạc với Việt Nam Cộng Hòa đề nghị hai bên thiết lập quan hệ ngoại
giao cấp đại sứ, nhưng Tổng Thống Diệm đã thẳng thắn từ
chối.”
VII.2/ Ý-Kiến:
Đây là một chuyện “động trời” mà nay mới nghe Ô. Phạm Phong Dinh đề-cập lần đầu.
Không lẽ Ô. Dinh “cướp công” của
Đại-Tướng Dương Văn Minh năm 1975 đem gán cho Tổng-Thống
Ngô Đình Diệm năm 1963:
“Một
điều nữa cũng nên nói ra ở đây là trong những ngày hấp hối của miền Nam, có một chuyện lạ kỳ là Trung Cộng đã tìm cách liên lạc với
chính phủ Dương văn Minh với ý định muốn viện trợ cho miền Nam chống lại sự tấn công của Cộng sản miền Bắc. Trong một cuộc nói chuyện thân mật với anh em sinh viên ở Pháp sau khi định cư ở Pháp, tướng Dương văn Minh có kể lại chuyện này và cho biết
ông từ
chối đề nghị giúp đỡ của Trung Cộng vì nghĩ rằng Trung Hoa là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt. Ông Minh cho rằng chuyện nhận viện trợ của Trung Cộng là một chuyện làm không có lợi
cho đất nước Việt
Nam. Cựu
dân biểu VNCH Lý quý Chung (vốn là bộ trưởng thông tin trong chính phủ Dương văn Minh) trong cuốn sách “ Hồi ký không tên “ xuất bản ở Việt Nam mới đây cũng có nói đến chuyện này nhưng ông Chung không dám nêu đích danh Trung Cộng mà chỉ nói đến một cách bóng
gió (1). Lý do là mối quan hệ giữa Việt Cộng và Trung cộng đang hồi thắm thiết hữu nghị nên
ông Trung không dám nêu đích danh Trung Cộng là kẻ đã tìm cách viện trợ cho chính
phủ Dương văn Minh của Việt Nam Cộng Hòa nhằm cứu
vãn sự sụp đổ của miền Nam trước sự tấn công của miền Bắc.”
VIII
Trưng-Cầu Dân Ý truất-phế Bảo Đại
VIII.1/ Nguyên-Văn:
“Một cuộc
Trưng Cầu Dân Ý đã được tổ chức trong ngày 23.10.1956
do Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng gồm nhiều nhân sĩ của các đảng phái và giáo phái
ủng hộ Thủ Tướng Diệm đề xuất. Bản thân Thủ
Tướng cũng khôn glường được sự tiến triễn bất ngờ của tình thế, ông đã vô cùng sửng
ost khi buổi chiều ngay 20.4.1956, sau 7 tiếng đồn
ghồ thảo luận căng thẳng, Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng đã mời ông Diệm đến thông báo quyết
định truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại.”
VIII.2/ Ý-Kiến:
Sự-việc này xảy ra vào ngày+tháng đó, nhưng năm 1955 chứ
không phải 1956.
Chính Ô. Dinh, liền sau câu đó, đã viết:
“Ngày 26.10.1955, ông Diệm tuyên thệ nhậm chức
tổng thống, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa”
(mặc dù
mãi đến ngày 26.10.1956, một năm sau, mới có Hiến-Pháp
và do Hiến-Pháp mới có chức-vụ tổng-thống
và quốc-hiệu Việt-Nam Cộng-Hòa!)
IX
Chiếc thùng phuy đựng tiền của Bình Xuyên
IX.1/ Nguyên-Văn:
“Đại Tá Dương Văn Minh, tự Minh
Cồ (Big Minh), người hùng trong chiến
dịch càn quét Rừng Sát, đã tìm thấy một
thùng phuy giấy bạc Đông Dương của Bình Xuyên. Minh
được vời về Sài Gòn cho vinh thăng Thiếu Tướng,
đảm nhiệm chức vụ Tổng Trấn Sài Gòn, dẫn đầu đoàn quân trong buổi duyệt binh
chiến thắng rất hùng tráng tại thủ đô. Minh dấu nhẹm chuyện chiếc thùng phuy, nhưng tin
phong phanh đến tai chính phủ ông Diệm,
nhưng Tổng Thống Diệm cho xếp hồ sơ.
IX.2/ Ý-Kiến:
IX.2a) Vụ này cũng đã được nêu ra thảo-luận
trên Mạng từ lâu.
Xin trích một đoạn trong bài-viết về Đại-Tướng Dương
Văn Minh:
VÀNG BẠC CỦA
BÌNH XUYÊN
Cựu Đại-Tướng Dương Văn
Minh đã bị Luật-Sư Nguyễn Văn Chức (và Tiến-Sĩ Lâm Lễ Trinh) vu-khống là “trong
thời kỳ dẹp loạn Bình Xuyên, ĐT Minh đã tịch
thu được rất nhiều vàng bạc và tiền mặt của Bình Xuyên, nhưng ĐT đã
không giao số chiến lợi phẩm này cho chính phủ Ngô Đình Diệm, mà lại tẩu
tán làm của riêng”.
a) Trong
năm 1971, khi Đại-Tướng Dương Văn Minh vừa mới thu-thập
đủ chữ ký giới-thiệu của số lượng Dân-Biểu và Thượng-Nghị-Sĩ theo luật định, để
ra tranh-cử Tổng-Thống, thì báo “Hoà Bình” của Linh-Mục Trần Du loan
tin như trên. Ông Trịnh Bá Lộc, nguyên Sĩ-Quan Tuỳ-Viên
của Đại-Tướng Dương Văn Minh, đã tìm ra được xấp cùi mà trong một cùi có ghi
trị giá của nó, và bên cạnh có ghi rõ-ràng như sau: “số tiền bán vàng tịch
thu của Bình Xuyên, Tổng Thống (Ngô Đình Diệm) cho Cô Nhi Viện Quốc
Gia Thủ Đức”. Luật-Sư Võ Văn Quan, đại-diện ĐT Minh, liền
can-thiệp, và báo “Hoà Bình” đã đăng ngay bài đính-chánh, kèm theo
phóng-ảnh cùi chi-phiếu nói trên. Báo “Công Luận” của Thượng-Nghị-Sĩ Tôn Thất Đính cũng có phổ-biến
việc này.
Thế mà vừa rồi, sau khi Đại-Tướng Dương Văn Minh qua đời,
báo “Con Ong” ở Houston, Texas, là nơi
cư-ngụ của Ông Nguyễn Văn Chức, lại đăng lại bài vu-khống của VIP KK tức Luật-Sư Nguyễn Văn Chức với nội-dung
như đã từng đăng trên báo “Hoà Bình” trước khi bị buộc
phải đính-chính Sự Thật vào năm 1971 (37 năm trước
đó). Cùng lúc, tiến-sĩ Lâm Lễ Trinh cũng viết tương-tự
trong cuốn “Về Nguồn”. Thật là hết nước nói.
Trong tháng 7 năm 2008, Ông Trịnh Bá Lộc đã
làm sáng-tỏ lại vụ này, đồng-thời nhắc-nhở các kẻ vu-khống, nhất là tín-đồ Ky-Tô-Giáo, rằng việc nguỵ-tạo sử-sách tức cũng là “làm chứng dối”, vi-phạm điều răn của Đức Chúa Trời (Exodus 20:16 và Deuteronomy 5:20).
b) Ông Đoàn Thêm, cựu viên-chức cao-cấp tại Phủ Thủ-Tướng và Phủ Tổng-Thống
thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà, trong cuốn “Hai Mươi Năm Qua – Việc Từng Ngày
– 1945-1954”, xuất-bản
tại Sài-Gòn vào năm 1965 (là một tài-liệu lịch-sử khách-quan) ở các trang 191-192 đã
viết:
<<3.3.1956 – Thiếu-Tướng Duơng-văn-Minh họp báo nói về
các chiến-dịch miền Tây và sự hợp tác của Tướng Trần Văn Soái.
Tướng Minh cho biết trong chiến-dịch Hoàng-Diệu, đã tịch thâu 20 kí vàng và 16 triệu ½ bạc,
số tiền này sẽ dùng để xây
cất một Cô-Nhi-Viện Quốc-Gia.>>
c) Rốt cuộc là vì không còn có thể tiếp-tục vu-khống Đại-Tướng Dương Văn Minh về vụ tài-sản Bình-Xuyên để bôi nhọ vị tướng cầm đầu cuộc chính-biến 1-11-1963, nên các phần-tử hoài-Ngô phải kiếm thêm những chuyện khác. (Tham-Chiếu)
IX.2b) Lâu nay đã có nhiều người đòi
đọc những bài viết theo lý-tính, chống việc
viết theo cảm-tính.
Vậy, theo lý-tính thì ta thấy gì trong vụ chiến-lợi-phẩm
Bình-Xuyên này?
a. Cả một chính-phủ, nhất là tổng-thống anh-minh Ngô Đình Diệm và cố-vấn kỳ-tài
Ngô Đình Nhu,
mà không làm gì được Dương Văn Minh, để lấy lại tài-sản của
quốc-gia (vì chiến-lợi-phẩm phải được sung
vào công-quỹ, trở thành tài-sản quốc-gia), tức là bất-tài.
b. Không trừng-trị “kẻ gian”, tức là dung-túng, đồng-lõa với kẻ gian….
X
Học-Thuyết Đại Đông Á của Nhật
X.1/ Nguyên-Văn:
“Khi
quân Nhật đảo chánh Pháp ngày 9.3.1945, người Nhật
đưa ra chiêu bài “Đại Đông Á”.”
X.2/ Ý-Kiến:
Quân Nhật đã vào Đông-Dương,
nhất là Việt-Nam, từ năm 1940. “Ngày 22.6.1940, Pháp ký thỏa thuận ngừng bắn với Đức Quốc xã, Chính phủ Vichy được thành lập, thừa kế hầu hết các vùng lãnh thổ hải ngoại của Pháp, bao gồm cả Đông Dương. Ngày 5 tháng 9 năm 1940,
Nhật Bản thành lập Đông Dương phái khiển quân để đồn trú tại Đông
Dương.” (tham-chiếu)
Học-thuyết “Đại Đông Á” ra đời năm 1940 để tiếp-nối các chủ-trương trước đó, đánh chiếm Trung-Hoa, Mãn-Châu, v.v…
Tại Việt-Nam, Nhật đã mở các trung-tâm văn-hóa dạy tiếng Nhật, phổ-biến phim+ảnh,
sách+báo, tuyển-dụng binh-lính (có một số người Việt-Nam là sĩ-quan trong quân-đội và Hiến-Binh Nhật)… chậm
nhất là từ năm 1940 chứ không phải đợi đến khi Nhật đảo-chính Pháp ngày 9.3.1945 mới đưa
ra chiêu-bài Đại Đông Á.
XI
Ai Ném Chất Nổ ở Đài Phát-Thanh Huế
XI.1/ Nguyên-Văn:
“Sau năm 1975, James Scott, cựu Đại Úy quân đội Mỹ, từng là cố vấn Tiểu Đoàn 1,
Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1 Bộ Binh của VNCH, có nhiều liên hệ với CIA, công bố một
bức thư thú nhận chính anh ta đã được lệnh gài một trái bom nổ chậm để gây ly
gián giữa Phật tử và chính quyền.”
XI.2/ Ý-Kiến:
Vụ này cũng đã được bàn-cãi trên Mạng từ lâu, mà không có kết-luận chắc-chắn.
XI.2a) Người thì nói là lựu-đạn, kẻ thì nói là chất nổ, nay
theo Ô. Dinh thì là trái bom nổ chậm.
XI.2b) Làm sao biết trước được là Đài
Phát-Thanh Huế tối đó sẽ không cho phát đi cuốn băng
ghi-âm buổi lễ sáng đó trên Chùa
Từ-Đàm khiến thính-giả Phật-Tử thắc-mắc kéo đến
Đài tìm hiểu, rồi mới có chuyện kêu-gọi nhau từ nhiều nơi (mất nhiều thì-giờ) đến
tập-trung trước trụ-sở Đài để biểu-tình. Làm sao biết chắc đúng giờ/phút
nào thì cho bom nổ để gài kim đồng-hồ cho chính-xác.
XI.2c) Người thì nói là “anh ta” tiết-lộ với một
bạn thân, kẻ thì nói là “anh ta” đăng bài lên báo; nay theo Ô. Dinh thì “anh ta” công
bố một bức thư―nhưng không biết đăng báo nào, tên gì, ở
đâu, số mấy, ngày nào; và điều đáng nói hơn hết là chính tiểu-đoàn “anh ta” cố-vấn
cũng không có ai nhớ ra là đã có một cố-vấn mang tên và cấp-bậc như “anh ta”!
XI.2d) Đây là công-tác tình-báo thuộc loại tối-mật, phải do nhân-viên (dù là khế-ước nhất-thời, hữu-hạn cũng là
nhân-viên) chứ không khơi-khơi chỉ là “có nhiều liên hệ với CIA”, vì
các nhân-viên điện, nước, bưu-điện, điện-thoại, v.v… cũng đều “có nhiều liên hệ với CIA” mà họ có phải là nhân-viên (điệp báo) của CIA đâu.
XI.2e) Một điều quan-trọng hơn hết là mọi
nhân-viên CIA đều bị tuyệt-đối cấm tiết-lộ những việc
mà mình đã làm. Ông Frank
Snepp, tác-giả cuốn sách “Decent Interval” đã bị rắc-rối với cơ-quan này (tham-chiếu); và bà gì đó, người Việt, làm việc cho cả FBI lẫn CIA, cũng gặp
lôi-thôi với CIA về cuốn hồi-kí của bà. Anh chàng gọi-là
“đại-úy James Scott” và cái-gọi-là “bức thư thú nhận” hẳn chỉ
là một giả-tưởng trong đầu của một số người.
XII
Anh+Em Lê Quang Tung & Lê Quang Triệu
XII.1/ Nguyên-Văn:
“Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt
bị tràn ngập. Hôm trước, vị Chỉ Huy là Đại Tá Lê
Quang Tung đã bị hạ sát bằng súng lục tại nghĩa trang sau khuôn viên Bộ
Tổng Tham Mưu cùng với anh ông là Trung Tá Lê Quang Triệu.”
XII.2/ Ý-Kiến:
Lê Quang Tung là anh của Lê Quang Triệu, và Lê Quang Triệu
là thiếu-tá.
“Cẩn thận hơn,
ngay ngày nổ ra cuộc đảo chính, các tướng lĩnh cầm đầu còn dẫn dụ bắt giữ ông [Lê Quang Tung] và em ông là Thiếu tá Lê Quang Triệu tại Bộ Tổng Tham mưu. Cả hai anh em ông đều
không thể ngờ lệnh triệu tập này là bản án tử hình của mình.”
XIII
Cố-Vấn Ngô Đình Nhu bị đấm vào mặt
XIII.1/ Nguyên-Văn:
“Đến Nhà Thờ Cha Tam,
Đại Úy Nhung thô bạo chỉa súng vào Tổng Thống
Diệm và ông Nhu
buộc lên xe thiết giáp. Ông Nhu phản đối,
đòi Nhung phải lễ độ với vị nguyên thủ, Nhung sừng sộ đấm ông Nhu một cái vào mặt, xô hai anh em ông vào lòng xe, rồi
dùng dây thô bạo trói quặt tay hai người ra phía sau lưng.”
XIII.2/ Ý-Kiến:
Tôi đã đọc
nhiều bài-viết cũng như bài-báo kể về nhũng gì xảy ra trước cổng Nhà Thờ Cha Tam,
nhưng đây là lần đầu tiên đọc thấy Ô. Phạm Phong
Dinh viết rằng: “Nhung sừng sộ đấm ông Nhu một cái vào mặt.”
XIV
Mission Accomplie
XIV.1/ Nguyên-Văn:
“Khi đoàn xe chạy vào Bộ Tổng
Tham Mưu, nơi đặt bản doanh của bộ chỉ huy đảo chánh, Đại
Úy Nhung bước
ra đứng nghiêm chào Tướng Minh đang nôn nóng đứng chờ :”Mission accomplie” (sứ mạng
hoàn thành).”
XIV.2/ Ý-Kiến:
Tôi chưa hề đọc thấy ai viết là Đại-Úy Nguyễn Văn Nhung
báo-cáo lên Trung-Tướng Dương
Văn Minh bằng câu “Mission Accomplie”.
Trung-Tướng Dương Văn Minh chỉ-định Thiếu-Tướng Mai
Hữu Xuân và Đại-Tá Dương Ngọc Lắm đi
đón nhị vị Diệm+Nhu, vậy khi
hoàn-thành nhiệm-vụ trở về thì không lí gì Đại-Úy Nguyễn
Văn Nhung lại dám vượt quyền
và vượt hệ-thống quân-giai mà báo-cáo thẳng lên Trung-Tướng Xuân, lại dùng tiếng Pháp!
Không hiểu Ô. Phạm Phong
Dinh căn-cứ vào chứng-liệu
nào mà viết như thế.
XV
Tôi Chết, Hãy Trả Thù Cho Tôi
Mở đầu
thiên biên-khảo “Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Kẻ Sĩ
Cuối Cùng” này, tác-giả Phạm Phong Dinh đã
nhắc lại lời trối-trăng của TT. Diệm:
Tôi tiến, hãy theo tôi;
Tôi lùi, hãy bắn tôi;
Tôi chết, hãy trả thù cho tôi. (có người
chép lại, phổ-biến trên một số diễn-đàn Mạng đã sửa câu chót, thành ra “hãy nối chí tôi.” (tham-chiếu)
Vì thế, Ô. Dinh thực-hiện tác-phẩm này để trả thù cho cố Tổng-Thống
Ngô Đình Diệm, nên ông kết-thúc bằng đoạn
sau đây:
“Thời gian đã trả xong mối thù cho Tổng
Thống Diệm, một mối hận không phải được vun
tưới bằng bạo lực hay bằng máu, mà chỉ đơn thuần được bón bằng sự thật. Sự thật cao
hơn tất cả mọi sự hận thù…”
Ông Phạm Phong Dinh đã muốn trả xong mối thù, bằng cách trả lại
Sự Thật trong công-trình tổng-hợp
này.
Tiếc thay, Sự Thật thì
không phải là bánh mì (bởi vì bánh mì dù không phải là cả ổ mà chỉ một phần cũng là
bánh mì). Tập sách của ông quả đã trả lại một phần Sự Thật (vì còn vấp phải một số khuyết-điểm mà tôi
nêu trên) nên nó chưa phải 100% Sự Thật. Sự Thật
mà mới một phần thì chưa phải là Sự Thật.
Cho nên mối
thù vẫn chưa trả xong.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks