Ông Nguyễn Trường Tộ ơi !
Cái bất hạnh của đất nước mình là do sự hủ hóa bảo
thủ
ăn sâu đậm
quá lâu vào giới quan lại nên không muốn
thay đổi
. Nhà vua ôm lấy
hũ nho , bế quan tỏa
cảng--
sợ
mất
ngai vàng nếu canh tân theo Tây Phương .
Khi hải quân Nhật
đánh chìm Hạm
Đội
Nga ở eo biển Đối Mã năm 1905 thì Âu Châu rúng động , giật mình vì sự vươn lên của
" Dân mọi Á Châu " .
Trong khi
đó , bên trời Nam, triều đình Huế chìm đắm
trong lạc hậu nên bị
thực
dân Pháp đô hộ. Trần Tế
Xương
nhìn sự dốt nát của
triều đình Huế
, nên ôm hận
than lên:
Nào có ra gì cái hũ Nho
Ông nghè ông cống cũng nằm
co
Sao không đi học
làm thông phán
Tối
rượu
sâm banh sáng sữa
bò.
Nguyễn Trường Tộ ơi ! Bây gio thì nô lê Tầu , mất nước .
On Tuesday, May 17, 2016 4:40 AM, "chuong ngoc van dam [GoiDan]" <>
wrote:
Tiến
sĩ "Nổ" (6)
Trường
hợp
Nguyễn Trường
Tộ
khá
đặc
biệt
vì
ông
không
phải
là
một
khoa bảng ...nhưng,
chúng
ta có thể
nói
đó
là
một
người
có
kiến
thức
đúng
nghĩa.
«Ông thông minh, học
giỏi, nên
được
truyền tụng
là "Trạng
Tộ". Thế
nhưng, ông
không đỗ
đạt
gì, có
thể vì
ông là người
Công giáo
nên không
được
đi thi, hoặc
là ông
không muốn
đi theo con đường
khoa cử» (1)
Ông không là Tiến
sĩ,
nhưng
tầm
nhìn
của
ông
rất
xa khi nhận thức
được
bối
cảnh
và
khuynh hướng vận
động
chung của thế
giới
thời
bấy
giờ,
Nguyễn Trường
Tộ
có
những
nhận
định:
«Ngày nay các nước
phương Tây
đã bao chiếm
suốt từ
Tây Nam cho đến
Đông Bắc,
toàn lãnh
thổ châu
Phi cho tới Thiên
Phương, Thiên
Trúc, Miến
Điện,
Xiêm La, Tô
Môn Đáp
Lạp, Trảo
Oa, Lữ Tống,
Cao Ly, Nhật Bản,
Trung Quốc và
các đảo
ở ngoài
biển, kể
cả Tây
châu, không
đâu là
không bị
chẹn họng
bám lưng.
Nước Nga thì
từ Tây
Bắc đến
Đông Nam gồm
tất cả
các nước
Đại
Uyển, Cốt
Lợi Cán,
Mông Cổ
và các
xứ ở
Bắc Mãn
Châu, không
đâu là
không chiếm
đất
và nô
dịch dân
những nơi
đó. Ở
trên lục
địa,
tất cả
những chỗ
nào có
xe thuyền đi
đến,
con người đi
qua, mặt trời,
mặt trăng
soi chiếu, sương
mù thấm
đọng
thì người
Âu đều
đặt
chân đến,
như tằm
ăn cá
nuốt, ở
đâu thuận
với họ
thì phúc,
chỗ nào
trái với
họ thì
họa; ai hòa
với họ
thì được
yên, ai cự
lại thì
dùng binh lực giao tranh;
trong thiên hạ
không ai dám
kháng cự
lại họ.
Song tất cả
đều
không được
phúc đáp.
Đầu
năm 1864, ông
lại gửi
cho đại
thần Trần
Tiễn Thành
một bản
điều
trần nữa
(hiện thất
lạc) để
thuyết phục
Triều đình
Huế nên
tạm hòa
với Pháp
và mở
rộng bang giao» (2).
Được
thế,
nhờ
ông
biết
tiếng
Pháp.
Trong bài "Trần
tình"
(viết
xong ngày 7 tháng
5 năm
1863), Nguyễn Trường
Tộ
phân
trần
rằng:
lúc
bắt
đầu
khởi
hấn
(đầu
năm
1859, tức lúc
quân
Pháp
chuẩn
bị
tấn
côngthành
Gia Định),
quân
Pháp
có
mời
ông
cộng
tác,
nhưng
ông
một
mực
từ
chối.
Sau khi Đại
đồn
Chí
Hòa
thất
thủ
(tháng
2 năm
1861), ông thấy
rằng
phải
tạm
hòa
theo đề
nghị
của
Pháp,
để
dưỡng
quân
và
củng
cố
lực
lượng.
Chính
vì
thế
mà
Nguyễn Trường
Tộ
đã
nhận
làm
từ
dịch
cho Pháp để
mong góp phần
vào việc hòa
đàm.
"Sau khi thôi việc,
Nguyễn Trường
Tộ đã
dồn hết
tâm trí
vào việc
thảo kế
hoạch giúp
nước. Nhờ
sự hiểu
biết sâu
rộng về
các phương
diệnchính
trị, kinh tế,
văn hóa,
khoa học kỹ
thuật... đến
đầu
tháng 5 năm
1863, thì ông
đã thảo
xong 3 bản điều
trần gửi
lên Triều
đình Huế
là: "Tế
cấp luận",
"Giáo môn
luận" và
"Thiên hạ
phân hợp
đại
thế luận"(3)
Nguyễn
Trường Tộ
đã gửi
liên tiếp
ba bản điều
trần cho đại
thần Trần
Tiễn Thành,
và hai bản
điều
trần cho đại
thần Phạm
Phú Thứ,
để
nhờ đưa
các vấn
đề
quan trọng lên
vua và Triều
đình. Hai văn
bản gửi
cho ông Thứ,
vì chưa
tìm thấy
nên không
rõ nội
dung. Còn ba văn bản
gởi cho ông
Thành, thì
có thể
là các
bài: "Góp
ý về
việc mua và
đóng thuyền
máy" (cuối
1864), "Góp ý
về việc
đào tạo
người điều
khiển và
sửa chữa
thuyền máy"
(tháng 2, 1865) và
"Khai hoang từ" (tháng
2, 1866) (4)
Cũng trong thời
gian trên, tại
nước
Nhật
đã
có
sự
thay đổi
rộng
lớn
thời
Minh Trị Thiên
Hoàng
(3 tháng 11 năm
1852 – 30 tháng
7 năm
1912).
Từ
sự
thay đổi
trong thời gian đó,
Nhật
Bản
đã
dần
dần
trở
thành
một
cường
quốc
ở
Châu
Á.
Cũng
chính
từ
sự
canh tân đất
nước
như
thế,
dù
bại
trận
sau thế chiến
thứ
hai, ngày nay Nhật
vẫn
là
một
trong những cường
quốc
trên
thế
giới,
ít
ra về mặt
kinh tế.
Thật
ra, tuy sự canh tân
được
mang tên ông
vua Nhật bản,
nhưng
bối
cảnh
lịch
sử
và
sự
đóng
góp
của
giới
quan lại (nhất
là
của
giới
trí
thức)
trước
thời
Minh Trị, có
phần
đóng
góp
quan trọng hơn.
Năm
1854, Matthew C. Perry lại mang một
hạm
đội
9 chiếc tàu
chiến,
bắt
chính
quyền
Mạc
phủ
ký
một
hiệp
định
buôn
bán
bất
bình
đẳng,
nhưng
chế
độ
Mạc
Phủ
trước
đó
200 năm, tuy bài
ngoại,
nhưng
vẫn
còn
giao thương với
một
số
các
nước
Tây
Phương;
đặc
biệt
là
Hòa
Lan.
Tình trạng
Việt
Nam lại trái
ngược
như
thế.
Việc
cấm
đạo
Thiên
chúa
khá
gắt
gao và tuy cũng
biết
đến
các
nước
Tây
Phương
khác,
nhưng
chính
sách
bế
quan tỏa cảng
gay gắt hơn
nhiều.
Đã
thế,
những
đóng
góp canh tân, chẳng hạn
như
trường
hợp
của
Nguyễn Trường
Tộ,
không
được
sự
quan tâm của
triều
đình.
«Nhưng
sau khi đệ
trình lên
cách giải
quyết, thì
không được
thi hành nên
ông có
lẽ chán
nản, và
xin về Nghệ
An (ngày 10 tháng
4 năm 1866) [20].
Trong bức thư
gửi Trần
Tiễn Thành
(viết từ
Nghệ An đề
ngày 15 tháng
6 năm 1866), thì
tâm trạng
của ông
lúc bấy
giờ khá
u uất. Một
phần vì
ông nóng
lòng việc
canh tân đất
nước, một
phần vì
thấy vua và
một số
quan lại bảo
thủ hãy
còn nghi kỵ
mình» (5)
Tuy nhiên, công cuộc
vận
động
của
ông
vẫn
được
duy trì một
cách
nhẫn
nại,
cho đến
năm
1871. Ông mất
đột
ngột
vào
năm
mới
41 tuổi.
Hòa ước
Giáp
Thân
1884 hay còn có
tên
là
Hòa
ước
Patenôtre (Pa-tơ-nốt),
là
hòa
ước
cuối
cùng
nhà
Nguyễn ký
với
thực
dân
Pháp
vào
ngày
6 tháng 6 năm 1884 tại kinh đô
Huế.
Điều
19. Các điều
ước
quốc
tế
hiện
nay sẽ thay thế
các
điều
ước
được
ký
kết
ngày
15 tháng 3, ngày
31 tháng 8 và
23 tháng 11 năm
1874.(6). Với Hòa
ước
này,
Việt
Nam càng lúc
càng
chịu
sự
đô
hộ
nặng
nề
hơn
của
Pháp.
Một
trí thức vì
căm
phẫn
với
triều
đình,
tìm
cách
chống
lại
nhà
vua đến
nỗi
bị
xử
chết
(Cao Bá Quát)
đến
một
trí
thức
(dù
không
bằng
cấp
cao) nhưng quan tâm
đến
vận
mệnh
của
đất
nước
nên
đã
tìm
đủ
cách
để
triều
đình
làm
một
cuộc
thay đổi,
cho kịp đà
phát
triển
...mỗi người
một
cách
thế;
nhưng
nói
cho cùng, đó
mới
chính
là
thái
độ
rất
đáng
được
kính
trọng
của
kẻ
sĩ.
Còn
những
Tiến
sĩ
"Nổ" thời
buổi
ngày
nay, không biết
có
xứng
danh là một
kẻ
sĩ,
hiểu
theo cách như
hai trường hợp
được
kể
đến
như
thế
không?!...
Đặng
Quang Chính
Sent:
Tuesday, May 17, 2016 1:38 AM
Subject: NẾU VUA TỰ ĐỨC NGHE THEO NGUYỄN TRƯỜNG TỘ THÌ VIỆT
NAM NGÀY NAY VƯỢT XA NHẬT BẢN
Ông Nguyễn Trường Tô đuoc Vua Tự Đức cử sang Pháp . Sau khi quan
sát các tiến bộ khoa học , phát triển kinh tế, quân đội của nước văn minh nhất Âu Châu thời bấy giờ , ông về nước và viết bản điều trần gồm bảy điểm dâng lên vua Tự Đức , đề nghị vua phải cho thi hành ngay để canh tân đất nước .-- tránh cho đất nước khỏi sự đô hộ của Thực Dân Pháp sau này.
Than ôi , Vua Tự Đức có nghe đâu ...!!
Nguyễn Trường Tộ – một người Công giáo hết lòng vì đất nước
From: "'dinhthong3Gmail'
Cảm Ơn LM Alexandre
De Rhodes khi viết chữ Quốc Ngữ
Điểm nổi bật là các
trường học ,các bệnh viện ,các cơ sở từ thiện do Giáo Hội Công Giáo lập
ra và
trông coi chỉ có giúp DÂN.
Từ ngày Nhà Nước đòi Quản Lý hiện tượng Trộm Cắp xẩy ra
thường xuyên Khi kho thuốc của Bệnh Viện Hồng Bàng do 1 soeur ( nữ tu) coi
không mất 1 viên thuốc,sau đổi tên thành BV Phạm Ngọc Thạch kho thuốc do 1
Cán Bộ quản lý khi kiểm tra thuốc Rifadine ( thuốc chữa lao đắt tiền mất gần hêt
.
Nhìn tinh thần và cách phục vụ của Cán Bộ Y Tế Nhà Nước với các Tu
Sĩ tại các Trại Phong ( Cùi ) tại Qui Hòa (Qui Nhơn), Núi Sạn ( NhaTrang
) Di Linh ( ĐaLạt ) ta thấy sự khác biệt, một bên vì bổn phận ( bắt buộc ) một
bên vì Tình Yêu Thiên Chúa.
Gương Giám Mục Cassaigne, Mẹ Mơi, Linh Mục Bác Sĩ Cổ Tân Hưng: cả
cuộc đời phục vu người phong
cùi đáng kình phục.
Xin chuyen de nhan xet kinh nghiem :
TẠI SAO CS KHÓ KIÊM SOAT NHÀ THỜ
CG ?
Đạo CG người ta có tổ
chức chặt chẽ và đào tạo trình độ học vấn cao.
Một Linh Mục phải học Tiểu Chủng Viện, Đại CV.. Khi lên bậc Đại học, phải học
Bốn năm Thần Học và bốn năm Triết học. Ngoài ra còn tư cách đạo đức và nhiều
thử thách trước khi được chịu chức.
Hàng Giám Mục tiêu
chuần khó khăn hơn - Đại đa số có ít nhất một bằng Tiến Sĩ Gia'o
Lua^t hoặc Thần Học. Quan trong vẫn là đạo đức và uyên thâm chức nghiệp.
Cảm Ơn LM Alexandre De
Rhodes khi viết chữ Quốc Ngữ
Mới đây một nhóm người
Việt đi tìm mộ Cha Alexandre De Rhodes . Ngài chết ở Iraq .
Có thể do bị truy lùng bắt đạo gắt gao VN , nên LM Al. De Rhodes phải qua
truyền giáo ở Iraq . Ngày nay Iraq đã cố gắng nhưng cũng chưa có mẫu tự La Tinh
abc như tiếng Việt chúng ta.
Các nhà truyền giáo Dao Chua Âu Châu phát minh ra
tiếng Việt lúc đầu chi? nhắm truyền giáo trong xóm làng nghèo VN , hoặc
giảng dạy trong các nhà thờ CG mà thôi .
Hơn hai thế kỷ sau , các nhà ngôn
ngữ VN mới thấy mẫu tự La tinh hay hơn nên tìm cách loại bỏ tiếng Hán của người
Tàu và thay cách viết tiếng Nôm bằng chữ quốc ngữ như ta thấy ngày nay . Tờ báo
đầu tiên dùng chữ quốc ngữ La Tinh abc là tờ Gia Đi.nh Báo phát
hành năm 1860.
Người Công giáo VN cám ơn nhiều hơn vì có chữ quốc ngữ liên tục từ
thế kỷ 17 .
Hơn nữa các nhà truyền giáo Âu Châu đã chịu hy sinh rất nhiều vì
phải bỏ đời sống an lành sung sướng ở quê nhà , phiêu lưu nguy hiểm vào các xóm
nghèo VN .
Rất nhiều nhà truyên giao Âu Châu nhu Hoà Lan , Y , Tây Ban Nha
, Phap , Bô Dào Nha ... đã bị các vua chúa VN giết chết .
Ba cống hiến quan trọng của Công giáo
Tôi là người ngoài Công giáo,
nhưng rất tôn trọng các tín ngưỡng.
Những xung đột giữa cộng đồng
Công giáo với nhà cầm quyền trong thời gian qua là điều không đáng có. Hơn thế,
sau những xung đột đó, một số cán bộ có chức sắc đã có những đánh giá thiếu
khách quan về vai trò của giáo dân với đất nước. Điều này không có ích cho khối
đại đoàn kết dân tộc.
Để tạo được sự đồng thuận,
không có cách nào khác là phải có cái nhìn khách quan về vai trò của các tôn
giáo. Xin được điểm qua một vài cống hiến của bà con giáo dân với sự nghiệp
chấn hưng nước nhà mà tôi có dịp chứng kiến suy ngẫm.
1- Chữ quốc ngữ (MT:
Latinh Lai) và
nền văn minh của nhân loại
CHỮ LATINH LAI (QUỐC
NGỮ) LÀ NIỀM HÃNH DIỆN CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO
Trước khi các nhà truyền giáo
vào Việt Nam , hàng ngàn năm qua, người Việt vẫn dùng chữ Hán hoặc bằng chữ Nôm
trong các giao
dịch. Nhưng đa số người Việt Nam mù chữ và không thể đọc và viết được chữ Tàu,
vì hệ thống chữ viết này quá phức tạp.
Từ thế kỷ XVI,
cùng với các phát kiến hàng hải, các nhà truyền giáo theo các tàu buôn đến Việt
Nam , họ là người tiên phong trong việc dùng mẫu tự La-tinh để viết lại âm
giọng mà họ nghe được từ tiếng Việt. Đầu năm 1625, Linh Mục Alexandre de Rhodes
đến Việt Nam , đã có một số phát âm tiếng Việt được viết bằng chữ La-tinh rồi.
Trên cơ sở đó,
Alexandre de Rhodes (1591- 1660) tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cách diễn đạt này,
để rồi năm 1651, lần đầu tiên ông cho xuất bản cuốn tự điển VIỆT-BỒ-LA tại
Roma. Đây được coi là năm sinh chính thức của chữ Quốc Ngữ. Cuộc khai sinh diễn
ra tại nhà in Vatican . Chính nơi nhà in Vatican mà Việt Nam nhận được chữ
viết của mình. Như vậy, chữ quốc ngữ từ chỗ là công cụ truyền giáo trong các
nhà thờ, đã từng bước trở thành ngôn ngữ cho toàn dân Việt Nam .
Ngày nay, không ai có phủ nhận sự thuận tiện và văn minh của chữ Quốc ngữ,
chính nó đã góp phần lớn đưa đất nước VN hội nhập với thế giới dễ dàng, đơn
giản hơn nhiều ngôn ngữ khác. Những ngôn ngữ chính dùng trên thế giới như Tiếng
Anh, Tiếng Pháp… sẽ trở nên ít phức tạp hơn cho người học biết chữ quốc ngữ, so
với người dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm. Nhưng nguồn gốc và công lao của người sinh
ra ít được người ta nhắc đến, đó là sự thiếu công bằng.
(csVN cũng đã fãi kông
nhận như rứa nên đã xữ-zụng hình ãnh kũa Cha Rhodes ..)
Cùng với sự xuất hiện
chữ quốc ngữ, những nét văn minh phương Tây cũng dần dần được du nhập vào VN đi
kèm với Công giáo. Những hủ tục mê tín, dị đoan như cúng tế, bói toán… khi có bệnh
được thay vào đó là bệnh viện, nhà thương bố thí, trường học cho người nghèo…
Trước đây, nơi nào có Nhà thờ, thì ở đó có thêm trường học, nhà thương cho
những người không có khả năng chữa bệnh hoặc học hành.
Ngoài ra, nếp sống quan niệm về cuộc sống cũng dần dần được đưa
vào một cách khoa học, thiết thực hơn bởi các sản phẩm văn minh phương Tây mà
những người truyền giáo mang đến cho đất nước An Nam theo bước chân truyền đạo
của họ.
Nền văn hóa làng xã, cục bộ địa phương “sau lũy tre làng” cũng dần
dần được thay đổi với cách nhìn toàn diện và tổng thể hơn. Với người Công giáo,
bất cứ chỗ nào có giáo dân cũng là anh em, với mọi người đều là con Thiên Chúa
dù khác đạo. Điều này dễ chứng minh nếu nhìn thấy bà con công giáo khắp nơi đã
đổ về Thái Hà, về Xã Đoài… khi có những biến cố mà về mặt xã hội thì không liên
quan đến những người ở xa xôi.
Những hoạt động của các
Dòng tu trong Công giáo như Dòng Chúa Cứu Thế với linh hướng phục vụ người
nghèo, Dòng Phanxicô theo linh hướng “Sống với tinh thần nghèo khó”… đã có
những tác dụng thiết thực xoa dịu nỗi đau của những người nghèo khổ trong xã
hội. Nhìn những cộng đồng tu hành phục vụ tại các trung tâm điều dưỡng, điều
trị cho bệnh nhân AIDS, phục vụ những người đang vướng vào tệ nạn xã hội, nuôi
dưỡng trẻ mồ côi… đã thể hiện rõ điều này và được xã hội công nhận.
2- Duy trì nền kinh tế nhiều thành phần.
Thời bao cấp, do quan
niệm thời kỳ quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế chỉ có hai
thành phần chính là Kinh tế tập thể và Kinh tế quốc doanh. Mọi thành phần
khác đều không được khuyến khích và chính thức thừa nhận.
Ruộng đất, các tư liệu sản
xuất quan trọng khác và cả các loại hình dịch vụ đều phải tập trung vào hợp tác
xã. Nhưng phong trào Hợp tác hóa nông nghiệp đã dần dần thể hiện rõ những bất cập
của nó và sớm chết yểu bởi nó đi ngược với quy luật kinh tế và cách nghĩ truyền
thống của nông dân Việt Nam . Chính vì thế có thể nói đó là một mô
hình công xã ảo tưởng, nó đã tiêu diệt nền kinh tế nông nghiệp VN từ chỗ thừa gạo
xuất khẩu đến một giai đoạn từ Trung ương đến địa phương, từ quan chức đến mỗi
người dân đều chỉ lo… cái đói.
Giám mục Đinh Đức Trụ
Tuy nhiên, nhiều nơi,
đặc biệt là các vùng Công giáo vẫn có những gia đình, thậm chí là có những cơ
sở không gia nhập Hợp tác xã nông nghiệp dù bị nhiều áp lực xã hội. Chẳng hạn
theo tôi được biết, ở Thái Bình, Giám mục Đinh Đức Trụ là người đã công khai
khuyến khích giáo dân không nên vào Hợp tác xã vì nó chỉ là ảo tưởng. Vì vậy bà
con giáo dân vẫn kiên trì mô hình kinh tế hộ, và sau này vào thời kỳ đổi mới,
đường lối đó được thực tế chứng minh là đúng đắn. Cả đất nước sau mấy chục năm
Hợp tác hóa đã chấp nhận trở lại kinh tế cá thể.
Những hộ kinh tế cá thể không tham gia Hợp tác xã nông nghiệp, tự họ có thể
nuôi sống mình mà không cần trợ giúp của nhà nước. Hơn thế, họ còn có nông sản
dư thừa cung cấp cho thị trường đã là minh chứng sống cho việc khẳng định đường
lối Hợp tác xã nông nghiệp là sai lầm. Điều này giúp cho các nhà hoạch định
chính sách mạnh dạn khẳng định chủ trương chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần.
Thời kinh tế tập trung,
mọi thứ hàng hóa đều do nhà nước quản lý và đều chịu sự phân phối từ trung ương
xuống địa phương. Trong khi nhu cầu là sự đa dạng mà nhà nước thì không thể
quán xuyến hết nên trong một thời gian thực thi chính sách này, nền kinh tế dần
dần đi vào ngõ cụt, đời sống đói kém, hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng. Thế nên
dân gian mới có câu: “Cái cứt gì cũng phân mà phân thì… như cứt”.
Khi sự đói kém bao phủ toàn xã hội thì ở những làng công giáo, đời sống đỡ tệ
hơn nhiều. Làng Vĩnh Hòa thuộc xã Hợp Thành, quê tôi là một làng như vậy. Vào
thời điểm đó, trong cộng đồng bà con công giáo, nền kinh tế gia đình vẫn âm
thầm phát triển, đặc biệt là các nghề truyền thống. Do bị phân biệt đối xử nên cộng
đồng bà con công giáo vẫn ngầm “móc ngoặc” nhau sản xuất hàng hóa và tiêu thụ
trong cộng đồng rồi tuồn ra bên ngoài. Sau này tìm hiểu được biết thêm, không
chỉ ở làng Vĩnh Hòa quê tôi mà cả các khu vực khác đông đồng bào Công giáo như
Phát Diệm, Bùi chu… các ngành nghề phụ vẫn âm ỉ hoạt động và cung ứng hàng hóa
cho xã hội.
Nhờ sự linh hoạt đó, nên
khu vực kinh tế tư nhân mà nhà cầm quyền quyết tâm tiêu diệt đã không chết. Đặc
biệt là trong cộng đồng Công giáo. Để rồi, khi dỡ bỏ chính sách cấm đoán đó,
thành phần kinh tế này được dịp trỗi dậy, làm sinh động của nền kinh tế.
Hiện tượng này vẫn được đảng ta gọi là: “Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo”
3- Tiên phong hội nhập
So với các tôn
giáo khác, Công giáo là cộng đồng dân cư đa sắc tộc, đa quốc nhất. Trải dài từ
Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam , hơn 175 nước và vùng lãnh thổ có bà con Công
giáo sinh sống, nhưng tập trung một tỷ lệ lớn nhất ở các nước phương Tây. Chính
vì sợi dây liên lạc này, nên ngay cả khi cấm đoán đang ở vào thời điểm cao trào
thì cộng đồng Công giáo vẫn duy trì liên lạc với các tín hữu của mình ở ngoài
biên giới quốc gia.
Những công trình Công
giáo nguy nga, rộng lớn dành cho việc thờ tự đã là một nét văn hóa không thể
tách rời từ lâu của nền văn hóa Việt Nam . Việc xây dựng các công trình đó đã
đem đến cho Việt Nam những quan niệm ban đầu về một lĩnh vực mới về kiến trúc
và xây dựng hiện đại… thoát ra khỏi những quan niệm xây dựng tranh tre lá nứa hoặc
vôi cát từ lâu đã in sâu đậm trong quan niệm người Việt.
Cùng với đó, những nhà truyền giáo ngoại quốc vào Việt Nam khiến
nhu cầu học tập ngôn ngữ nước ngoài cũng đã dần dần xuất hiện và cổ vũ cho sự
tìm hiểu thể giới bên ngoài bắt đầu từ những cá nhân trong chính Công giáo như
Nguyễn Trường Tộ…
Nguyễn Trường Tộ – một người
Công giáo hết lòng vì đất nước – sinh năm 1830 tại làng Bùi Chu, huyện Hưng
Nguyện, tỉnh Nghệ An. ( không phải huyện Nghi Lộc đã ghi sai )
Việc sinh hoạt cộng đồng
đã từng bước thay đổi cách sinh hoạt truyền thống của người Việt. Cùng kiến
trúc là âm nhạc, hội họa là những môn nghệ thuật mới tạo ra sự khác biệt trong
sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Việt xưa. Thông qua những sinh hoạt
như vậy, người Việt Nam vượt qua được chính những định kiến, những tư tưởng cục
bộ địa phương… đó được coi là những mầm mống đầu tiên cho sự hội nhập của đất
nước sau này.
Cũng cần nói thêm, cuộc
di cư vĩ đại từ Bắc vào Nam năm 1954 hầu hết là bà con Công giáo. Sau năm 75,
là cuộc di tản vĩ đại sang các nước không cộng sản, trong đó chiếm tỷ trọng lớn
là bà con Công giáo. Một tỷ lệ lớn người Việt ở Mỹ là bà con Công giáo. Họ là
người có điều kiện tiếp cận với thể chế văn minh, dân chủ phát triển ở trình độ
cao.
Khi nhà nước Việt Nam mở cửa, họ là những người đầu tiên về nước hoặc là gửi
ngoại tệ về giúp thân nhân ở trong nước. Cùng với đó là hàng hóa, dịch vụ...
Điều này giúp cho Việt Nam giảm căng thẳng về sự khan hiếm kéo dài trong những
năm bao cấp. Hơn thế là cách thức tổ chức làm ăn, cách thức tổ chức đời sống và
ý thức chấp hành pháp luật của một xã hội pháp quyền.
Có thể nói, cộng đồng
công giáo là những người tiên phong hội nhập.
Trên đây là những cảm nhận được của riêng tôi,
có thể các bạn có những phát hiện khác, xin mời có
ý kiến tham gia!
Phan Thế Hải
__._,_.___
Posted by: Doan Thu