Tản
mạn cuối năm
Tương Lai
Những ngày cuối năm
2014 dồn dập những tin gợi nhiều suy ngẫm. Cuộc chiến giá dầu đã làm thay đổi
những toan tính chiến lược của nhiều quốc gia trên thế giới. Chỉ riêng việc áp
dụng kỹ thuật mới trong cách khai thác dầu mỏ, Mỹ đã giành thế chủ động chiến lược
trong đối phó với những đối thủ như Iran, Nga, và rồi sẽ là Trung Quốc. Xin
chép lại đây một bình luận sắc sảo nhặt được trên mạng:
“Nước Nga mạnh lên
trong 10 năm nhờ khủng hoảng kinh tế Hoa Kỳ, vì chỉ biết bán tài nguyên dầu
hỏa, khí gas để ăn. Nước Nga mạnh lên thì Hoa Kỳ và Trung Cộng cũng khốn khổ vì
giá dầu tăng, vì họ là những quốc gia đứng thứ nhất và thứ hai sử dụng dầu
nhiều nhất thế giới. Ông Putin đã gặp thời khi lên nắm quyền ngay lúc giá dầu
tăng, thực ra ông không có tài năng gì, ngoài tư tưởng và hành động độc tài
được nuôi dưỡng từ thời cộng sản Liên Xô. Nay giá dầu xuống. Nước Nga khốn đốn.
Ông Putin quen là lãnh đạo ăn bám của để dành của tổ tiên. Nay không có sáng
kiến gì để vực nước Nga, vì hơn 200 ngàn tài năng khoa học Nga đã bị chảy chất
xám sang phương Tây và Hoa Kỳ trong 12 năm cầm quyền của ông. Quanh ông không
còn ai biến nước Nga trở thành một quốc gia hùng mạnh nhờ vào trí tuệ, mà chỉ
là những kẻ ăn bám như ông.
Oil dollar đã làm mưa,
làm gió suốt 10 năm qua. Giờ đã đến lúc mưa tạnh, gió hòa. Cũng là lúc Hoa Kỳ
hùng mạnh trở lại. Cũng là lúc Trung Cộng chật vật với bong bóng đầu tư. Cũng
là lúc mà nếu ông Putin muốn trợ giá đồng Rub của mình thì, 400 tỷ dollar dự trữ
từ bán dầu và khí gas của nước Nga chỉ có thể dùng trong 60 ngày!
Và rồi sự kiện
Ukraine, một nhà xã hội học ở Matscơva phang một câu gọn thon lỏn: “Nước Nga
giống như một chiếc máy bay: chỉ có một phi công điều khiển, phần còn lại thì
nôn oẹ” . Cuộc xung đột ở Ukraine có thể là chết người đối
với chế độ Putin giống như Thế chiến I cho Sa hoàng Nicholas I, hay sự can
thiệp của Liên Xô ở Afghanistan cho chế độ Xô Viết. Putin có lẽ sẽ không rút
quân khỏi Lugansk và Donetsk. Nhưng để đóng băng cuộc xung đột sẽ rất tốn kém
về tài chính và chính trị. Putin nói rằng cuộc khủng hoảng ở Nga sẽ kéo dài
nhiều lắm là hai năm. Đây không phải là sự dối trá lần đầu tiên hay cuối cùng.
Ông ta thuyết phục mọi người rằng cho mọi thứ là do người Mỹ, và có vẻ như ông
ta cũng tin vào điều vô nghĩa này.
Có những người Nga
tiếp nhận những lời nói này trong đức tin – phòng thủ chống lại phương Tây cần
phải tập trung xung quanh nhà lãnh đạo. Nhưng cũng những người này cuối cùng sẽ
hỏi, giá trị của nhà lãnh đạo là gì khi khuấy lên rắc rối với cả thế giới. Và
sau đó, khi nói về Ukraine, họ sẽ lặp lại những lời của Andrei Sakharov về cuộc
chiến ở Afghanistan – “một cuộc chiến đáng xấu hổ”. Thiếu suy nghĩ và độc ác.
Nỗi bất hạnh của nước Nga.
Nhưng có lẽ điều bất
ngờ lớn lại là sự xuất hiện và lan tỏa ảnh hưởng đáng sợ của IS, điều chưa ai
hình dung nổi trước đây một năm. IS liệu có phải là một chương mới kể từ ngày
11.9. 2001, bọn khủng bố quốc tế biến những chiếc máy bay thành những quả bom
tự sát lớn nhất trong lịch sử để đánh vào tòa tháp đôi ở New York, biểu tượng
của nước Mỹ, gây nên một chấn động toàn cầu và kéo theo nó những sự kiện mà
diễn biến của nó ngày càng khó lường cho đến hôm nay và chắc sẽ không chỉ hôm
nay. Cùng với những hiện tượng chưa có tiền lệ đó là biết bao những sự kiện xảy
ra mà các bình luận gia nổi tiếng của thế giới xem ra bất lực trong những gì họ
đã cố gắng đưa ra những kiến giải.
Có thể còn phải kể
nhiều nữa những hiện tượng, những sự kiện của những ngày cuối năm 2014, nhưng
với trình độ hạn hẹp của người ĐIỂM TIN như tôi thì sự kiện tác động mạnh đến
cảm nhận và dòng tư duy của người điểm tin chính là sự kiện diễn ra vào ngày
thứ Tư 17.12.2014, ngày Tổng thống Obama lẫn Chủ tịch Cuba Raul Castro đồng
thời loan báo bình thường hóa mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Cuba, một “quyết định
lịch sử”.
Là quyết định lịch sử
vì nó “cho ta thấy tầm quan trọng của việc theo đuổi thế giới
như nó phải là, chứ không chịu bằng lòng với một thế giới như nó hiện là”. Đây
là lời của Obama trong phát biểu cám ơn Đức Giáo hoàng Phanxicô về vai trò của
Giáo hoàng trong diễn trình bình thường hóa dẫn đến kết quả mà nhân dân Cuba
khắc khoải chờ đợi cũng như nhân dân Mỹ mong muốn.
Tuy vậy, theo giáo sư
François Durpaire, tác giả tập biên khảo “Lịch sử nước Mỹ”, thì “Một
trong những lý do thúc đẩy việc chuẩn bị bình thường hóa quan hệ giữa Cuba và
Hoa Kỳ là hậu thuẫn của công luận Mỹ: 67% người Mỹ ủng hộ xu hướng bình thường
hóa bang giao. Tóm lại dư luận Mỹ đã chuyển biến. Và trong vụ này, Barack Obama
đã thúc đẩy công luận Mỹ thay đổi, với hai động thái trong năm 2014 này. Đầu
tiên là hình ảnh Tổng thống Mỹ Barack Obama bắt tay Chủ tịch Cuba Raul Castro
tại sân vận động Soweto ở Nam Phi nhân lễ tưởng niệm cố lãnh đạo Nam Phi Nelson
Mandela. Sau đó là lời khen của Ngoại trưởng John Kerry đối với Cuba, về vai
trò của nước này trong cuộc đấu tranh chống dịch Ebola tại Sierra Leone và
Guinéee.
Tóm lại, công luận Mỹ
rốt cuộc đã dần dần thay đổi cái nhìn, và trong công chúng Mỹ, có các công dân
Mỹ gốc Cuba. Bộ phận kỳ cựu nhất thuộc các hiệp hội chống Castro và luôn luôn
giữ một lập trường cực kỳ cứng rắn chống lại việc bình thường hóa, nhưng con
cháu của họ, các công dân Mỹ, lại đã thay đổi cách nhìn vấn đề và tương tự như
đa số người Mỹ khác, mong muốn quan hệ Mỹ-Cuba được bình thường hóa.
Thế là sau hơn nửa thế
kỷ thù địch và cấm vận, sư vận động của cuộc sống đã bác bỏ những cái như
nó hiện là để dẫn đến cái như nó phải là đúng với quy
luật. Nhưng có lẽ cũng cần nhớ rằng, những người thích nói và hay nói đến cái
gọi là quy luật ấy nên hiểu về tính phức tạp của những biến động với những bước
đột phá đôi khi nhìn bề ngoài có vẻ ngẫu hiên, rất khó lường, nhưng chính là
thông qua vô vàn những ngẫu nhiên ấy mà tính tất nhiên biểu hiện ra.
Chẳng thế mà nhiều
chuyên gia và nhà ngoại giao tại La Habana đều cho rằng việc xích lại gần với
Mỹ không thể có được nếu Fidel Castro còn lãnh đạo. Là khuôn mặt của cuộc chiến
tranh lạnh, ông đã thách thức được 11 đời Tổng thống Mỹ khác nhau, thoát chết
qua rất nhiều âm mưu ám sát…Những lời lẽ đả kích chủ nghĩa đế quốc Mỹ của ông
vẫn còn được tất cả mọi người ghi nhớ, và ngay cả trước khi chinh phục được
quyền lực năm 1959 còn thổ lộ rằng cuộc chiến chống Mỹ là “định mệnh”
thực sự của mình.
Nhà ngoại giao phương
Tây trên đây nhận định: “Fidel tuyệt đối chống Mỹ, trong khi Raul có tầm
nhìn thực dụng hơn, đặt lên hàng đầu những gì có lợi nhất cho đất nước”.
Trên thực tế, với những cải cách của mình, với các tuyên bố hòa dịu và chính
sách ngoại giao, Raul đã chuẩn bị cái nền cho mối quan hệ mới với người láng
giềng khổng lồ, có thể mang lại các tác động có lợi cho người dân Cuba.
Chính vì vậy mà, trên
thực tế, Gabriel Molina, khuôn mặt kỳ cựu của báo chí Nhà nước Cuba và là cựu
chủ nhiệm nhật báo lớn Granma khẳng định: “Fidel không thể ra mặt, nhưng đây
là thành tựu của nỗ lực ngoại giao trong đó ông ấy có nhúng tay vào, chắc chắn
là như thế”.
Năm nay đã 88 tuổi,
lần cuối cùng Fidel xuất hiện trước công chúng là vào tháng 1/2014. Theo một
viên chức Mỹ, Fidel Castro không tham gia các cuộc thương thảo được tiến hành
vô cùng bí mật từ tháng 6/2013 dưới sự bảo trợ của Canada, và sự ủng hộ mang
tính quyết định của Đức Giáo hoàng Phanxicô.
Nhưng đa số các nhà
quan sát ở Cuba cho rằng việc xích lại gần người láng giềng bị phỉ nhổ trước
đây đã được Fidel tán thành, vì Raul không bao giờ muốn qua mặt người anh nổi
tiếng. Khi lên nối ngôi năm 2006, Raul đã khẳng định: “Fidel là người không
thể thay thế được. Tất cả những quyết định quan trọng đều sẽ tham khảo ý kiến
của ông”. Hôm thứ Tư, Raul đã nhiều lần nêu tên Fidel, nhắc lại
lời hứa năm 2001 và nhấn mạnh rằng mặc cho tiến trình hòa giải, Cuba không hề
nhượng bộ trong những vấn đề chủ chốt… như Fidel Castro đã tuyên bố trước đây.
Đương nhiên, làm sao
mà không tuyên bố như thế được. Và cũng không lạ là ngay trong tiến trình đầy
hân hoan với nhiều viễn ảnh ngoạn mục như: sau việc trả tự do cho các gián điệp
bị tù lâu năm của cả hai phía, trên nhà dân chủ Cuba bị tù do phía Hoa Kỳ đưa
ra, các sứ quán sẽ được mở lại, rồi du lịch, rồi buôn bán, rồi ngân hàng sẽ
được mở ra… Tổng thống Obama sẽ đến La Habana và Chủ tịch Raun Castro sẽ đến Mỹ
thì ngày 30/12/2014, chính quyền Cuba đã câu lưu 51 nhà đối lập để ngăn cản họ
tổ chức một cuộc tập họp công khai. Ngay lập tức, Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 31/12
đã ra thông cáo lên án việc chính quyền La Habana “tiếp tục sách nhiễu, bắt
giữ tùy tiện, đôi khi rất thô bạo, để bịt miệng những người chỉ trích”.
Bất chấp thông cáo nói
trên, hôm qua, đúng ngày đầu năm 2015, cảnh sát Cuba lại câu lưu hàng chục nhà
đối lập, khi họ kéo đến một nhà tù ở La Habana để đòi trả tự do cho những nhà
đối lập khác. Chiến dịch đàn áp này sẽ càng khiến cho những người chỉ trích
việc Hoa Kỳ Cuba xích lại gần nhau có thêm lý lẽ để phản đối. Những người này,
mà trong đó có nhiều nghị sĩ Quốc hội Mỹ, vẫn cho rằng lẽ ra Washington trước
hết nên đòi La Habana có những nhân nhượng về mặt nhân quyền, trước khi cam kết
sẽ bình thường hóa bang giao giữa hai nước. Mặc dù chủ tịch Raul Castro đã
tuyên bố sẵn sàng thảo luận về mọi chủ đề với Tổng thống Barack Obama, nhưng
ông đã nói ngay là sẽ không thay đổi chính sách và sẽ không nhân nhượng trên
những vấn đề mà ông cho là thuộc chủ quyền quốc gia, trong đó dĩ nhiên là có
vấn đề nhân quyền.
Sẽ hiểu hơn những diễn
biến đó nếu lưu ý đến bình luận của George Friedman trên Stratfor Global
Intelligence ngày 23.12.2014: “Quan hệ HK-Cuba đã giá băng
trong nhiều thập kỷ, với không bên nào sẵn sàng nhượng bộ đáng kể hoặc thậm chí
có những buớc đi đầu. Nguyên nhân một phần là do chính trị nội bộ của mỗi nước
mà nó làm cho việc lạnh nhạt được khuyến khích. Về phía HK, liên minh của người
Mỹ gốc Cuba, các nhóm bảo thủ và các nhóm bảo vệ nhân quyền chỉ trích sự vi
phạm nhân quyền của Cuba và ngăn chặn nỗ lực. Về phía Cuba, sự thù nghịch với
Hoa Kỳ đóng một vai trò then chốt trong việc duy trì chính đáng tính cho chế độ
cộng sản. Không chỉ chính quyền được sinh ra để chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ, mà
Havana cũng còn sử dụng lệnh cấm vận của HK để giải thích cho những thất bại
kinh tế của Cuba. Không có áp lực bên ngoài để thúc đẩy hai bên tuơng nhuợng
nhau, và có nhiều lý do nội bộ đáng kể để duy trì tình trạng ngưng đọng như
vậy.
Người Cuba bây giờ
đang bị một số áp lực để chuyển dịch chính sách của họ. Họ đã tìm cách để tồn
tại sau sự sụp đổ của Liên Xô với những khó khăn. Bây giờ họ phải đối diện với
một vấn đề cấp bách ngay trước mắt: sự bất ổn của Venezuela. Caracas cung cấp
dầu cho Cuba với sự giảm giá rất lớn. Thật khó có thể nói nền kinh tế của Cuba
gần bờ vực như thế nào, nhưng rõ ràng là dầu của Venezuela đã tạo ra một sự
khác biệt đáng kể. Chính quyền của Tổng thống Venezuela, Nicolas Maduro, đang
phải đối mặt với tình trạng bất ổn đang tăng tốc cho những thất bại về kinh tế.
Nếu chính phủ Venezuela sụp đổ, Cuba sẽ mất đi một trong những trụ cột nền móng
để chống đỡ chế độ. Số phận của Venezuela vẫn còn chưa biết được như thế nào,
nhưng Cuba phải đối mặt với khả năng của một kịch bản xấu nhất có thể xảy ra
này, và phải tạo điều kiện cho việc mở cửa. Mở cửa sang Hoa Kỳ thì hợp lý trong
việc duy trì chế độ…. Không ai biết được tương lai. Cuba muốn duy trì chế độ và
tìm cách giải tỏa áp lực từ Hoa Kỳ. Tại thời điểm này, Cuba thực sự không quan
trọng. Nhưng khi thời gian đi qua, không ai có thể đảm bảo rằng nó sẽ không trở
nên quan trọng. Cho nên, chính sách của HK nhấn mạnh vào sự thay đổi chế độ
trước khi giải tỏa áp lực. Với việc Cuba quyết định duy trì chế độ, thì Cuba có
gì để cho? Họ có thể hứa trung lập vĩnh viễn, nhưng cam kết như vậy không có
giá trị nhiều.
Cuba cần quan hệ tốt
hơn với Hoa Kỳ, đặc biệt là nếu chính quyền Venezuela sụp đổ. Với nền kinh tế
nghèo nàn của Venezuela thì có thể, về mặt lý thuyết, Cuba buộc phải thay đổi
chế độ do từ áp lực nội bộ. Hơn nữa, Raul Cátro đã già và Fidel Cátro đã rất
già. Nếu chính quyền Cuba cần phải duy trì, nó phải được bảo đảm ngay từ bây
giờ, bởi vì hiện giờ không được rõ là những gì sẽ nối tiếp khi hậu Castros.
Nhưng Hoa Kỳ có yếu tố thời gian, và mối quan tâm về Cuba là một phần trong DNA
của HK. Không có sự lo lắng trong hiện tại, thì duy trì áp lực là điều không có
ý nghĩa. Nhưng Washington cũng không có sự khẩn cấp để chấm dứt nó cho Havana.
Obama có thể muốn có một di sản, nhưng logic của tình hình là Cuba cần điều này
hơn HK, và cái giá của HK cho việc bình thường sẽ cao hơn khi nó xuất hiện ở
thời điểm này, cho dù được thiết lập bởi Obama hay người kế nhiệm ông”.
Sự kiện Cuba khiến
người điểm tin này quan tâm không phải chỉ vì ai đó từng phởn lên mà nhắc lại
câu nói ngô nghê của một thời duy chí về chuyện “anh thức tôi ngủ”! Mà
vì, những bình luận nói trên của George Friedman gợi lên những ý tưởng cũng
hao hao giống với ý tưởng của Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Tom Malinowski:
“Hiện có một cơ hội
lịch sử để xây dựng một mối quan hệ gần gũi hơn nhiều giữa Hoa Kỳ và Việt Nam
nhưng chúng tôi không muốn đó là một mối quan hệ đổi chác, tức là chúng tôi đến
với Việt Nam khi chúng tôi cần họ vì một cái gì đó và phía Việt Nam đến với
chúng tôi khi họ cần chúng tôi vì một cái gì đó”. Trước đó Trợ
lý Ngoại trưởng Mỹ đã từng tuyên bố rằng phía Mỹ muốn mối bang giao với Hà Nội
“sâu sắc và bền vững hơn như các mối quan hệ đối tác của Mỹ với các bạn hữu
và các đồng minh thân thiết nhất ở châu Á, châu Âu cũng như những nơi khác”.
Nên hiểu Hoa
Kỳ không muốn “quan hệ đổi chác” với Việt Nam theo hướng nào đây? Đài
VOA bình luận: “Trong bối cảnh Trung Quốc có nhiều hành động mạnh mẽ khẳng định
chủ quyền trên biển Đông, Việt Nam cũng củng cố quan hệ, nhất là về quân sự,
với Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ. Vào những tháng cuối năm 2014, Washington dỡ bỏ một
phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Hà Nội “nhằm tăng cường
an ninh và trinh sát trên biển”.
Theo các nhà quan sát,
quyết định của Washington cho thấy sự tin cậy chiến lược giữa hai nước trong
khi Mỹ theo đuổi chính sách xoay trục về châu Á giữa lúc Trung Quốc đang trỗi
dậy. Ngoại trưởng John Kerry cũng nói, một đất nước Việt Nam vững mạnh,
thịnh vượng, độc lập, tôn trọng pháp luật và nhân quyền đã, đang và sẽ là người
bạn đồng hành không thể thiếu được của Hoa Kỳ. Chúng ta sẽ sớm kỷ niệm 20 năm
quan hệ hữu nghị Mỹ – Việt. Còn trợ lý Ngoại trưởng Mỹ thì nhấn mạnh
rằng mối quan hệ Hà Nội – Washington cần phải “dựa trên những giá trị chung”,
và đó là lý do vì sao Hoa Kỳ “nhấn mạnh rất nhiều tới vấn đề nhân quyền”.
Tân Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Ted Osius, cũng tuyên bố rằng ông sẽ “thẳng
thắn và trực tiếp nói với các lãnh đạo ở Hà Nội rằng việc chính phủ Việt Nam
tôn trọng nhân quyền sẽ làm cho họ mạnh hơn, chứ không phải yếu đi, đồng thời
tiềm năng của mối quan hệ đối tác cũng sẽ phát triển”.
Đề cập đến những sự
kiện liên quan đến chủ đề này, đài BBC bình luận về việc Việt Nam có nên “tin
tưởng hay không”vào những tuyên bố được cho là “ngoại giao hòa hoãn”,
“hạ giọng, mềm dẻo” của nhà cầm quyền Trung Quốc qua chuyến
thăm Việt Nam ba ngày diễn ra vào cuối tuần trước của Du Chính Thanh, BBC dẫn
lời Giáo sư Vũ Minh Giang mà họ lưu ý ông này là “nguyên thành viên Hội đồng
Lý luận Trung ương, cơ quan tư vấn đường lối chiến lược cho Bộ Chính trị và Ban
bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam”:
“Đối với Trung
Quốc, có lẽ kinh nghiệm từ xa xưa cho đến bây giờ nó vẫn không thay đổi bao
nhiêu. Đó là cố gắng hết sức trong quan hệ ngoại giao, nhưng thực tế như thế
nào thì phải là câu chuyện phải chờ […]Chứ không thể tin ngay vào
những cử chỉ của quan chức, cho dù là cao cấp đến đâu, của Trung Quốc. Đó là
thực tế lịch sử, chứ không phải là muốn hay không muốn, thích hay không thích.
Vì vậy cho nên tôi không kỳ vọng nhiều lắm vào chuyến thăm của ai đó, cho dù là
thứ mấy của Trung Quốc, sang Việt Nam…”Đối với Trung Quốc, tôi vẫn có
một cách nghĩ. Đó là hãy quan sát họ làm trên thực tế, chứ những gì họ nói thì
quá hay rồi, phải nói là không thể nói hay hơn được […] Việc
Trung Quốc họ thực hiện từng bước mục tiêu của họ thì mình cũng không ngăn cản
được, đó là mục tiêu của họ dồn toàn lực họ làm, thế nhưng họ làm được hay
không là phụ thuộc rất nhiều vào phía Việt Nam.
Theo Giáo sư Giang,
nhận thức của lãnh đạo Việt Nam đã thay đổi rõ rệt vào đầu năm 2015 so với thời
điểm một năm về trước khi bước vào năm 2014, sau khi diễn ra vụ Trung Quốc hạ
đặt giàn khoan Hải Dương 981 trên Biển Đông.
Nhà nghiên cứu sử học
và địa chính trị nói: “Tôi nghĩ rằng Trung Quốc – Việt Nam vào thời điểm
bước vào năm 2015 nó khác xa với bước vào 2014 trước khi có vụ Hải Dương 981,
khác xa rồi”. Không có một “bật đèn xanh” nào đó, chắc là vị
giáo sư nguyên là… như BBC nhấn mạnh, sẽ không có được khẩu khí kiểu này cho dù
đã cố đưa ra một câu rất chi là lạc quan đáng ngờ: “Trước kia còn có người
nói thế này, người nói thế kia, bây giờ ở Việt Nam, tôi thấy chỉ là sách lược
thế này, thế kia, chứ trên dưới đồng lòng về nhận thức về Trung Quốc”.
Phải chăng chính vì
vậy, khi được hỏi Việt Nam nên tiếp tục chiến lược ngoại giao như cũ, hay cần
đổi mới khác đi, Vũ Minh Giang lại cho rằng Việt Nam vẫn cần tiếp tục kiên định
với chính sách “đa phương” quan hệ và “ba không” để giữ “độc lập” và tránh “đối
đầu” với Trung Quốc. Ông nói: “Kinh nghiệm của Việt Nam cho hay, cho đến nay
Việt Nam có được những thành công trong quá trình phát triển của mình, là ở chỗ
phải giữ được độc lập”.
Khác với ông Giang,
một nhà nghiên cứu về quan hệ quốc tế và khu vực từ Đại học Quốc gia Hà Nội,
Tiến sĩ Khoa học Lương Văn Kế khẳng định với BBC cho rằng tham vọng và chính
sách chiến lược của Trung Quốc về Biển Đông là không thay đổi. Và do đó, ông
đặt vấn đề Việt Nam cần điều chỉnh chính sách “ba không” của mình, mà theo đó
Việt Nam cam kết “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân
sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam
và không dựa vào nước này để chống nước kia.”.
Bình luận mới đây về
khả năng Trung Quốc lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ) trên Biển Đông cùng
các động thái được cho là đe dọa chủ quyền khác với Việt Nam, Tiến sĩ Kế nói: “Trong
sự cạnh tranh với Trung Quốc, hay tìm kiếm một sự cân bằng với Trung Quốc, thì
tôi nghĩ Việt Nam không thể chỉ dựa vào sức mình mà phải dựa vào các lực lượng
khác. Mà tôi hoàn toàn tán thành một chủ trương là cần
phải lựa chọn các đối tác an ninh ở khu vực để cân bằng sức mạnh, hay để vô
hiệu hóa sự đe dọa hay là mối nguy từ phía Trung Quốc. Và Việt Nam
không thể nào một mình thực hiện theo chủ trương tôi gọi là “tuyệt đối ba
không” được. Bởi vì nếu thực hiện “ba không” như vậy, thì mối nguy
an ninh là rất rõ và tiềm chứa một nguy cơ là Trung Quốc sẽ ỷ thế vào và yêu
cầu Việt Nam không được làm trái với điều mà Trung Quốc nói là “hoàn toàn nói
ngược”.
“Chúng ta tuyên bố
“ba không”, thì không có lý do gì chúng ta liên minh với các nước khác để cân
bằng với Trung Quốc, cho nên tôi nghĩ đến lúc chúng ta phải xét lại để hiểu thế
nào là “ba không”. Trong trường hợp Tổ quốc lâm nguy hoặc toàn bộ
không gian Biển Đông bị đe dọa, thì tôi nghĩ Việt Nam phải triển khai một chiến
lược an ninh kết hợp các quốc gia khác. Chúng ta không phải liên minh nước này
chống nước kia, nhưng chúng ta rõ ràng cần phải có sự hỗ trợ quốc tế và các thế
lực có sức mạnh thực sự, có thể ủng hộ Việt Nam đảm nhiệm được sứ mệnh đảm bảo
hòa bình và an ninh ở Biển Đông.”
Xem ra, từ những thông
tin và bình luận vừa dẫn ra thì cái câu ngô nghê dẫn ra ở trên lại có thể vận
dụng dưới cái dạng phản đề của nó ở chỗ: chuyện người anh em “thức-ngủ” đang
“xoay trục” kia không khỏi khiến ai đó giật mình. Thì chẳng phải là Trung Quốc
đang rất sợ Việt Nam tuột khỏi vòng kiềm tỏa của họ đó sao? Chẳng thế mà tìm
mọi cách ngăn cản Việt Nam gia nhập TPP là việc Trung Quốc đang ra sức xúc
tiến.
Điều mà ngài Du Chính
Thanh phải vội vã “sang thăm” Việt Nam vừa rồi đã được cụ Nguyễn Trọng Vĩnh kịp
thời vạch rõ:
“Chừng hơn một tuần
trước đây báo, đài đưa tin: “Theo lời mời của Ủy ban trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam”, Chủ tịch Hội nghị chính trị hiệp thương TQ sắp
sang thăm nước ta, nhưng khi ông ta đến thì tối ngày 26/12 TV lại đưa tin là: “Theo
lời mời của lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Theo cách đưa tin trên
thì ông Du Chính Thanh sang thăm, gặp và làm việc với các nhà lãnh đạo quan
trọng Việt Nam là chính… dù trước đó có hội đàm với Ủy ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, tổ chức tương đương chỉ là phụ và cho phải phép ngoại giao.
Ông Du Chính Thanh thăm
Việt Nam trong bối cảnh: Đảng Cộng sản Việt Nam đương khẩn trương chuẩn bị Đại
hội XII; nhân dân Việt Nam bất bình về việc TQ lấp đất đá trong cụm bãi đá Gạc
Ma cướp của Việt Nam năm 1988 và sắp hoàn thành một căn cứ quân sự có đường
băng, có cảng nổi, uy hiếp quần đảo Trường Sa của Việt Nam; Tổng tham mưu
trưởng báo cáo trước Quốc hội cảnh giác đối với mưu đồ chiếm trọn biển Đông của
nhà cầm quyền TQ; Việt Nam tổ chức những cuộc triển lãm đầy đủ tư liệu lịch sử,
pháp lý về quyền sở hữu của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, còn đưa ra cả bản đồ cũ của TQ xác định biên giới tận cùng của họ chỉ đến
đảo Hải Nam; Việt Nam đã nộp hồ sơ lên Tòa án trọng tài quốc tế, đề nghị Tòa án
trú trọng đến quyền và lợi ích của Việt Nam khi xét xử vụ Philipine kiện TQ,
Tòa án, chấp nhận xem xét đề nghị của Việt Nam và cho biết đương xem xét đề
nghị của Hà Nội yêu cầu bảo vệ các quyền lợi của họ trong vụ việc; Việt Nam
thăm Philipine, quan hệ tốt với Nga, hợp tác đối tác chiến lược với Nhật Bản,
Ấn Độ. Mỹ đã đồng ý bán vũ khí sát thương cho Việt Nam…
Bối cảnh trên đây thôi
thúc nhà cầm quyền TQ phải hành động. Họ cử một Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị
sang thăm nhằm thực hiện nhiều mục đích….”
Vì thế, cụ Vĩnh quyết liệt cảnh báo:
“Cần tỉnh táo, chớ
vội tin vào những lời hữu nghị giả dối, phải xem những việc nhà cầm quyền TQ
làm.
Mọi người Việt Nam có
lương tri, có lòng yêu nước luôn phải cảnh giác với chủ nghĩa bành chướng Đại
Hán chưa bao giờ từ bỏ ý đồ thôn tính Việt Nam.
Thực hiện dân chủ!
Xiết chặt khối đại
đoàn kết các dân tộc!
Mọi quyết định của Đại
hội đều vì nước, vì dân Việt Nam không cho thế lực nào chi phối!
Phát huy tình thần tự
chủ tự cường!
Bảo vệ vững chắc độc
lập chủ quyền của tổ quốc Việt Nam!”.
Rõ ràng là, chỉ điểm
xuyết một vài thông tin nhặt nhạnh từ trên mạng về những hiện tượng nổi bật vào
những ngày cuối năm 2014 bước sang 2015, những dữ kiện làm điểm tựa cho những
suy ngẫm về thời cuộc đã thấy có quá nhiều vấn đề phải suy ngẫm. Đó là những dữ
kiện có ý nghĩa lớn lao thôi thúc những cái đầu biết tư duy phải tự nhìn lại sự
hạn hẹp của nhận thức đã có, rà soát lại, nhặt ra những thô thiển, những ngộ
nhận, những sai lầm để tự bổ sung cho mình những tri thức mới, giúp thay đổi
cách nhìn, cách nghĩ sát với sự vận động của cuộc sống.
Thời điểm mà chúng ta
đang sống quả là một thời điểm đặc biệt, là một sự dồn nén về không gian và
thời gian được bộc phát trong tư tưởng, trong nhận thức. Có người cho rằng
chúng ta đang tiếp cận với một thế giới mà độ phức tạp của nó đã vượt quá năng
lực trí tuệ phán đoán của con người. Hệ thống lớn với những tầng cấu trúc cực
kỳ phức tạp như xã hội loài người lại đang ở trong một thời kỳ mà các quy luật
của lượng biến thành chất và phủ định của phủ định bột phát, tác động đa trùng
ở nhiều tuyến, nhiều diện, cộng hưởng trong không gian và hội tụ trong thời
gian.
Người ta hiểu ra rằng,
dường như quá khứ dừng lại ở đây, tương lai không còn là sự nối tiếp giản đơn
theo tuyến tính của cái đã xảy ra. Sự biến đổi chính là một hằng số trong thế
giới đầy bất định khó mà tiên liệu trước. Năm 2014 với những biến động dữ dội
của chúng, trong đó, có những hiện tượng cừa dẫn như sự xuất hiện và lan tỏa
ảnh hưởng đáng sợ của IS chẳng hạn, điều chưa ai hình dung nổi, là một ví dụ.
Cùng với những hiện tượng chưa có tiền lệ đó là biết bao những sự kiện xảy ra
đã thực sự đang “phá vỡ nguyên trạng” với nghĩa đen và nghĩa bóng mà các bình
luận gia nổi tiếng của thế giới xem ra vẫn bất lực trong những gì họ đã cố gắng
đưa ra. Đó là thế giới mà tôi đang sống và đang suy ngẫm về nó.
Trong kỷ nguyên của
những biến động dữ dội ấy, một sự chậm đổi mới nào cũng đều phải trả giá. Không
thể đi mãi trên một con đường mòn đã được vạch sẵn mà chặng đường 40 năm qua đã
đưa đất nước chúng ta đến cái kết quả không tương xứng với xương máu đã đổ ra
trên đất nước thân yêu của chúng ta cho dù đã có không ít những cố gắng, những
thành tựu không thể và không được phủ nhận. Đó là một sự thật.
Cách nay đã 15 năm,
khi bước vào thiên niên kỷ mới mở đầu với thế kỷ XXI, về “con đường mòn” ấy tôi
có viết trên một bài báo Tết: Quen với con đường mòn, người đi sau dẫm
lên dấu chân của người đi trước, sẽ dẫn đến thảm hoạ vì con đường mòn đó không
có lối ra trong một thế giới đầy biến động với những bước đột phá mà mọi sự dự
đoán đều không chắc chắn. Giờ đây nhìn lại, những “thảm họa” đã diễn ra còn
khủng khiếp hơn suy nghĩ của tôi vào buổi ấy. Chỉ sau đấy 1 năm, ngày 11.9.
2001, thế lực khủng bố quốc tế đã biến những chiếc máy bay thành những quả bom
tự sát lớn nhất trong lịch sử để đánh vào tòa tháp đôi ở New York, biểu tượng
của nước Mỹ, gây nên một chấn động toàn cầu và kéo theo nó những sự kiện mà
diễn biến của nó ngày càng khó lường cho đến hôm nay và chắc sẽ không chỉ hôm
nay. Hiện tượng IS, rồi sự kiện Ukraine khiến châu Âu đang trở thành đấu trường
của các biến động chính trị, cạnh tranh phạm vi ảnh hưởng và xung đột quân sự,
đẩy thế giới đến gần một cuộc chiến tranh lạnh mới là minh chứng.
Trong phút giao thừa,
lúc cũ mới giao thoa, năm cũ chuyển mình bước vào năm mới trong đầu tôi cứ lẩn
thẩn với ý tưởng của Hégel vốn đọng lại trong đầu óc và chi phối cách nhìn
nhận, phân tích về thế cuộc “mỗi bước tiến mới sẽ tất yếu biểu hiện ra như
là một sự xúc phạm tới cái thiêng liêng, là một sự nổi loạn chống lại trạng
thái cũ, đang suy đồi nhưng được tập quán thần thánh hoá”.
Trong sự “nổi loạn
chống lại trạng thái cũ” thì sẽ không thiếu những cực đoan, quá khích nhân
danh “cái mới”, thậm chí tự huyễn như vậy mới thật sự là “mới”. Còn “trạng
thái cũ, đang suy đồi” thì thông thường vẫn giữ được cái vẻ bên ngoài là ổn
định, thậm chí vững chãi, cho dù về bản chất thì đã mục ruỗng, thối nát. Nhất
là khi cái “trạng thái cũ, đang suy đồi” ấy lại được “tập quán thần
thánh hóa” thì sức chống trả của “cái cũ” thường rất dữ dằn bởi lẽ
sức mạnh vang bóng một thời của nó vẫn còn lưu lại khá đậm trong tâm lý đám
đông. Ấy thế mà nhiều khi với đám đông, cái vô thức thường tác động như một
lực tiềm ẩn, mà trong hành động của con người thì phần vô thức lại hay chiếm
một tỷ lệ lớn hơn phần lý trí.
Vì vậy, coi thường sức
mạnh của “trạng thái cũ” hiện tồn hoặc khiếp sợ trước nó đều dẫn đến
những sai lầm. Tốt hơn cả là nghĩ kỹ về khuyến cáo của Roosevelt: “Điều duy
nhất mà ta phải sợ là chính là nỗi sợ hãi”. Vượt lên chính mình, đó là chuyện
khó nhất. Khi viết những dòng này chính là lúc tôi đang cố vượt lên chính mình
đây. Để vượt được, phải tự động viên bằng lời của Nobert Wiener, cha đẻ của
ngành điều khiển học, “Chúng ta đang
làm biến đổi môi trường của ta đến tận gốc rễ đến mức rồi ta phải tự biến đổi
chính mình để tồn tại được trong môi trường đó”.
Những diễn biến của
cuộc sống với những sự kiện đã và đang diễn ra mà ĐIỂM TIN [một tài liệu do nhà
nghiên cứu Tương Lai tập hợp, gửi cho bạn bè hàng tuần – BVN], một
cố gắng nhỏ nhoi nhằm đẩy tới những chuyển biến để tạo ra một đột phá đẩy cuộc
sống đi tới. Vâng, đúng là nhỏ nhoi, một hạt cát trong dòng chảy cuồn cuộn của
cuộc sống. Với suy nghĩ rằng: triệu triệu hạt cát mới tạo thành phù sa, và từ
phù sa bồi đắp mà cây cối đâm chồi nảy lộc. Từ phù sa ấy mà những hạt giống tư
tưởng được gieo trồng và hình thành nên tư tưởng của thời đại mà chúng ta đang
sống nhằm khẳng định một sự thật: Chuẩn mực chính là sự thay đổi!
T. L.
No comments:
Post a Comment
Thanks