---------- Forwarded message ----------
Date: 2014-11-18 14:29 GMT-06:00
Subject: SUBJECT : HỒ SƠ BÁN NƯỚC với Tiến trình đàm phán HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ 1990.
Date: 2014-11-18 14:29 GMT-06:00
Subject: SUBJECT : HỒ SƠ BÁN NƯỚC với Tiến trình đàm phán HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ 1990.
Kính
Mời Qúy Vị vào Link Dưới Đây
Theo
Dõi
RADIO
TOÀN DÂN CỨU NƯỚC
Hội nghị bí mật Thành Đô 1990 Kỳ 4
Huỳnh Tâm (Danlambao) -
Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, Nguyễn Văn Linh tuyên bố "3 quyết tâm"
khẳng định trung thành với "Bác" đảng Trung Cộng:
-
Chúng tôi quyết tâm sửa chữa những sai lầm về chính sách trong quá khứ và không
bao giờ quên ơn đảng BCT/TW Trung Cộng. "Ngã môn hữu quyết tâm
giải quyết quá khứ chánh sách đích thất ngộ hòa vĩnh viễn bất hội vong kí cảm
tạ song phương BCT/ Trung quốc trung bộ".
-
Chúng tôi quyết tâm khôi phục lại chính sách Trung Cộng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, năm xưa đã quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai đảng và hai nước. "Ngã
môn quyết tâm khôi phục hồ chí minh chủ tịch đích trung quốc quốc gia chánh
sách, tại quá khứ đích nhất niên lí nhất trực thị lưỡng đảng, lưỡng quốc chi
gian đích truyền thống hữu hảo quan hệ".
-
Việt Nam quyết tâm dựa vào quan hệ tốt đẹp với Trung Cộng là điểm khởi đầu cơ
bản của thời kỳ này, xem Hoa Kỳ là kẻ thù, đối đầu trực tiếp với Trung Cộng
Quốc. "cơ vu dữ trung quốc quốc gia trọng điểm cơ sở lương hảo
quan hệ việt xác định đích xuất phát điểm thị giá nhất thì kì, khán đáo mĩ quốc
thị vi địch nhân, dữ trung quốc trực tiếp đối kháng".
"Kỷ
yếu" ấn định đàm phán biên giới Trung-Việt
Sau
khi Bắc Kính lặp đi lặp lại, phải tiến hành nhanh thỏa thuận về dự thảo văn bản
"Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản về việc giải quyết vấn đề biên giới của nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam". (Quan
vu giải quyết trung hoa nhân dân cộng hòa quốc hòa Việt Nam xã hội chủ nghĩa
cộng hòa quốc biên giới lĩnh thổ vấn đề đích cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị)
để rồi còn ký kết những bản "tóm tắt" đàm phán khác. [1]
Ngày
18 tháng 10 năm 1993, Trưởng phái đoàn chính phủ Trung Quốc Tiền Kỳ Tham đã
thực hiện một chuyến đi đặc biệt đến Hà Nội, với người đứng đầu phái đoàn chính
phủ Việt Nam Vũ Khoan, chuẩn bị định ngày ký kết "Thỏa thuận nguyên tắc cơ
bản về việc giải quyết vấn đề biên giới nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam".
Trong
"Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản" (cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị)
hai bên khẳng định trên cơ sở "chung sống tồn tại" (hòa bình
cộng xử), thông qua tham vấn giữa hai nước, bao gồm Biển Đông và biên
giới đất liền, cả hai đều thực tế thiết lập chủ quyền biên giới mới của hai
quốc gia Trung-Việt. "Trọng tâm hiện hành về giải quyết vấn đề biên giới
đất liền và Vịnh Bắc Bộ. Đồng thời, tiếp tục đàm phán về các vấn đề hàng hải để
đạt được một giải pháp cơ bản và lâu dài", (mục tiền tập trung giải
quyết lục địa biên giới hòa bắc bộ loan vấn đề, dữ thử đồng thì, kế tục tựu hải
thượng đích vấn đề tiến hành đàm phán, dĩ tiện thủ đắc nhất hạng cơ bổn hòa
trường cửu đích giải quyết bạn pháp).
Về
vấn đề biên giới đất liền cần có "các nguyên tắc cơ bản" (cơ bổn
nguyên tắc hiệp nghị) còn quy định rằng "Thỏa thuận cả hai bên đồng ý
trên cơ sở một góc cạnh cung về Hòa ước Pháp-Thanh ngày 26 tháng 6 năm
1887", tiếp tục thảo luận Hòa ước Pháp-Thanh ngày 20 tháng 6 năm
1895". Sau đó thảo luận vòng tròn chương trình cô đọng hơn (song phương
đồng ý dĩ trung pháp 1887 niên 6 nguyệt 26 nhật thiêm đính đích "tục nghị
giới vụ chuyên điều").
Hòa
ước ngày 20 tháng 6 năm 1895 (tục nghị giới vụ chuyên điều phụ chương).
Nếu
công nhận Hòa ước Pháp-Thanh hay phủ nhận cũng nhắm vào mục đích phát triển cho
phù hợp hiện tình chủ quyền và phân định biên giới theo quy định "Kỷ yếu
1990", nó như một tài liệu xây dựng đàm phán chủ quyền của hai quốc gia.
Những bản đồ biên giới đất liền được vẽ theo quy định của (pháp luật?) cho phù
hợp những điểm đánh dấu ranh giới, như là cơ sở của tất cả các đường biên giới
đã được phê duyệt đối với Trung Quốc-Việt Nam", và giải quyết tranh chấp
những vấn đề khu vực. Ân định cuối cùng hai bên ký hiệp ước biên giới.
("1990
niên luận văn tập" tha thị giá dạng nhất cá kết cấu tài liệu, biên giới địa
đồ tương án chiếu giới bi đích pháp luật chế định, nhân vi sở hữu đích biên
giới đô bị phê chuẩn vi y cư Trung quốc - Việt Nam). [2]
Hai
bên lấy quyết định rằng: "Hai bên nhất trí thi hành pháp luật quốc tế cho
phù hợp với luật biển thông lệ của quốc tế, thông qua các cuộc đàm phán phân
chia Vịnh Bắc Bộ. "Để kết thúc, cả hai bên cần thực hiện những nguyên tắc
công bằng và xem xét tất cả các trường hợp có liên quan Vịnh Bắc Bộ, bảo đảm
giải pháp công bằng". [3]
Hai
bên cũng đồng ý thành lập Nhóm công tác chung trên thực địa biên giới đất liền,
theo quy định thực tế phân biệt lập hồ sơ, bản đồ, khảo sát thực địa, so sánh
bản đồ với thực địa v.v... và Nhóm chuyên viên đàm phán, sau khi hai Nhóm thực
hiện thành công một đoạn công tác, trình lên đoàn đại biểu Chính phủ xem xét và
hướng dẫn, mọi phân chia do hai Nhóm làm việc chung từ biên giới đất liền đến
Vịnh Bắc Bộ, luôn luôn thảo luận những điểm tranh chấp giữa hai nước để giải
quyết vấn đề, cần thiết việc soạn thảo hiệp ước biên giới và các thỏa thuận
phân chia Vịnh Bắc Bộ, lập hồ sơ đầy đủ sau khi ký thay mặt Chính phủ.
"Những nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận", (cơ bổn nguyên tắc
hiệp nghị). Đối với việc giải quyết cuối cùng của biên giới giữa hai
nước phải đặt nền tảng pháp lý vững chắc.
Ngày
07 tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân (江泽民),
Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng (李鹏) và Tổng Bí thư Đỗ
Mười (杜梅),
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của Việt Nam Võ Văn Kiệt (在北京) tham dự buổi lễ giao dịch "điếu ngư
thái quốc tân quán" (Diaoyutai State Guesthouse) tại Bắc Kinh Trung
Quốc. Chính phủ Việt Nam đã ký kết "Hiệp định biên giới tạm thời".
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Tiền
Kỳ Tham hội đàm với Vũ Khoan (武宽) để thảo luận về các cuộc đàm phán biên giới và
các vấn đề quan hệ song phương. Ông ta cũng đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Việt
Nam Nguyễn Mạnh Cầm (阮孟琴). Đạt được những
đồng thuận quan trọng trong đàm phán giữa hai Chính phủ rất cụ thể:
-
Thứ nhất, đàm phán giải quyết biên giới đất liền, Vịnh Bắc Bộ và vấn đề phân
giới cắm mốc. Trong tinh thần khó khăn lúc đầu đến hôm nay Việt Nam cho trôi
qua, quá dễ dàng chấp nhận mọi chủ động đề nghị từ phía Trung Cộng và xem
thường chủ quyền quốc gia.
-
Thứ hai, trong quá trình giải quyết, Việt Nam thiếu năng động không có dấu hiệu
nào nỗ lực vì chủ quyền, trong khi đó phía Trung Cộng cố gắng duy trì bình
tĩnh, tránh tối đa một số điều khó chịu bởi không lấy được trọn vẹn ý theo bản
đồ biên giới đã định, Trung Cộng chủ động ngoại giao mềm (hành sử theo luật
giang hồ thay cho súng đạn, mua chuộc trao đổi quyền lợi sai khiến thành phần
có trách nhiệm đàm phán) tránh được mọi tranh chấp biên giới đất liền lẫn Biển
Đông.
Ngày
30 tháng 11 năm 1992, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng chính thức thăm thiện chí
Việt Nam. Đây là việc bất bình thường quan hệ song phương, các nhà lãnh đạo
Trung Quốc lần đầu tiên đến thăm Việt Nam sau khi chiến tranh biên giới
17-2-1979 và 1984. Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Trung Quốc Lý
Bằng tổ chức các cuộc đàm phán cấp Chính phủ. Lý Bằng lấy quyết định thông cáo
chung, Võ Văn Kiệt thực hiện: Nay chính thức hai Chính phủ Trung Quốc-Việt Nam
dựa trên cơ sở "Năm nguyên tắc" (hòa bình, thân thiện, ổn định, công
bằng và hợp lý trật tự quốc tế mới).[4]
Hai
bên đã quyết tâm và nhất trí bắt đầu tiến hành đàm phán càng sớm càng tốt theo
quy định của Trung Quốc, những cấp Chính quyền thi hành đúng quy tắc định mức
và thừa nhận luật pháp quốc tế, việc giải quyết ưu tiên về lãnh thổ và lãnh hải
những vấn đề gây tranh cãi không còn mang quyết định đàm phán, hai bên không
được thực hiện tự lập riêng biên giới hay hành động đưa đến phức tạp tranh
chấp. Lý Bằng thành lập công thức On/Off cho phép đèn xanh Võ Văn Kiệt theo
tiêu chuẩn (Năm nguyên tắc) bước vào trò chơi nhượng lãnh thổ, lãnh hải vừa mới
ra đời trong hoàn cảnh bi đát nhất tại thủ đô Hà Nội Việt Nam. Tài liệu ảnh
lưu: Huỳnh Tâm.
Cơ
chế đàm phán bán biên giới Việt Nam
Trong
"Kỷ yếu", qui định soạn thảo cơ chế đàm phán theo cấp Chính phủ,
thành phần đại biểu của hai bên tương ứng, các cuộc đàm phán được tổ chức luân phiên
tại hai nước. Trưởng phái đoàn của cả hai bên luân phiên chủ trì đàm phán. Cơ
chế đàm phán cấp Chính phủ, chủ yếu thực hiện liên quan đến biên giới lãnh thổ
và lãnh hải, nhiệm vụ soạn thảo nghị sự cho những cuộc đàm phán chính thức của
Chính phủ, và hướng dẫn công tác cho hai nhóm chuyên gia để xem xét và xác nhận
kết quả sau những cuộc đàm phán, hai bên sinh hoạt chung trong Nhóm công tác và
các Nhóm chuyên gia.
Ngày
30 tháng 12 năm 1999. Tiền Kỳ Tham và Nguyễn Mạnh Cầm chính thức ký vào "Hiệp
ước biên giới đất liền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam". Sau đó, ấn định vào ngày 25 tháng 12 năm 2000 ký "Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hợp tác lãnh hải vùng
Vịnh Bắc Bộ, và vùng đặc quyền kinh tế được thỏa thuận trên phân định ranh giới
thềm lục địa".
Cơ
chế này đã được kế thừa theo ý của "Bác" đã ba lần ký liên tục thỏa thuận
"Hiệp ước Vạn Lịch nhượng hải và Vịnh Bắc Bộ" (Hiệp ước 1000 năm) của
những năm 1957, năm 1961 và 1963, nhượng lãnh hải cho Trung Quốc, "Bác"
thành công vĩ đại, cho đến nay toàn dân Việt Nam hầu hết bị ám lệnh che khuất
không biết sự kiện này! Do đó "Bác" được nhân dân Việt Nam công nhận
thánh nhân và "Cha già dân tộc" người sáng lập của chủ nghĩa xã hội.
Trung
Quốc chủ động thiết lập mức độ 1: Khái quát theo cơ chế đàm phán cấp Chính phủ
về biên giới đất liền, liên quan với Nhóm phân chia Vịnh Bắc Bộ, và phần cơ chế
đàm phán của các Nhóm công tác và các Nhóm chuyên gia. Mức độ 2: Khởi động tiến
hành đàm phán hàng hải. Hai Nhóm công tác và Nhóm chuyên gia là một phần của
các đoàn đại biểu Chính phủ của hai nước.
Mức
độ 3: Phân chia biên giới đất liền do các Nhóm làm việc chung tại miền Bắc và
Vịnh Bắc Bộ, Nhóm chuyên gia được thành lập hổ trợ cho các Nhóm công tác, bao
gồm biên giới đất liền, các vùng đất liền tại biên giới, mỗi Nhóm lập bản đồ
theo hướng dẫn của các chuyên gia kỹ thuật, các tập đoàn chuyên gia thiết lập
bản đồ điều chỉnh Vịnh Bắc Bộ.
Ngày
19 tháng 10 năm 1993, Trưởng phái đoàn Trung Quốc, Thứ trưởng Ngoại giao Đường
Gia Triền và Trưởng phái đoàn chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Thứ
trưởng Vũ Khoan tại Hà Nội, Việt Nam đã ký Hiệp ước "Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, về việc giải quyết biên giới
theo nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận", vấn đề giải quyết biên giới lãnh
thổ và lãnh hải giữa hai nước đặt trên nền móng công bằng và hợp lý, để củng cố
và phát triển tình hữu nghị láng giềng tốt và hợp tác cùng có lợi giữa hai
nước, ý nghĩa này rất quan trọng bởi chính phủ Trung Quốc chủ động đấy Việt Nam
đi đến ý muốn của mình. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Cuối
cùng đã có kết quả của các cuộc đàm phán biên giới đất liền
Từ
những ngày 22 tháng 2 năm 1994 đến ngày 22-ngày 25 tháng 3. Trung-Việt phân
chia biên giới đất liền, hai Nhóm công các chung miền Bắc và Vịnh Bắc Bộ, tổ
chức vòng đàm phán đầu tiên tại Hà Nội Việt Nam. Kể từ đó, Trung-Việt đàm phán
biên giới đất liền bước vào giai đoạn giải quyết cụ thể các vấn đề biên giới.
Việt
Nam thường thực hiện phân định biên giới đất liền theo cảm tính đơn giản như đã
được phân định theo hiệp ước cơ sở? (VN dâng hiến biên giới). Trung Quốc vẫn
chưa hài lòng thường cho rằng những nguồn thông tin về văn bản có con số không
được ước tính đúng mức, còn thiếu sót. Dẫn đến một số khác biệt giữa hai nước
trên các đường biên giới sẽ có tranh cãi chưa phải lúc kết quả.
Trong
thực tế nó phản ánh những sự xung đột và tranh chấp quyền lợi ích giữa hai quốc
gia, họ chưa bao giờ nghĩ đến liên quan đời sống của nhân dân biên giới. Tại
biên giới có những làng dân cư sinh sống xem mảnh đất nhỏ một khiêm tốn tài
sản, tự cho là đất hoang khai phá làm của riêng, thường là nguồn gốc khẩu phần
sống của một hộ gia đình.
Lộ
trình đàm phán trong nội địa biên giới đất liền của Việt Nam đang dẫn đến vòng
hai đàm phán, hai bên thông qua việc trao đổi đất liền tại ranh giới, căn cứ
trên đường phân định của bản đồ, trái lại Trung Quốc không xác nhận khu vực tổng
số 289, cho rằng chưa phù hợp theo đường biên giới, theo bao phủ diện tích
khoảng 233 km², Trung Quốc khiếu nại vì lý do kỹ thuật vẽ bản đồ tổng cộng có
125 km² trong khu vực liên quan đến mâu thuẫn, chênh lệch khoảng 6 km², hai bên
tranh chấp trong khu vực 164 km².
Liên
quan đến tổng diện tích 227 km². Hầu hết các khu vực tranh chấp biên giới lợi
ích thực sự, nó rất khó khăn cho việc thương lượng và giải quyết bởi vì khu vực
này nằm sâu trong lãnh thổ của Việt Nam.
Tháng
7 năm 1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười đến Trung Quốc, Giang Trạch Dân đưa ra những
yêu cầu đối thoại về biên giới và đề nghị tích cực phấn đấu cho năm 2000. Đỗ
Mười vì "đảng sống nước tan" đồng ý ký "Hiệp ước biên giới đất
liền". Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Nguyễn
Mạnh Cầm tuyên bố ba điều:
-
Trong đường biên giới đối với tiến trình hòa giải, chúng tôi thực hiện ba đề
nghị cho phía Việt Nam.
Đầu
tiên, Pháp-Thanh đã xác nhận về sự phát triển theo quy định và phù hợp riêng
của thời ấy, nay khoanh định lại những văn bản mới, vẽ lại bản đồ, cho phù hợp
xây dựng, và theo quy định của pháp luật dựa trên cơ sở "Kỷ yếu Thành Đô
1990" đánh dấu lại ranh giới, cho tất cả đối với đường biên giới giữa
Trung Quốc và Việt Nam.
Thứ
hai, sau khi kiểm tra chéo vẫn không thể thống nhất về đường biên giới và vị
trí đánh dấu ranh giới, nay đã nhận ra rất nhiều sai sự thật, hai bên sẽ cùng
nhau tiến hành điều tra thực địa, xem xét sự tồn tại của một loạt các tình
huống trong khu vực, phù hợp với tinh thần hiểu biết lẫn nhau và vùng đất định
cư của dân. Hiệp thương hữu nghị, tìm kiếm giải pháp công bằng và hợp lý.
Thứ
ba, sau khi đường biên giới đã được phê duyệt, khu vực biên giới thuộc thẩm
quyền nhiều hơn bên (TQ), bên kia sẽ được trả lại một số lĩnh vực vô điều kiện
theo nguyên tắc, (nói mà không trả lại). Quản lý biên giới để tạo thuận lợi cho
sự chấp nhận ra đi (đất bị mất), bởi hai bên thông qua tham vấn thân thiện,
hiểu biết lẫn nhau, là tinh thần công bằng và hợp lý điều chỉnh thích hợp. Kể
từ đó, Nhóm làm việc chung phân chia biên giới đất liền đã dành hơn hai năm,
kiểm tra 164 km², về phía đường biên giới trong khu vực tranh chấp.
Tháng
2 năm 1999, Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam bổ nhiệm Tổng bí thư Lê Khả Phiêu
và ông ta đến Trung Quốc báo cáo thành tích của đảng "Bác". Lê Khả
Phiêu trình báo để Chủ tịch Giang Trạch Dân hiểu tình hình Việt Nam:
−
BCT/TW Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, từ nay thực hiện các nguyên tắc "16
ký tự" cho sự phát triển quan hệ song phương Trung Quốc-Việt Nam, cụ thể
là "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt và hợp tác toàn
diện".
Trên
lưng của Lê Khả Phiêu có dấu ấn 16 ký tự, "ổn định lâu dài, hướng tới tương
lai, láng giềng tốt và hợp tác toàn diện". (trường kì ổn định, diện hướng
vị lai, mục lân hữu hảo, toàn diện hợp tác) đánh dấu bước ngoặc thời đại nô lệ.
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm. [5]
Giữa
hai nước thiết lập quan hệ trong khuôn khổ phát triển của thế kỷ 21.
Cả
hai bên đã đồng ý rằng giải quyết sớm vấn đề biên giới giữa hai nước quá phù
hợp với quyền lợi ích trên căn bản và nguyện vọng chung của nhân dân hai nước.
Hai bên quyết tâm đẩy nhanh quá trình đàm phán, nâng cao hiệu quả công tác
đảng, như đã ký kết vào năm 1999, "Hiệp ước biên giới đất liền", việc
xây dựng đường biên giới chung giữa hai nước đã trở thành biên giới hòa bình,
thân thiện và ổn định.
Hai
bên cũng giải quyết đất liền khu vực định cư, quan trọng vấn đề biên giới sẽ
đạt được sự đồng thuận và tôn trọng ranh giới giữa các điều kiện hai nước cư
trú dài hạn, sản xuất và đời sống, không phải vì việc phân định biên giới giữa
hai nước gây ra một cú sốc lớn.
Trung
Cộng lưu hồ sơ chính trị của "Bác" về động lực "bán nước còn
đảng"
Có
hai sự đồng thuận Trung Cộng-Việt Cộng đạt được trên cơ sở đàm phán biên giới
đất liền do Trung Cộng cung cấp một hồ sơ chính trị của Hồ Chí Minh, làm động
lực mạnh mẽ thúc đẩy đảng Cộng sản Việt Nam im lặng và chấp nhận quyết tâm đàm
phán càng sớm càng tốt.
Theo
sự nhất trí của hai nhà lãnh đạo, Tiền Kỳ Tham và Nguyễn Mạnh Cầm, cố gắng thúc
đẩy phía Việt Nam xác định thái độ thực dụng để thông qua các cuộc đàm phán với
phía Trung Quốc nhằm giải quyết biên giới đất đai trong khu vực tranh chấp, đặc
biệt là các vấn đề liên quan đến quyền lợi ích sống còn tại biên giới.
Tháng
5 năm 1999, một lần nữa Tiền Kỳ Tham đe dọa sẽ hạ đàm phán biên giới không
thông qua chính phủ Việt Nam, ông đã gửi thư tới Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại
giao Nguyễn Mạnh Cầm.
Trong
nội dung lá thư của Tiền Kỳ Tham, bày tỏ rằng phía Việt Nam phải thực sự nhất
trí, hy vọng các nhà lãnh đạo hàng đầu Việt Nam hãy nhìn tình hình chung, tiến
hành quyền lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, mong rằng chân thành thực
dụng và thân thiện phản ánh đầy đủ, đưa khu vực tranh chấp còn lại phải vào
giải pháp biên giới giữa hai nước giải quyết đúng cách, cả trên đường địa giới
cho tất cả các khu vực tranh chấp để đạt được thỏa thuận, các nhà lãnh đạo của
cả hai nước đảm bảo rằng trong khi kết thúc thời hạn quy định đàm phán biên
giới đất liền, cho tiến hành nhanh việc ký kết giữa Trung-Việt "Hiệp ước
biên giới đất liền".
Một
khi hiệp ước cắm cột mốc đã thành hình sẽ thấy Việt Nam đứng trước nguy cơ bất
lợi mất nhiều đất liền tại biên giới, đối với "Hòa ước Pháp-Thanh ngày 26
tháng 6 năm 1887" thiết lập một ranh giới cắm 240 cột mốc và 24 huyện đánh
dấu phân định biên giới Trung-Việt. Còn hiện tại trên hồ sơ cột mốc của
"Hiệp ước Trung Cộng-Việt Cộng 1999" sơ khởi đã có đến 1120 cột mốc,
trong những ngày tháng tiếp theo số cột mốc còn nhiều khả năng tăng lên, mỗi
bước tiến của một cột mốc Trung Quốc tất nhiên đất liền của Việt Nam teo mạnh.
Tiền
Kỳ Tham còn đề nghị thêm. Hai bên chấp nhận lịch sử khu vực không gây tranh
cãi, nên khẳng định một cách thực tế, không làm tăng sự khác biệt giữa hai nước
không nên thay đổi hiệp định trước đó của chính phủ đã công nhận đường biên
giới; đối với khu vực tranh chấp, theo đúng thỏa thuận đã quy định của pháp
luật mốc giới và tuân thủ các số liệu quy định, để xác định đường biên giới;
liên quan đến các khu dân cư, theo đúng với sự đồng thuận quan trọng đã đạt
được từ các nhà lãnh đạo của cả hai nước, phải đồng tôn trọng, không vì phân
định biên giới mà gây ra sốc cho nhân dân, tạo điều kiện mọi mặt như sinh cư và
sản xuất của thường dân phải được bảo đảm sống đời vĩnh cửu tại biên giới.
Phó
Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm nhanh chóng trả lời. Phía
Việt Nam giải quyết đất liền biên giới, và tôi đồng ý thúc đẩy đàm phán biên
giới đất liền càng sớm càng tốt.
Nguyễn
Mạnh Cầm đề nghị rằng hai bên cần phải dựa trên tinh thần hiểu biết và hỗ trợ
lẫn nhau, trong việc xem xét đầy đủ các yếu tố khác nhau và quyền lợi hợp pháp
của tất cả các bên và chủ quyền của mỗi nước, quá trình lịch sử, địa hình, nhu
cầu thẩm quyền, cuộc sống biên giới và cơ sở bảo vệ cho tương lai của nhân dân
được ổn định trong khu vực biên giới, nhanh chóng thu hẹp sự khác biệt, để tìm
kiếm một giải pháp để hai bên đồng chấp nhận, theo sự nhất trí của cả hai bên
Việt Nam-Trung Quốc.
Tiền
Kỳ Tham chủ động hướng dẫn các nhà đàm phán Việt Nam, ông kêu gọi trong các
cuộc đàm phán phải tìm kiếm sự thật thông qua những sự kiện, giải thích đầy đủ
cơ sở pháp lý, tìm kiếm một giải pháp công bằng và hợp lý cho đôi bên.
Ngày
25 tháng 7 năm 1999. Tiền Kỳ Tham tham dự cuộc họp ASEAN và APEC (APEC), ông đã
gặp hai lần với Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn
Mạnh Cầm. Thảo luận về các vấn đề khu vực và quốc tế, ông nắm bắt cơ hội này
làm một số ngoại giao đẩy Việt Nam tiến hành đàm phán biên giới.
Ngày
11 tháng 9, Tiền Kỳ Tham gặp Nguyễn Mạnh Cầm đề xuất giải quyết các vấn đề của
khu vực tranh chấp phải được thực tế, Việt Nam xem xét tích cực các đề nghị
phản ánh quyền lợi của cả hai quốc gia được cân đối và những giải pháp tổng
thể, hai bên có thể đạt được một sự hiểu biết về điều căn bản này, hướng dẫn
Nhóm công tác biên giới đất liền làm việc. Tiền Kỳ Tham hy vọng các nhà lãnh
đạo phía Việt Nam sẽ thực hiện nghiêm túc đàm phán để đồng thuận giữa hai bên
giải quyết khu định cư.
Tiền
Kỳ Tham giới thiệu sự nghiệp của Nguyễn Mạnh Cầm. Nguyễn Mạnh Cầm sinh ra vào
năm 1929 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Việt Nam, trong những năm 1950 ông
học tiếng Nga tại Học viện Nga ngữ, và Học viện Chính trị Hành chánh tại Bắc
Kinh, cũng là một gián điệp lỗi lạc của Trung Quốc đã từng làm đại sứ ở
Hungary, Đức, Liên Xô, là một nhà ngoại giao cao cấp quen thuộc với các cuộc
đàm phán biên giới. Nguyễn Mạnh Cầm còn báo cáo cho Tiền Kỳ Tham biết về nội
tình của phía Việt Nam nhằm để Trung Quốc hiểu được điểm yếu của từng người,
ông sẵn sàng chấp nhận nỗ lực lớn hơn để tìm một giải pháp cho vấn đề biên
giới.
Trong
ủy ban đàm phán Trung Quốc-Việt Nam có ba cấp độ:
Trưởng
phái đoàn Chính phủ cấp Bộ trưởng Ngoại giao. Nhóm công tác chung, và Nhóm
chuyên gia đàm phán. Việt Nam đề nghị vào ngày 20-28 tháng 10 năm 1999, Trưởng
phái đoàn của hai Chính phủ gặp nhau tại Bắc Kinh. Đề nghị này được phía Trung
Quốc chấp nhận vì thấy thuận lợi cho cả hai về tầm nhìn chung giải quyết cân
bằng gói lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam.
Kể
từ đó, trong các cuộc đàm phán của Trung Quốc-Việt Nam bao thành một gói hàng
giải pháp lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam, bao gồm tất cả các vấn đề nhạy cảm và
khó khăn lâu nay tồn đọng chưa tính sổ, do đó khi đàm phán đạt được một thỏa
thuận sơ bộ biên giới đất liền được xem là một trong những bước đột phá của
Trung-Việt. Sau khi đàm phán khó khăn hơn một tháng, hai bên tranh chấp quá lâu
khu vực biên giới, cuối cùng thỏa thuận đầy đủ như ý Trung Quốc. Kể từ đó, hai
bên tiến hành đàm phán soạn thảo hiệp ước, đặt tất cả khả năng của mình vào hồ
sơ phổ quát liên quan đến kết quả của các cuộc đàm phán và soạn thảo hiệp ước
biên giới đất liền Trung-Việt.
Những
chuyên viên của hai bên hợp tác đắc lực, đàm phán trong vòng 20 ngày và đêm,
thành hình dự thảo hiệp ước cho tất cả các điều khoản và thành tựu trọn vẹn văn
bản điều ước quốc tế chuẩn bị tiến hành vẽ bản đồ, sau đó cho xuất bản về
"Hiệp định biên giới đất liền và đường ranh giới Trung-Việt".
Trước
khi ký kết hiệp ước chính thức, Trung Quốc-Việt Nam tổ chức lễ ký tắt hiệp ước.
Trưởng phái đoàn cấp Chính phủ cả hai bên đồng thỏa thuận mỗi văn bản và bản đồ
cần được ký tên của mỗi bên, chữ ký đã lưu vào văn bản của hiệp ước, tạo thành
hồ sơ chứng nhận. Do số lượng lớn, hai bên đồng ký tên trong một giờ, ngần ấy
hồ sơ văn bản và bản đồ hiệp ước.
Ngày
30 tháng 12 năm 1999. Lịch sử biên giới Việt Nam không còn gắn liền với những
mảnh đất của quê hương, vì nguyên do bất lực của Cộng sản để mất những làng, xã
tại biên giới, nay chính thức chia lìa tổ quốc. Ngày ghi nhận của lịch sử này,
nó đang ở điểm cuối của một ngày đi qua thế kỷ 20, bước vào điểm khởi đầu của
ngày mai thế kỷ 21. Đó là ngày Trung Quốc-Việt Nam đồng tham gia buổi lễ ký kết
tại Hà Nội "Hiệp ước biên giới đất liền Việt-Trung", đã kéo dài 18
năm, đánh dấu sự kết thúc chiến tranh. Cuộc cắm cột mốc biên giới đất liền đang
thực hiện bước thứ hai. Nhưng vẫn còn nhiều thử thách lịch sử dân tộc Việt Nam
nếu không biết biến cải tự thoát xát xa Trung. Đối với Việt Nam, từ đây sẽ nẩy
sinh quá nhiều tác động quan trọng và đang đứng trước ngưỡng cửa mất nước. Và ngày
06 tháng 7 năm 2000, hai bên trao đổi phê chuẩn hiệp ước, bắt đầu có hiệu lực.
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trung
Quốc-Việt Nam phân định Vịnh Bắc Bộ
Buổi
lễ ký kết được tổ chức vào tối ngày 30 tháng 12 năm 1999, tại Trung tâm Hội
nghị Quốc tế Hà Nội Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham và
Phó Thủ tướng Chính phủ Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm đồng ký
"Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt". Tại buổi lễ ký kết, Tiền Kỳ
Tham thực hiện một bài phát biểu ngắn:
"Hiệp
ước biên giới đất liền Trung-Việt" đã được chính thức ký kết, đánh dấu hai
bên hòa bình, thân thiện và ổn định đất liền biên giới vào thế kỷ 21, không chỉ
sẽ trực tiếp mang lại lợi ích cho người dân các tỉnh biên giới, mà còn thúc đẩy
hai bên quan hệ nhà nước và thúc đẩy hợp tác toàn diện giữa hai nước trong các
lĩnh vực khác nhau, thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực có ý nghĩa rất lớn.
Ngày
29 tháng 4 năm 2000, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân Trung Quốc khóa 9, Đại
hội thứ 10 thông qua nghị quyết phê duyệt "Hiệp ước biên giới đất liền
Trung-Việt"; cùng năm vào tháng 9, Việt Nam mở Đại hội lần thứ X cũng theo
quyết định phê duyệt điều ước quốc tế này.
Ngày
06 tháng 7 năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam tổ chức buổi lễ phê chuẩn "Hiệp
ước biên giới đất liền Trung-Việt" tại Bắc Kinh. Chính thức công bố hiệu
lực 1000 theo lời nguyện của "Bác" tại hội nghị Bắc Kinh ngày 07
tháng 7 năm 1955.
Tháng
11 năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam thừa nhận phù hợp với "Hiệp ước biên
giới đất liền Trung-Việt", và trong hai cuộc đàm phán biên giới hai phái
đoàn cấp cao Chính phủ thành lập một ủy ban phân định ranh giới chung. Đến cuối
năm 2008, hoàn thành tất cả các công việc phân giới cắm cột mốc và hoàn thành
lĩnh vực xây dựng. Dự trù của hai bên sẽ trải qua cắm mốc 8 năm, mới kết thúc
ngày cắm cột mốc.
Việt
Nam-Trung Quốc bắt đầu mở những cuộc đàm phán, thương lượng hiệp ước hoặc thỏa
thuận biên giới lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, và đàm phán phân định ranh giới cùng một
lúc. Nhưng cuộc đàm phán phân định biển là một chủ đề mới phải vận dụng nhiều
ngôn ngữ ngoại giao. Trước mắt Việt Nam thua thiệt đã quá nhiều bởi mất đất, và
chuẩn bị mất Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông, thế nhưng vẫn không chuẩn bị thực tế đàm
phán, phân định ranh giới để cho Trung Cộng tùy duyên dẫn đi đâu theo đó, cách
làm này của Việt Nam xem như vô trách nhiệm, họ không cần thiết chú ý
"nước còn hay đã mất", cho nên những nhà ngoại giao Trung Quốc không
lấy gì làm lạ, gọi những nhà lãnh đạo Việt Nam với hai từ "linh
động".
Phía
Việt Nam sợ nhất đàm phán phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ, bởi trong vùng Vịnh
gặp phải một cục bứu thối chính trị của "Bác" quá vĩ đại đã bán đứng
vùng Vịnh 1000 năm. Đàm phán nhất định sẽ thất bại, trả một giá quá đắt đỏ, gặp
nhiều phức tạp đưa đến khó khăn.
Bước
vào giai đoạn đàm phán vùng Vịnh truyền thống của Việt Nam, Trung Quốc thường
hay tìm lý cớ phản đối, thực sự đã dẫn đến xung đột. Nổi bật nhất quốc gia nào
quan tâm đến Vịnh Bắc Bộ, chiến thắng sẽ ở trong lòng bàn tay. Trong khi đó
Tiền Kỳ Tham đã có quá nhiều kinh nghiệm đàm phán về biên giới lãnh thổ và lãnh
hải với 14 quốc gia lân bang, đáng kể nhất là biên giới Liên Xô, Ân Độ, trái
lại hai nhà ngoại giao của Việt Nam thiếu kinh nghiệm lại thân cha đẻ Trung
Cộng, chính xác hơn những nhân vật này được nên người MSS là do Trung Cộng đào
tạo.
Sự
nghiệp vĩ đại của Hồ Chí Minh, tìm đường bán nước không thể chối cãi
Hồ
Chí Minh đã 3 lần liên tục ký "Hiệp ước Vạn Lịch nhượng lãnh hải và Vịnh
Bắc Bộ, Trung Quốc-Việt Nam" (Vạn lịch điều ước đích lĩnh thổ nhượng bộ
hòa bắc bộ loan, Trung Quốc-Việt Nam): [6]
-
Tháng 11 năm 1957. Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Thư ký đã
ký, vấn đề biên giới lãnh thổ và lãnh hải Vịnh Bắc Bộ quan trọng nhượng cho
Trung Quốc, được dựa trên cơ sở chủ quyền 1000 năm. (1957 niên 11 nguyệt
Việt Nam cộng sản đảng hòa bí thư xử đích trung ương ủy viên hội dĩ kinh thiêm
thự, biên giới vấn đề, bắc bộ loan trọng yếu đích nhượng bộ, trung quốc đích
lĩnh hải, thị cơ vu chủ quyền thiên niên). [7]
-
Năm 1961, Phạm Văn Đồng thay mặt Hồ Chí Minh cùng với Chu Ân Lai xác định lại
một số nguyên tắc về pháp luật chủ quyền Vịnh Bắc Bộ, hai Chính phủ quyết định
giải quyết lãnh hải. (1961 niên, Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh đại biểu Chu Ân
Lai trọng tân bắc bộ đích chủ quyền loan đích nhất ta pháp luật nguyên tắc,
lưỡng quốc chánh phủ quyết định tương giải quyết lĩnh thổ). [8]
-
Năm 1963, Phạm Văn Đồng thay mặt Hồ Chí Minh cùng với Chu Ân Lai ký "Hiệp
ước Vịnh Bắc Bộ". Trung Quốc-Việt Nam thiết lập tư vấn ranh giới và tôn
trọng lẫn nhau hoặc nhượng lãnh hải. Cấm tuyệt đối chính quyền địa phương hay
cộng đồng xâm lấn lãnh hải. (1963 niên, Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh đại biểu
chu ân lai thiêm thự liễu "Bắc Bộ loan đích điều ước". Trung
Quốc-Việt Nam biên cảnh kiến lập liễu tư tuân hòa tương hỗ tôn trọng hòa lĩnh
thổ nhượng bộ. cấm chỉ địa phương chánh phủ hoặc xã khu lĩnh thổ đích xâm phạm).
[9]
Tất
cả những hiệp ước trên đều liên quan đến khai thác thủy sản, tương ứng thẩm
quyền 3-12 dặm lãnh hải của Việt Nam, cũng như các bên thực hiện quy định về
hợp tác nghề cá. 3-12 hải lý cho vùng biển bên ngoài khoảng cách đường cơ sở
lãnh hải giữa hai nước, ba "Hiệp ước" trên, ngư dân giữa hai nước tại
khu vực được thành lập tổ hợp tác hành nghề đánh cá chung "Tự do ra
biển", tôn trọng sinh hoạt thói quen của ngư dân đã sống hai thế hệ, có
thể liên hiệp tự do hoạt động khai thác biển, dầu khí, môi trường, du lịch
v.v... tạo thành hai cộng đồng ngư dân ở phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ và ngư trường
truyền thống quyền đánh bắt cá của Trung Quốc.
Ngày
07 tháng 7 1955, Cộng hòa Nhân dân Chính phủ Trung Quốc. Kỷ niệm ngày "Bác"
dâng Vịnh Bắc Bộ. Và sau này cũng chính nơi đây Hồ Chí Minh đã ký 3 lần hiệp
ước, gọi tắt là "Hiệp ước Vạn Lịch" (1000 Năm). Nguồn ảnh lưu: Huỳnh
Tâm.
Sau
khi ký kết "Hiệp ước nguyên tắc cơ bản"; Tiền Kỳ Tham hào hứng khoe
với BCT/TW Việt Công về tập thơ Trung Quốc "Ngục thất trong tù" của
Hồ Chí Minh, cho rằng "Bác" rất yêu văn hóa truyền thống quê hương
(chính Tiền Kỳ Thân tiết lộ "Bác" là người Hán).
Trong
những năm đầu của "Bác" tham gia vào các hoạt động cách mạng tại quê hương
cùng với Mao Chủ tịch (毛泽东),
Chu Ân Lai (周恩来) và các nhà lãnh
đạo khác của Trung Quốc ngày nay họ đều là thế hệ cũ đã từng giả mạo trên chính
trường Trung Quốc-Việt Nam tình bạn sâu sắc. Vì vậy chuyến thăm lần này Tiền Kỳ
Tham là người hiểu rõ về Hồ Chí Minh nhờ đọc nhiều tư liệu lưu trữ tại CPC và
MSS.
Tiền
Kỳ Tham nói tiếp: Tôi có đã ý thức sâu sắc rằng tình hữu nghị Trung-Việt phát
nguồn gốc từ văn hóa "Bác" nhập lậu vào Việt Nam, nhân dân Việt Nam
tự tin vào Hồ Chí Minh đó là điều hạnh phúc nhất của đất nước này.
Mao
Trạch Đông (毛泽东),
Chu Ân Lai (周恩来) và Hồ Chí Minh
(胡志明) cẩn thận canh tác và chăm bón phân người trồng
tình hữu nghị bắt rễ sâu trong trái tim của nhân dân Việt Nam. Đây là sự phát
triển tài sản giá trị nhất mà Trung Quốc mong đợi. Mối quan hệ từ trước đến nay
đã được thiết lập trên cơ chế đảng trị không thương lượng với người dân Việt
Nam, nay đàm phán một trò chơi nhất trí của những lãnh đạo Trung Quốc và Việt
Nam như đã ký "Hiệp ước nguyên tắc cơ bản".
No comments:
Post a Comment
Thanks