Tiến trình đàm phán bí mật Thành
Đô 1990 Kỳ 3
HỘI
LUẬN & Vấn Đáp : Tìm hiểu thành phần Bộ chính trị ĐCSVN trước Đại hội XII
PHẦN 1
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
Huỳnh Tâm (Danlambao) -
Nguyễn Cơ Thạch: "Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu!".
Giang
Trạch Dân cần một bản văn kiện đàm phán bí mật, đề nghị Nguyễn Văn Linh cùng ký
vào "Kỷ yếu", Trung Cộng đã có chủ ý bày ra một âm mưu sâu xa, Nguyễn
Văn Linh không nề hà việc bán nước này, ông rất vui vẻ xắn tay áo đóng ký, từ
đó Thành Đô Tứ Xuyên chính thức chào đời bản lịch sử "Kỷ yếu Thành Đô 1990",
nội dung chuyên chở toàn bộ lộ trình Việt Nam đi về hướng bành trướng Đại lục.
Buổi
chiều trước khi đoàn Việt Nam rời Thành Đô, Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Hoài Nam
Tử (Qi), Chu Sơn Thanh (Chu Shanqing), Tằng (Zeng)... hát bài ly ca, tạm biệt
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng và đoàn tùy tùng về đất dung thân chư
hầu. Máy bay cất cánh từ phi trường quốc tế Song Lưu Thành Đô Tứ Xuyên, trở lại
phi trường chuyên dụng Nam Ninh Quảng Tây, và sau đó về phi trường Nội Bài Hà
Nội. Lúc này bầu không khí bên trong lòng cabin của máy bay, mọi người hãnh
diện, lòng trào hưng khởi, vui nhộn rộn rã hơn trước. Các nhà lãnh đạo Việt Nam
trao đổi liên tục quan điểm. Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại
Trung ương Hồng Hà hào hứng nói: "Hội nghị đã thành công, rất tốt", Nguyễn
Văn Linh nói: Trong hội nghị tôi đã
tuyên bố 3 quyết tâm đem đến lòng tin cho Bắc Kinh. Đỗ
Mười bày tỏ sự hài lòng kết quả đàm phán, lòng hân hoan dâng trào hạnh phúc.
Phạm Văn Đồng gật gù mấy lần với nụ cười đắc ý. Quan điểm của Đinh Nho Liêm: Từ
nay chúng ta yên tâm một khi đã có quan hệ song phương với Trung Quốc! Những bí
danh Bích Sơn (Bishan) và Hoàng Trung cũng phụ họa quan điểm: Chúng tôi thấy
rất vui vẻ việc làm của quý đồng chí thực hiện nguyện vọng của nhân dân!
Sau
khi về đến Hà Nội, Đại sứ quán Trung Quốc mở một buổi liên hoan, giải trí lành
mạnh, thiết đãi phái đoàn tham dự hội nghị bí mật Thành Đô. Thưởng thức những
thực đơn "hương nhục" (Xiangrou) nổi tiếng của Tứ Xuyên, còn ấm áp
"Kim Ngưu tân quán" trong lòng, nó vẫn mãi mãi quanh quẩn với mọi
người. Trong buổi chiêu đãi đang vui bỗng Đỗ Mười há hốc đọc lại bài thơ của
Nguyễn Văn Linh, tiếp theo Trương Đức Duy cũng đọc lại bài thơ của Giang Vĩnh
mà hôm trước Giang Trạch Dân mượn nó làm môi giới kết thúc hội nghị bí mật
Thành Đô, hôm nay cả hai ông cùng nhại lại để đáp lễ buổi liên hoan nội bộ bí
mật Thành Đô. Tất cả đồng ca tụng cho nhau hết lời bởi thành quả lịch sử quan
hệ song phương Việt Nam-Trung Quốc có một không hai.
Sau
những ngày chén thề, ly bôi hẹn cụng nhau tưng bừng, tiếng cười hỉ hả cũng đã
bay vào không gian, cửa phòng hội nghị Kim Ngưu sang tay khách, bí mật vẫn còn
đó muôn đời sử sách ghi, những chữ ký cam kết của Giang Trạch Dân và Nguyễn Văn
Linh, cũng phải đúng lúc vùng lên thực hiện những thỏa thuận đàm phán Thành Đô.
Tiếp theo "Kỷ yếu" thúc giục Đỗ Mười đã hai lần liên tục gặp Thứ
trưởng Ngoại giao Đinh Nho Liêm, hối thúc tăng cường sức mạnh cho ông Hun Sen
buộc chấp nhận thỏa thuận giữa các bên, tìm giải pháp chính trị cho vấn đề
Campuchia càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, quá trình giải quyết chính trị của
Campuchia vẫn trì hoãn kéo dài thời gian, thực hiện "Kỷ yếu" không
được như ý, dẫn đến một số tác động Bắc Kinh phiền muộn, Trung Quốc muốn Việt
Nam sớm tiến hành phân định lại biên giới lãnh thổ và lãnh hải như mưu đồ đã
định trước.
Những cán bộ đắc lực
nhất phụ họa bán nước như Hồng Hà, đầy quyền lực đứng trên Chánh Văn phòng
Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương chịu ảnh hưởng bởi tên gián
điệp Hoàng Đích (黄的-Lê Đức Anh), Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam.
Thứ trưởng Ngoại giao Đinh Nho Liêm người thừa lệnh của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng chính phủ Đỗ Mười.
Hiệp ước biên giới đất
liền Việt-Trung 1991
(条约土地越南接壤,中国)
1 - Tiến hành phân định biên giới Trung-Việt.
"Kỷ yếu Thành Đô 1990", như thế nào?
Tháng
11 năm 1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt chiếu theo trát lệnh
triều đình của Giang Trạch Dân, mới đến Bắc Kinh báo cáo tình hình giải quyết
biên giới giữa hai nước. Đồng lúc, công bố bình thường hóa "Quan hệ song
phương Việt-Trung". Thỏa thuận tạm thời về việc xử lý các vấn đề biên
giới. Còn gọi là "Hiệp định tạm thời". Hai bên quyết định thực hiện
phân định biên giới mới. Theo nội dung Hiệp định chung Trung Quốc và Việt Nam
có chung đường biên giới đất liền dài 1300 km!
Trung
Quốc đưa ra một mặc cả, giá được xem rất thỏa đáng, và công nhận Việt Nam phát
triển quan hệ láng giềng tốt, đối mặt và giải quyết vấn đề biên giới tốt. Hai
nhà lãnh đạo TQ-VN đồng hiểu nhau tránh những từ ngữ nhạy cảm "xâm lược
vào lãnh thổ biên giới Việt Nam".
Tháng
3 năm 1993, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, phụ trách Trung Quốc với
các nước láng giềng Châu Á Tiền Kỳ Tham (钱其琛).
Xúc tiến mối quan hệ song phương vào trọng điểm Đông Dương, cho phép Trung Quốc
chiếu cố nhiều hơn vào đất nước Việt Nam. Trung Quốc dùng quan hệ song phương
Việt Nam làm vùng đất nhạy cảm cho công cuộc bành trướng, đặc biệt mở biên giới
tràn vào Việt Nam. Quá trình này gây ra khó khăn cho Việt Nam. Lần này Trung Cộng
báo cáo thi hành công tác theo từng chi tiết trong "Kỷ yếu của hội nghị bí
mật Thành Đô 1990". Qui định lịch trình tiến hành kế hoạch cắm cột mốc
biến giới Việt-Trung. Khởi đầu hoạt động của hiệp ước, Trung Cộng đã có những
thành quả đáng kể và tiến hành những thỏa thuận đang xác định đất liền biên
giới và Biển Đông.
Trước
đó Nguyễn Văn Linh cho rằng lần này đồng thuận là một "bước ngoặt của lịch sử trong mối quan hệ
song phương Trung-Việt". Còn ông Giang Trạch
Dân chơi chữ "kết thúc của quá khứ, tạo ra tương lai". Người Cộng sản
Việt Nam không thể nào đo lường được sự tài tình sử dụng "mỹ từ pháp"
đẹp nhất để che khuất những âm mưu đang chờ thực hiện. Trung Quốc đưa ra đề
nghị với "đảng bác": Cung cấp phương tiện cho Việt Cộng vung tay đàn
áp nhân dân và hướng dẫn dư luận đến mục đích "người dân không muốn
biết" (nhân môn bất tưởng tri đạo) và làm mềm mại xã hội không còn ý chí
đấu tranh, đẩy người dân Việt Nam đến suy nghĩ khác không phản đối những việc
làm bất chính của người Cộng sản. Người dân Việt không có thời gian suy nghĩ,
tìm hiểu hành động của chúng ta, nếu họ không phân biệt được "kết thúc của
quá khứ, tạo ra tương lai", chỉ cần 20 năm sao mọi việc đã theo ý
"Bác" chúng ta đã có kết quả khả quan "đổi non dời biển và cả
lịch sử của Việt Nam". Khi đó người dân Việt Nam muốn đấu tranh lấy lại
chủ quyền đã quá muộn màng. [1]
Chu
Ân Lai đã từng giảng giải kinh cướp lân bang cho hậu duệ: "Đối phó với các
vấn đề biên giới, cần nghiên cứu lịch sử và hiểu toàn bộ vấn đề của Việt Nam,
phân biệt lịch sử và làm sai lịch sử của đối phương, sau đó tìm một giải pháp
đối phó". Tiền Kỳ Tham một trong những đệ tử của Chu cho rằng: Tôi đã đọc
rất nhiều tài liệu cho vấn đề hiểu biết xử lý "êm thắm" quan hệ Việt
Nam, chủ yếu liên quan đến ba (3) khía cạnh rất cụ thể của những vấn đề phân
định lãnh thổ và lãnh hải.
1
- Đất liền lãnh thổ biên giới Trung-Việt Nam.
2
- Vịnh Bắc Bộ vùng đảo Bạch Long Vĩ.
3
- Biển Đông quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2 - Trung Quốc tự thay đổi lịch sử và địa lý
của Việt Nam.
Đất
biên giới Việt Nam kể từ mười lớp núi ở ngã ba của ba nước cũ (Trung Quốc, Việt
Nam, Lào) từ phía Tây Bắc gió Đông Nam, Vân Nam, Quảng Tây và dòng sông Ka Long
chảy vào Việt Nam có chiều dài 48,73 km, nối vào sông Bắc Luân 11,77 km. Từ đó
chảy ra vịnh Bắc Bộ Việt Nam.
Đối
với cách phân định biên giới này đã thông qua các điều ước riêng của Trung Quốc
và Việt Nam (ngoài qui định quốc tế), sau đó được công nhận bởi những chính phủ
kế tiếp. Trên cơ sở căn bản biên giới của Việt Nam đã quá rõ ràng. Thế nhưng
Trung Quốc viện dẫn nhiều lý do để làm sai vị trí phân định đường biên giới và
do đó liên tục tranh chấp một số điểm nóng trong khu vực. Trung Quốc thúc giục
Việt Nam thực hiện những thỏa thuận qua tiêu chuẩn "Kỷ yếu", và phân
định lại Vịnh Bắc Bộ, thi hành đúng pháp luật hiện đại của biển? chủ quyền mở
rộng ven biển Trung Quốc và Việt Nam ra các đại dương, quyền và lợi ích hàng
hải phát sinh từ các yêu sách chồng lấn lên nhau của Ngoại giao.
Vịnh
Bắc Bộ thiên nhiên nửa kín, nằm về phía Tây Bắc của Biển Đông, phía Đông Bắc
và phía Tây của hai bên được bao quanh bởi lãnh thổ của Trung Quốc và Việt Nam,
điểm rộng nhất của nó có 184 hải lý, điểm hẹp nhất là 112 hải lý. Trước những
năm 1970, Trung Quốc và Việt Nam không có tranh chấp tại Vịnh Bắc Bộ. Mỗi bên
tham gia vào vận chuyển, thủy sản và các hoạt động nghiên cứu khoa học biển,
không bao giờ có một cuộc xung đột?
3 - "Kỷ yếu 1990" công nhận chủ
quyền Biển Đông của Trung Quốc.
Hồ
Chí Minh đã ký ba lần liên tục thỏa thuận "Hiệp ước Vạn Lịch nhượng hải và Vịnh Bắc Bộ"
của những năm 1957, năm 1961 và 1963. Liên quan đến khai thác thủy sản, tương
ứng thẩm quyền 3-12 dặm lãnh hải của Việt Nam, cũng như các bên thực hiện quy
định về hợp tác nghề cá. 3-12 hải lý cho vùng biển bên ngoài khoảng cách đường
cơ sở lãnh hải giữa hai nước, ba "Hiệp ước" trên, ngư dân giữa hai
nước tại khu vực được hành nghề đánh cá chung "Tự do ra biển", tôn
trọng sinh hoạt thói quen của ngư dân đã sống hai thế hệ, có thể liên hiệp tự
do hoạt động khai thác biển, do đó tạo thành hai cộng đồng ngư dân ở phía Bắc
của Vịnh Bắc Bộ và ngư trường truyền thống quyền đánh bắt cá.
Nhưng
đến năm 1970, luật pháp về biển của Trung Quốc phát triển hiện đại, quan trọng
mở rộng chủ quyền quốc gia tại ven bờ biển của lãnh thổ ra đến lãnh hải, dần
dần thiết lập một chế độ pháp lý của thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế.
Theo đó, Trung Quốc và Việt Nam đã nêu lên chủ quyền của đất nước mình theo
chiều dài ven Vịnh Bắc Bộ, vì quyền và lợi ích khai thác mỗi bên không nhận
khiếu nại hàng hải của nước ngoài, tránh cho cả hai bên chồng chéo và xung đột
để phù hợp cho vị trí của Trung Quốc tại Vịnh Bắc Bộ, hai bên nên tham khảo
luật thực tiễn quốc tế, và được giải quyết thông qua đàm phán.
Quần
đảo Nam Sa (Hoàng Sa) là lãnh hải của Trung Quốc từ thời cổ đại, một phần không
thể thiếu? và những vùng biển lân cận có chủ quyền không thể chối cãi. Người
Trung Quốc đầu tiên phát hiện ra quần đảo Nam Sa, sau khi chính phủ Trung Quốc
đã thực hiện thẩm quyền đối với quần đảo Nam Sa và quần đảo Trường Sa được xem
một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Trong lịch sử, quần đảo Trường Sa đã từng bị
Nhật Bản chiếm đóng. Vào cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, sau đó, chính
phủ Trung Quốc phục hồi quần đảo Nam Sa. Do đó, đến những năm 1970, Trung Quốc
không còn tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Trường Sa, không còn nhắc đến sự
tồn tại trên trường quốc tế. Năm 1983, trên cơ sở của chính phủ Trung Quốc việc
đặt lại tên cho 189 hòn đảo, bãi cát và rạn nhóm san hô, mà trước đây cá nhân
đã đổi tên đảo, một lần nữa tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa chủ quyền của
Trung Quốc.
Vế
vùng đảo Trường Sa theo phân định quốc tế giữa 3 độ 37 phút vĩ độ Bắc và 12 độ
40 phút kinh độ Đông 108 độ 10 phút đến 119 độ, là nhóm lớn nhất của những rạn
san hô ở Biển Đông, bao gồm khoảng hơn 230 đảo, đá ngầm, bãi cát ngầm, bãi cát
thành phần, bao gồm 25 hòn đảo, 128 đảo nhỏ ẩn dưới nước theo dạng đá, và 77
đảo nhỏ trên mặt nước ẩn trong cát biển.
4 - Đàm phán biên giới Trung-Việt.
Từ
năm 1975, Việt Nam muốn đặt vấn đề chủ quyền lãnh hải trên Biển Đông, chủ yếu
hai vùng đảo Nam Sa (Nansha) và Hoàng Sa (Xisha Islands).
Đối
với vấn đề này, vị trí của chính phủ Trung Quốc đã rõ ràng, rằng Trung Quốc có
chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa, chủ quyền không thể tranh cãi không thể
thương lượng. Đồng thời, chúng ta có thể khám phá những ý tưởng để đạt được
"gác tranh chấp và tìm kiếm phát triển chung", để tạo điều kiện và
cùng nhau bảo vệ hòa bình, ổn định tại vùng biển Nam Trung Quốc và không cần
thiết tranh chấp Biển Đông.
Bộ
Trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham (钱其参)
phát biểu: Xu hướng cơ bản của các vấn đề biên giới Trung-Việt, không cần thiết
Việt Nam đặt lại các vấn đề này trên bàn đàm phán Châu Á.
Những cuộc đàm phán giải quyết lãnh thổ và lãnh
hải.
Năm
1970, Việt Nam đã hai lần tổ chức các cuộc đàm phán biên giới, chủ yếu thảo
luận về vấn đề biên giới đất liền và phân định lãnh hải phía Bắc của Vịnh Bắc
Bộ, vấn đề này không liên quan đến quần đảo Trường Sa?
Trung
Quốc cho rằng, vào thời điểm đó, vì nhiều lý do, cho nên đàm phán theo từng
phần giữa hai quốc gia, chưa ý định đặt ra đàm phán toàn diện, trên thực tế khi
tranh luận, Việt Nam nói lý do của bạn, Trung Quốc nói sự thật của tôi. Thời
đại đó, hai bên giải quyết thông qua thương lượng đất liền biên giới và Vịnh
Bắc Bộ, bởi thời gian đó chưa phải đúng lúc đưa ra điều kiện phân định biên
giới, vì vậy Việt Nam-Trung Quốc đã có hai cuộc đàm phán không đưa ra kết quả.
Kể
từ đó, Trung Quốc và Việt Nam tranh chấp đất liền vùng biên giới và Vịnh Bắc
Bộ, đã có các cuộc tranh chấp và tranh cãi quần đảo Trường Sa, kết quả đã có 4
lần chiến tranh 1974, 1979, 1984, 1988, đưa đến tổng thể suy giảm quan hệ song
phương. Vấn đề biên giới, Trung Quốc và Việt Nam vì vậy đã có những bài học đẫm
máu trong chiến tranh. Trong thực tế, việc thực hiện bình thường quan hệ
Trung-Việt, còn trở ngại suy nghĩ thù địch giữ cán bộ và hai cộng đồng
Việt-Hoa, nói chung không vì điều đó làm biến mất hoàn toàn quan hệ song
phương, tranh chấp phát sinh giữa hai vùng biên giới, Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông
rất khó duy trì bình tĩnh và ổn định.
Trung
Quốc đã nắm được then chốt của từng đảng viên Cộng sản Việt Nam; như trước năm
1962, Hồ Chí Minh đã từng dâng cho Trung Quốc 459,561 km biên giới và vùng đảo
Bạch Long Vĩ để đổi lấy vũ khí, ngày nay Nguyễn Văn Linh nối gót theo lời
"Bác" để "đảng tồn tại". Việt Nam lại thêm một lẫn nữa mất
máu phần đất liền biên giới từ Việt Bắc đến Đông Bắc, Vịnh Bắc Bộ và những mâu
thuẫn Biển Đông vẫn duy trì sẽ còn hứa hẹn xung đột, chắc chắn sẽ tác động tiêu
cực đến quan hệ song phương. Trung Quốc muốn phục hồi hoàn toàn quan hệ giữa
hai nước trong khía cạnh Việt Nam tự trị. Nhân dịp bình thường hóa quan hệ song
phương các nhà lãnh đạo Việt Nam cần phải thực hiện sự đồng thuận, thông qua
đàm phán để giải quyết những vấn đề biên giới, và đưa vào chương trình nghị sự
ngoại giao.
Tháng
12 năm 1992 Thủ tướng Lý Bằng đã đến thăm Việt Nam, hội đàm với các nhà lãnh
đạo Việt Nam, hai bên giải quyết vấn đề biên giới đã trao đổi sâu sắc quan điểm
và đạt đến một sự đồng thuận trong các cuộc đàm phán song phương, nhất trí tiếp
tục tổ chức các cuộc đàm phán cấp chính phủ hay cấp chuyên viên Ngoại giao càng
sớm càng tốt; cho phù hợp với luật pháp quốc tế, chấp nhận một nguyên tắc cơ
bản theo hướng dẫn "Kỷ yếu" để giải quyết vấn đề biên giới là tranh
chấp lãnh thổ cho phù hợp, thúc đẩy tiến trình đàm phán với những nguyên tắc chung,
phù hợp cho những giải quyết hàng hải và vấn đề tranh chấp đất liền lãnh thổ. Ở
phía trước đang thương thuyết hòa giải, hai bên không được hành động phức tạp
hay tranh chấp thực hiện cắm mốc biên giới v.v...
Cho
đến nay, Trung Quốc và Việt Nam đã thành lập kịp thời cơ chế hoạt động song
phương đàm phán biên giới theo cấp Chính phủ đã đạt được nhiều đồng thuận. Trên
thực tế, chuyến thăm của Lý bằng đến Việt Nam vào tháng 10 năm 1992, để thôi
thúc những chuyên gia Trung Quốc và Việt Nam đến Bắc Kinh để đàm phán, trực
tiếp chương trình nghị sự biên giới trong vòng đầu, sau đó hai nhà lãnh đạo
Việt Nam-Trung Quốc ký vào văn kiện thỏa thuận hiệp ước biên giới.
Vào
tháng 2 năm 1993, tại Hà Nội hai bên đã tổ chức một vòng đàm phán mới về biên
giới. Hai bên chuyên gia điều khiển chương trình thảo luận về song phương đất
liền biên giới phía Bắc và vấn đề phân định biển Vịnh Bắc Bộ, cùng đề nghị việc
duy trì các khu vực biên giới và Vịnh Bắc Bộ nhằm ổn định trong khu vực, thông
qua liên lạc của hai bên có một số hiểu biết về giá trị của nhau. Theo hai nhà
lãnh đạo cấp chính phủ cho biết: Còn tùy thuộc thời điểm thích hợp tổ chức đàm
phán "thống nhất" biên giới, cùng kết hợp tiếp xúc danh sách chuyên
gia điều khiển từng vòng họp.
Bộ
Trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham (钱其参)
phát biểu và nhấn mạnh: Tôi được bổ nhiệm làm người đứng đầu thành lập Bộ Ngoại
giao của chính phủ Trung Quốc, và các cơ quan khác có liên quan đến chính phủ.
Tôi đã tổ chức một số cơ quan cấp tỉnh, khu tự trị, và Bộ Ngoại giao, mời các
chuyên gia kinh nghiệm về quan hệ song phương Trung-Việt đánh giá lại khả năng
và nghiên cứu mọi giải pháp, thương lượng các vấn đề biên giới. Trên cơ sở phân
tích sâu sắc của Trung Quốc sau khi được phê duyệt.
5 - Thiết lập các cơ chế theo nguyên tắc.
Tiền
Kỳ Tham bước vào công việc chuẩn bị cho cuộc đàm phán. Trên cơ sở đã nghiên cứu
đầy đủ về vị trí trước đây của Việt Nam. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và Cộng
Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã soạn thảo nghị sự giải quyết đất liền ranh
giới và sự phân chia phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ theo nguyên tắc cơ bản của vấn đề
giao thức, gọi tắt là "nguyên tắc cơ bản Hiệp định". Dự thảo nội
dung, Trung Quốc tham gia vào các cơ chế đàm phán, cũng như thúc đẩy chính trị,
ngoại giao và các nguyên tắc trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Với
dự thảo này, Tiền Kỳ Tham hy vọng sẽ chuyển tải một thông điệp quan trọng đến
phía Việt Nam, thái độ của Trung Quốc đối với các cuộc đàm phán là tích cực,
thiết thực và mang tính xây dựng, hai bên có thể đặt một nền tảng tốt cho việc
giải quyết cuối cùng của vụ tranh chấp. Để thúc đẩy thỏa thuận ngay khi Tiền Kỳ
Tham đưa ra dự thảo "Hiệp định nguyên tắc cơ bản". Việt Nam phải thực
hiện theo giao thức trước thời hạn, để cung cấp cho các bên có đủ thời gian
tiến hành nghiên cứu và thông tin phản hồi.
Vòng
đầu tiên, các cấp cao chính phủ tổ chức đàm phán biên giới trước khi chính
thức, Việt Nam và Trung Quốc thực hiện các dự thảo gồm có phản ứng tích cực.
Ngày 22 tháng 7 năm 1993, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Tiền Kỳ Tham
gặp Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm tại Singapore. Tiền Kỳ Tham
bày tỏ hy vọng rằng các nỗ lực chung của hai bên để đạt tiến bộ trong các cuộc
đàm phán cấp chính phủ, để đạt được sự đồng thuận về một số vấn đề, như là kết
quả ban đầu của cuộc đàm phán, hai bên có thể ký một văn bản nguyên tắc về việc
giải quyết vấn đề biên giới, được gọi là "Các nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận."
Tiền Kỳ Tham (钱其琛) Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, phụ trách Trung Quốc
với các nước láng giềng Châu Á. Nguyễn Mạnh Cầm (阮孟琴) Phó Thủ tướng Việt
Nam. Vũ Khoan (武宽),
nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam.
6 - Nguyễn Mạnh Cầm chưa thấy chuyển động cơ
bản mất nước.
Ngày
24 đến 29 tháng 8 năm 1993, trong vòng đầu tiên đàm phán cấp chính phủ về biên
giới được tổ chức tại Bắc Kinh. Tiền Kỳ Tham đứng đầu phái đoàn Trung Quốc, Thứ
trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Vũ Khoan là người đứng đầu phái đoàn chính phủ
Việt Nam.
Trong
5 ngày đàm phán, hai bên đã tổ chức ba phiên họp chung toàn diện và hai cuộc
họp riêng biệt, các chuyên gia của cả hai bên báo cáo, trình bày tham luận, hội
thảo trong cuộc họp.
Tiền
Kỳ Tham chủ trì phiên họp chung toàn diện, đầu tiên đề nghị phía Việt Nam đưa
ra những cụ thể và cho phù hợp sự thay đổi tình hình quốc tế. Trung Quốc và
Việt Nam đã đạt được bình thường hóa quan hệ theo tình hình mới, hai bên đã tổ
chức cấp chính phủ đàm phán biên giới được đánh giá quan trọng nhất.
Sau
đó, Tiền Kỳ Tham giải thích chi tiết toàn diện tầm nhìn của Trung Quốc để các
cuộc đàm phán dễ chấp nhận. Đôi lúc Tiền Kỳ Tham thẳng thắn đưa ra các giải
pháp của vấn đề biên giới dựa trên nguyên tắc dễ dàng thỏa hiệp. Hai bên tập
trung vào giải quyết theo Pháp luật đã ấn định trong "Kỷ yếu" ? và
công bố cơ bản biên giới đất liền theo luật pháp quốc tế, phù hợp với các
nguyên tắc công bằng phân định Vịnh Bắc Bộ. Tiền Kỳ Tham thực hiện các khuyến
nghị cụ thể, bao gồm nguyên tắc và thủ tục cơ bản để sau đó lập lại đàm phán
tương tự. Và ông đã kết nối nhiều sự kiện, gộp vào một qui tắc ứng xử quá ngoạn
mục làm cho người ta liên tưởng đến biên giới Việt Nam đã xử lý từ lâu.
Về
vấn đề quần đảo Trường Sa, Tiền Kỳ Tham đã nói trong bài phát biểu của ông, đưa
ra một công thức có quá nhiều phức tạp, cuối cùng đúc kết chỉ là một yếu tố
Trung Quốc muốn hai bên thảo luận không tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa (Biển
Đông) tuy nhiên phía Việt Nam phải "gác bỏ tranh chấp và tìm kiếm phát triển chung",
cùng nhau bảo vệ hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông.
Ngoài
ra, Tiền Kỳ Tham phát biểu một số ý kiến, giảm bớt tranh chấp của các bên trong
đó nỗ lực chung để ổn định Biển Đông, tạm thời tránh không thể giải quyết các
quần đảo Trường Sa đang tranh chấp có ảnh hưởng đến sự phát triển của quan hệ
song phương.
Tiền
Kỳ Tham có ý khuyên Vũ Khoan, nên đóng vai tuồng phản ứng tích cực và sau đó
hướng phía Việt Nam đồng ý ngồi vào bàn tròn của Trung Quốc, chấp thuận dự thảo "nguyên tắc cơ bản thỏa thuận",
về đất liền biên giới và Vịnh Bắc Bộ phân định đúng nội dung "Kỷ yếu"
đã định, hai bên giải quyết qua cơ sở của pháp luật đất liền với mức độ cao của
sự đồng thuận biên giới. Vũ Khoan cho rằng, phía Việt Nam đồng ý làm mọi việc
với Trung Quốc để đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ, mà tự nó phản ánh mức độ cao
nhất có tính linh hoạt của Việt Nam.
Bắc
Kinh giới thiệu Vũ Khoan, như là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, khuôn mặt
trí thức hàng đầu của Việt Nam, có cá tính tốt, lịch sự, cách cư xử tinh tế.
Thuở trẻ học tại Quế Lâm, Quảng Tây Trung Quốc (khóa 45 gián điệp Quảng Tây),
hiểu biết nhiều về lịch sử Trung Quốc. Sau năm 1955, ông vào Bộ Ngoại giao Việt
Nam, ông đã có nhiều chuyến thăm Liên Xô với các nhà lãnh đạo Việt Nam, kinh
nghiệm ngoại giao khá phong phú.
Vũ
Khoan tính kín đáo thường không tiết lộ, nhưng ở vòng đàm phán đầu tiên, ông
phát biếu sôi nổi về biên giới phía Bắc và Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, ông cho
rằng nó có tầm quan trọng quốc phòng. Ông nói tiếp: Việt Nam và Vịnh Bắc Bộ
giống như mẹ và đứa con trai, nay tại Vịnh Bắc Bộ dân số tăng lên 150 ngàn
người, tương đương một trong 10 tỉnh ở Việt Nam. Việt Nam khó chấp nhận nguyên
tắc phân chia theo cổ phần tại Bắc Việt và Vịnh Bắc Bộ nếu không phù hợp của
phía Trung Quốc.
Tiếp
theo, Vũ Khoan đề nghị "Quần đảo Trường Sa" và "vấn đề đảo
cát", đòi hỏi cả hai bên viết văn bản của dự thảo "các nguyên tắc cơ
bản của thỏa thuận", "Trường Sa- Hoàng Sa" và "hòn đảo
cát" phổ biến qua truyền thông. Vũ Khoan nói tỏ vẻ chống lại ý của Trung
Quốc.
Tiền
Kỳ Tham dựa trên sự đồng thuận, tóm tắt thảo luận đất liền biên giới, ông khẳng
định và giải thích chi tiết phía Bắc Vịnh Bắc Bộ của Trung Quốc để thuyết phục
mọi người chấp nhận hoàn toàn.
Lúc
này Tiền Kỳ Tham cũng hơi vui mừng để nói rằng Vịnh Bắc Bộ được chia sẻ bởi
Trung Quốc và Việt Nam, nó rất quan trọng không chỉ đối với Việt Nam, cũng là
điều cần thiết đối với Trung Quốc, đó là khu tự trị tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông,
Hải Nam 450.000 km vuông đất bao quanh, nâng cao các tỉnh 110 triệu người, và
nó cũng là một vùng quan trọng biển Quảng Tây, Hải Nam. Vịnh Bắc Bộ không chỉ
là địa lý chặt chẽ với Việt Nam, nó là phần mở rộng của cảnh quan Trung Quốc.
Vì vậy, theo nguyên tắc phân chia cổ phần của Vịnh Bắc Bộ cho nhân dân hai
nước.
Sau
đó, Tiền Kỳ Tham trình bày quan điểm của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa cho nó rõ ràng trong đàm phán về Biển Đông, riêng biên giới
Việt Nam không liên quan đến vấn đề quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa, lập
trường của Trung Quốc về vấn đề chủ quyền lãnh thổ không thể thay đổi, điều này
là thực tế.
Tiền
Kỳ Tham nói rằng, sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam tại quần đảo Trường
Sa là vấn đề Việt Nam muốn hoàn toàn chủ quyền, chống lại chủ quyền của Trung
Quốc. Về vấn đề quần đảo Trường Sa, cho thấy Trung Quốc đã hạn chế tranh chấp,
tuy nhiên, Trung Quốc sẽ không đồng ý văn bản dự thảo Nam Sa và "các
nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận".
Cộng sản mật nghị âm mưu bán nước.
Trung
Quốc đã đơn phương trả giá với Việt Cộng, định lại lãnh thổ, lãnh hải của Việt
Nam, tất nhiên Trung Cộng và Việt Cộng phủ nhận (Hòa ước Thiên Tân 1885
Pháp-Thanh).
Ít
nhất trong lúc này công pháp quốc tế đã công nhận biên giới Việt Nam trên cơ sở
giá trị của (Hòa ước Thiên Tân 1885 Pháp-Thanh), biên giới Việt Nam đã có chiều
dài 1850,637 km. Giữa hai chính phủ Pháp-Thanh đã thỏa thuận ký kết Hòa ước ngày 9
tháng 6 năm 1885 và công bố biên giới hiện thời của Pháp-Thanh
nhằm tranh giành ảnh hưởng ở Việt Nam. Hòa ước này chấm dứt chiến tranh
Pháp-Thanh, buộc quân Thanh phải rút khỏi Bắc Kỳ, và công nhận nền bảo hộ của Pháp tại
Việt Nam.
Công
ước Pháp-Thanh 1887, còn có tên là "Công ước Constans 1887", được
thực hiện giữa Pháp và nhà Thanh nhằm thi hành Điều khoản 3 của Hòa ước Thiên Tân 1885, hai bên đã ký năm
1885. Nội dung của công ước này nhằm phân chia lại đường biên giới giữa Bắc Kỳ
và Trung Quốc. Trong quá trình hai bên tiến hành phân chia đường biên giới; đô
đốc Pháp Rieunier đã nhân nhượng cắt một số đất đai ở Hà Giang và Quảng Yên của
Việt Nam giao cho Lý Hồng Chương đại diện nhà Thanh.
Vào năm 1888, trên bản
đồ Vịnh Bắc Bộ có vùng đảo Bạch Long Vĩ thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam,
Pháp chỉ cắt Mũi Bạch Long cho nhà Thanh. (Cap Paklung có dấu chấm đỏ).
Hòa
ước Pháp-Thanh 1895 hay còn có tên gọi "Công ước Gérard 1895", nội
dung của bản Hòa ước được ký giữa Pháp và Trung Hoa năm 1895 nhằm phân chia lại
đường biên giới giữa Bắc Kỳ và Vân Nam, nhằm bổ túc cho Công ước Pháp-Thanh 1887. Việc ký kết này được
thực hiện vào ngày 20 tháng 06 năm 1895 tại Bắc Kinh bởi đại
diện của Pháp ở Trung Hoa là Đại sứ Gérard và đại diện Trung Hoa là Khánh Thân
Vương (Dịch Khuông), Đại thần Tổng lý nha môn nhà Thanh.
Bản
đồ địa giới Bắc Kỳ năm 1879, tức tám năm trước Hòa ước Pháp-Thanh lấy sông
Dương Hà (sông An Nam Giang) làm biên giới giữa tỉnh Quảng Yên và tỉnh Quảng Đông. Sau năm 1887, biên giới
chuyển xuống phía nam, lấy cửa sông Bắc Luân ở Hải Ninh (Móng Cái) làm địa
giới, dó đó huyện Đông Hưng của Việt Nam không cùng ở với đất Mẹ.
Sau khi phân định ranh
giới giữa Trung Quốc và Pháp có khoản 1850,637 km phân đoạn dài từ Quảng Tây
đến núi cao Lĩnh Thạch, và phần đất Vân Nam đã được thành lập điểm cắm cột mốc
đánh dấu ranh giới, chủ yếu lấy sườn núi đá vôi Ni (貎) và trên 34 sông, rạch,
suối thiên nhiên làm ranh phân định biên giới. Pháp đã thiết lập một ranh giới
cắm 240 cột mốc và 24 huyện dọc theo đường đánh dấu phân định biên giới
Trung-Việt.
Biên
giới đã định luật thiên nhiên sông, suối, rạch, theo cơ sở "tục truyền
thống". Phân định "ranh giới nước" có 383,914 km, giữa hai quốc
gia Trung Quốc-Việt Nam.
-
Tỉnh Điện Biên, có 3 con sông: Nậm Náp chiều dài 13,212 km, Sông Đà chiều dài
3,601 km và Nậm Là chiều dài 14,97 km.
-
Tỉnh Lai Châu, có 7 con sông, Sông Nậm Lè 10, 01 km, suối Nậm Na 0,138 km, sông
Nậm Cúm 14,403 km, suối Phin Ho 4,074 km, sông Lũng Pô 39,65 km, Sông Hồng
29,65 km và sông Nậm Thi 9,184 km.
-
Tỉnh Lào Cai, có 6 sông ngòi, sông Bát Kết 14,10 km, Sông Xanh 10,94 km, Sông
Chảy 9,075 km, suối Hồ Phả 0,633 km, Suối Đỏ 7,991 km và Nậm Cư 6,062 km.
-
Tỉnh Hà Giang có 3 sông-suối, suối Nà La, 2,11 km, sông Nho Quê 13,601 km và
suối Cửa Sóc Giang 0,239 km.
-
Tỉnh Cao Bằng có 7 sông-suối, sông Quây Sơn 14,99 km, Suối Bản Kiềng 0,25 km,
sông Bắc Vọng 18,03, Suối Mo 0,49 km, Suối Thâm Coỏng 0,86, Suối Bản Có 0,834
km và Suối Khuổi Lạn 1,451 km.
-
Tỉnh Lạng Sơn có 7 sông-suối, sông Kỳ Cùng 3,752 km, suối Tài Văn 2,459 km,
sông Nà Sa 5,053 km, sông Đồng Mô 7,023 km, sông Bí Lao 7,638 km, sông Ka Long
48,73 km và sông Bắc Luôn 11,77 km, (33 con sông-suối), sông Dương Hà (An Nam
Giang) 74, 524 km.
Chiếu
theo biên giới giữa lịch sử hình thành thời nhà Thanh Trung Quốc và Chính phủ
Pháp tại Việt Nam cuối thế kỷ 19. Pháp đã thông qua "vòng tròn thảo luận biên giới Việt Nam"
và tiếp tục thảo luận "ranh giới theo diễn giải" đã phân định và phân
giới cắm cột mốc trên cơ sở 15 tập tư liệu gọi là mô tả "Hòa ước Thiên Tân
1885". Trong qui định đó, chủ yếu đường biên giới thiên nhiên từ núi cao
Lĩnh Thạch, và lưu vực sông ngòi, suối làm phân giới. Trong Hiệp ước Pháp-Thanh
(Thiên Tân 1885)
Thế
nhưng, trước năm 1940, theo Hòa ước Pháp-Thanh, Việt Nam có chiều dài cùng biên
giới với Trung Quốc là 1850,637 km. Từ khi Hồ Chí Minh xuất hiện 1945-1969.
Việt Nam liên tục mất 149,566 km lãnh thổ và lãnh hải, chưa kể Phạm Văn Đồng và
Chu Ân Lai đã ký 3 lần Hiệp ước "Vạn Lịch White Dragon Tail Island"
(Loan lí đích bạch long vĩ đảo) dâng hiến cho Trung Quốc.[2]
Sau
thời "Bác", Việt Nam còn lại 1701.071 km chiều dài đường biên giới
chung với Trung Quốc, Việt Nam bị thu hẹp trên đất liền chỉ còn 1465,650 km, và
phân định biên giới theo thiên nhiên sông, rạch, suối có 385,914km. Phần thứ
hai trong Hòa ước 1885: Đường biên giới ven Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam có chiều
dài 70.623 km, giáp với Quảng Tây Trung Quốc.
Thế
nhưng tại "mật nghị Thành Đô" phía Trung Quốc cho rằng Việt Nam chỉ
có 1300 km chiều dài theo biên giới tuyến thống.
Trung Cộng-Việt Cộng
chung đường cùng cướp lịch sử và địa lý Việt Nam. Đường biên giới đất liền màu
xanh dài 1850,637 km đã mất từ năm 1945 đến 1965, và mất 70.623 km đường ven
Vịnh Bắc Bộ. Đường biên giới đất liền hiện tại màu vàng dài 1300 km. Trung Quốc
hứa hẹn tiếp tục lấy tất chia phần. Nguồn: Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Trung Quốc
Tiền Kỳ Tham (钱其参).
Trong
"Hiệp định nguyên tắc cơ
bản 1993" giữa Trung Cộng-Việt Cộng đã cưỡng cướp của Việt Nam trên
480.014 km biên giới đất liền, 383,714 km đường biên giới sông, suối và chuẩn
bị tranh chấp 227 km² đất khai thác. Việt Cộng tổ chức một chuyến cướp lớn nhất
lịch sử Việt Nam, chưa từng có là tự ý phủ nhận đường biên giới đất liền lãnh
thổ của Hiệp ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1885). Như vậy trước sau cuộc chiến và
đàm phán với Trung Quốc đang ở giai đoạn đầu mất nước theo chiến thuật Việt Nam
từ từ teo lại, chưa kể sau khi hết chiến tranh năm 1990, Việt Nam đã mất 968
km² đất sinh cư tại biên giới.
Trong
hội nghị của BCT/TW đảng Cộng sản VN với Trung Cộng chưa có súng tiếng đã để
mất từng ấy Km tại biên giới. Chưa kể trong hai cuộc chiến ngày 17/2/1979 tháng
4/1984, và vùng đảo Gạc Ma 1988. Việt Nam đã để mất đất liền tài nguyên và rừng
núi bạt ngàn. Ngày nay Việt Nam đã chính thức mất thêm chiều dài đường biên
giới 863,728 km.
Cho
thấy Việt Nam và Trung Quốc đã phân định lại địa lý biên giới của hai Quốc gia
theo đơn giản không thông qua đàm phán Ngoại giao hay Công Pháp Quốc tế. Đồng
nghĩa Việt Nam tự âm thầm chết dưới tay Trung Quốc, không thể tưởng tượng cả
dân tộc Việt Nam "không thấy không biết" hành động của Việt Cộng sau
74 cầm quyền độc trị.
Nguyễn
Văn Linh và Giang Trạch Dân trước khi ký chung vào bản "Kỷ yếu 1990"
đã thỏa thuận trước công thức bán tháo tài sản quốc gia Việt Nam, đàm phán chỉ
là cách chơi chính trị của người Cộng sản. Chứng tỏ Cộng sản đã quá xem thường
dân tộc Việt Nam. 74 năm độc trị chưa bao giờ Cộng sản nghiêm chỉnh, quản trị
đất nước vô nguyên tắc, sĩ nhục cho dân tộc Việt Nam nhận phải "Kỷ yếu đàm
phán ngày 3-4/9/1990". Tiếp theo "Hiệp ước biên giới đất liền
Việt-Trung vào ngày 30 tháng 12 năm 1999". Xử lý quá đáng, họ hành động
theo lối giày đinh của kẻ chiến thắng đạp lên xác dân tộc Việt Nam.
Cho
đến nay đã gần 1/4 thế kỷ 21, Việt Nam vẫn còn ngẩn ngơ trước sự tình đất nước
quá bi đát thế này? Hởi loài "Câm như miệng hến", hãy đối thoại trước
nhân dân về Hội nghị bí mật Thành Đô 1990 để tìm lối thoát nghèo hèn, bằng
không bỏ hến vào nồi luộc, luật sống thiên nhiên đã bày ra sinh tồn như thế.
Bài
đã đăng:
Chân dung những kẻ sẽ tống tuổi trẻ Việt Nam ra chiến trường
Vũ Đông Hà
(Danlambao) - Trong giai đoạn "ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung
Quốc" CSVN chỉ có 36 ông tướng tiến lên đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào - đánh cho hộc máu
đồng bào miền Nam (*). Ngày hôm nay, sau 39 năm
chuyển sang sự nghiệp tiến về thành đô ta giải phóng mặt bằng, quân đội cộng
sản có tới 489 sĩ quan cấp tướng. Trong suốt thời gian có thêm 453 tướng lãnh
này, những gì đã xảy ra trên đất nước Việt Nam?:
Hơn 700km2 vùng biên giới phía bắc bị ký dâng cho Tàu cộng; một
nửa Thác Bản Giốc đã bị cắm cờ 5 sao; Ải Nam Quan biến thành Hữu Nghị quan;
Biển đông trở thành ao cá của hải tặc Bắc Kinh tự tung tự tác - biến từ vùng
biển chủ quyền của Việt Nam sang vùng tranh chấp và trở thành vùng khai thác
của chúng.
Nhưng đó chỉ mới là đất khô và biển mặn. Hòa tan trong sóng biển
là máu của 64 người lính hải quân Việt Nam bị tàn sát bởi Tàu cộng trên đảo Gạc
Ma vào năm 1988 khi tướng Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh ra lệnh hải quân Việt
Nam không được nổ súng chống trả quân xâm lược phương Bắc. Chôn sâu trong lòng
đất là thân xác của hàng chục ngàn người lính mang tên Quân Đội Nhân Dân mà mộ
phần ghi dấu những chiến tích của họ đã bị đục bỏ để làm vừa lòng quân xâm lược
sau Mật nghị Thành Đô.
Tất cả đều là "thành tích lẫy lừng" làm nên những ngôi
sao "sáng ngời" gắn thêm vào vai 453 những tướng cộng sản.
Cũng trong suốt thời gian giang sơn, biển đảo của cha ông ngày càng
bị teo lại thì người dân Việt cũng đã chứng kiến sự phình to của những tập đoàn
kinh tế quân đội. Trách nhiệm bảo vệ tổ quốc bị các tướng lãnh cộng sản dẹp qua
một bên, nhường chỗ cho công cuộc làm giàu tấp nập. Họ thi nhau bỏ súng, đếm
đạn quay sang lập công ty và đếm tiền. Từ lãnh vực viễn thông với Viettel cho
đến công nghiệp đóng tàu, từ ngân hàng quân đội MBBank sang lãnh vực khai thác
rừng và xây dựng với Tổng công ty xây dựng Trường Sơn... quân đội trở thành
mảnh đất kinh doanh màu mỡ nhất, ít vốn nhiều lợi nhuận nhất cho những tướng
mặt tròn, bụng phệ thi đua làm giàu.
Đứng đầu tập đoàn mặc đồ lính đếm đô la này là Phùng Quang Thanh,
kẻ đã nhiều lần sang khấu đầu Bắc Kinh, gọi kẻ thù xâm lược là bạn và tuyên bố
phải giữ nguyên hiện trạng việc Bắc Kinh xâm lược Biển Đông để cùng nhau khai
thác vùng biển đảo của cha ông để lại.
Đây cũng là tên tướng với lối nói sai bét về ngữ pháp, văn phạm
tiếng Việt - "anh em rất
tâm tư" - đòi hỏi Quốc hội cộng sản phải tiếp tục
thăng tướng cho những tên đang mang hàm giáo sư, tiến sĩ chỉ còn thiếu cái
bằng... tướng, cho những kẻ đang làm giám đốc kinh doanh được gắn 1 sao cho
vinh quang sự nghiệp... lính chiến anh hùng.
Không phong tướng,
"anh em rất tâm tư!"
"Tâm tư" và
không cần biết khi Tàu cộng xâm chiếm biển đông, cướp bóc, bắt cóc, đâm chìm
ngư dân... những "anh em tâm
tư" này ở đâu, làm gì!? Không cần biết những tên sĩ quan cấp tá rất tâm tư muốn thành
tướng này những năm qua có bao giờ đặt chân đến biên giới, có mặt ở những vùng
biển đảo của tổ quốc đang bị đe dọa, hiện diện cùng với những người lính đứng ở
tuyến đầu bảo vệ tổ quốc.
Có người nghĩ rằng những gì đã và đang xảy ra là chuyện của...
chúng!
Nhưng nếu chúng ta, nếu bạn xem đây là điều không liên quan gì đến
đời sống của bạn thì hãy nhớ đến hơn 20000 người lính đã bỏ mình ở núi rừng
Việt Bắc, hãy nhớ đến số phận của 64 hải quân Việt Nam ở Gạc Ma đã bị Lê Đức
Anh ban giấy tử trước khi họ nhìn thấy bóng dáng quân thù. Ngày mai đây, khi
quốc gia có biến, không ai khác hơn những tên tướng này, không ai khác hơn
Phùng Quang Thanh là kẻ sẽ tống bạn ra chiến trường làm những tấm bia người cho
kẻ thù mà chúng đang ngày đêm xum xoe gọi là bạn. Bạn sẽ "được" chỉ
huy và gửi vào chỗ chết bởi những tên quyền to, chức lớn, nhiều sao, lắm tiền
nhưng khả năng quân sự được xếp vào hạng mười năm chưa từng bỏ một viên đạn vào
khẩu súng được đeo làm kiểng.
Nếu bạn chỉ mong con cái mình yên ổn làm ăn, đừng quan tâm đến
chuyện "lớn" thì một ngày nào đó chính bạn sẽ phải thắp nhang trên
những nấm mồ của con cái bạn. Lúc ấy bạn đừng mơ tưởng trên tấm bia có bất cứ hàng
chữ nào mang nội dung là liệt sĩ hy sinh bảo vệ đất nước chống Tàu. Tổ quốc
Việt Nam lúc đó đã là một tỉnh lỵ của Tàu. Những tên tướng nhiều sao, những nhà
lãnh đạo cộng sản mang quốc tịch Việt ngày hôm nay, lúc ấy cũng đã là những đứa
con hoang đàng trở về cố quốc của bác Hồ, bác Mao.
Quân đội, sức mạnh bảo vệ tổ quốc đã và đang nằm trong tay những
tên tướng cướp, những trọc phú, sẵn sàng thỏa hiệp với kẻ thù xâm lược để được
yên thân làm giàu và thăng tướng.
____________________________________
(*) thơ Bùi Giáng
Bài liên quan đã đăng:
- Phùng Quang Thanh: kẻ thù của Tổ Quốc phải là bạn của
"đảng ta"
- Đại tướng ơi, nhân dân “tâm tư” sổ phong thần hơn là phong tướng!
- Đại tướng ơi, nhân dân “tâm tư” sổ phong thần hơn là phong tướng!
- Đôi lời với những người lính Việt Nam
- Tướng Phùng Quang Thanh chỉ đạo mang tiền quân đội gửi ngân hàng lấy lãi?
- Xập xám chướng khấu kiến Bắc Kinh
- Tướng “đầu tôm”?
- Bộ mặt hèn của Phùng đại tướng
- Những sự thật cần phải biết (Phần 33): Nô tài cho giặc - Phùng Quang Thanh - Dân Làm Báo
- Tướng Phùng Quang Thanh chỉ đạo mang tiền quân đội gửi ngân hàng lấy lãi?
- Xập xám chướng khấu kiến Bắc Kinh
- Tướng “đầu tôm”?
- Bộ mặt hèn của Phùng đại tướng
- Những sự thật cần phải biết (Phần 33): Nô tài cho giặc - Phùng Quang Thanh - Dân Làm Báo
Trung Quốc không chỉ nguy hiểm về quân sự
Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) -
“…Với 4000 tỷ usd thặng
dư ngoại hối, khối dự trữ lớn này sẽ như quả “bom nguyên tử” đối với Mỹ nói
riêng và thế giới nói chung, nếu Trung Quốc không cân đối sử dụng chuẩn mực hài
hòa giữa lợi ích và trách nhiệm thì “phóng xạ” của nó sẽ gây nên căng thẳng tác
động tiêu cực đến một phần trật tự, kinh tế tài chính, xã hội toàn cầu”.
Ngày
10/11/2014 Nguyên thủ 21 nước thành viên lãnh đạo các nền kinh tế thuộc Diễn
đàn Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) Khai mạc phiên họp thượng
đỉnh tại Thủ đô Bắc Kinh, Trung Quốc.
Toàn cảnh hội nghị APEC
2014 (ảnh AFP)
Danh
chính ngôn thuận là “hợp tác” nhưng tại phiên họp APEC lần này (2014) người ta
có cảm tưởng bên cạnh khái niệm “hợp tác ” (cùng nhau cho một việc chung) thì
chính danh từ “tác” đi kèm lại nảy thêm một ý nghĩa khác là “tác động tạo ảnh
hưởng riêng”- Thực tế chứng minh đã hiển hiện dù chưa đậm nét.
Một
tháng, trước ngày thượng đỉnh APEC hội tụ, 2/10 trong chuyến thăm Indonesia
quốc gia đông dân nhất trong khối Asean, tại diễn đàn Quốc Hội nước này ông
CT/Tập Cận Bình thông báo Trung Quốc sẽ thành lập AIIB Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng
Châu Á (Asian Infrastructure Investment Bank).
Cũng
nên lưu ý, cùng thời điểm này các đối tác Hiệp Ước “TPP” do Mỹ chủ động khởi
xướng (không có Trung Quốc) đang nỗ lực đàm phán hy vọng đạt được một tuyên bố
thỏa thuận chung.
Ông Tập Cận Bình phát
biểu tại quốc hội Indonesia ở Jakarta. (AP)
Còn
trước đó nữa tại Bắc Kinh ngày 24/10 ông Tập Cận Bình nước chủ nhà cùng đại
diện các quốc gia Châu Á bao gồm: Ấn Độ, Bangladesh, Brunei, Campuchia,
Kazakhstan, Kuwait, Lào, Malaysia, Mông Cổ, Myanmar, Nepal, Oman, Pakistan,
Philippines, Qatar, Singapore, Sri Lanka, Thailand, Uzbekistan và Việt Nam đã
cùng ký một bản ghi nhớ về việc thành lập ngân hàng AIIB mà số vốn khởi điểm
chủ yếu từ Bắc Kinh sẽ là 50 tỷ usd và dự kiến tương lai gần tăng lên gấp đôi,
theo kế hoạch sẽ chính thức hoạt động trong năm tới (2015).
Tại Bắc Kinh ngày 24/10
ông Tập Cận Bình cùng đại diện 20 nước Châu Á, Asean “thai nghén”ngân hàng AIIB
“AIIB”
một tổ chức ngân hàng “đa phương” trụ sở đặt tại Trung Quốc và do Trung Quốc
“chủ xị” vốn 50 tỷ usd, như một thể chế tương tự Ngân hàng Thế giới (World Bank
– WB) và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). Trung Quốc muốn thành lập AIIB như
là một đối trọng với WB và ADB, những thể chế mà Bắc Kinh cho là hình thành từ
nguồn vốn của Mỹ và Nhật bị 2 quốc gia này chi phối.
Bước
đi này, tại khu vực Châu Á - Trung Quốc rõ ràng là trước tiên muốn đè bẹp “việt
vị” ADB (Ngân hàng Phát triển Châu Á) “đóng băng” ảnh hưởng Nhật Bản chứ không
muốn đạt một vị trí lớn hơn trong tổ chức này nếu nâng phần đóng góp của mình
nhiều hơn.
Lại
không thể không quan tâm, AIIB chẳng phải là “đột biến gen” mà là sản phẩm
chính qui “made in China” nối tiếp theo sau một sản phẩm tài chính “cộm cáng”
khác mà Trung Quốc tham gia thiết kế đã chào hàng, đó là hồi trung tuần tháng
7/2014 Khối BRICS (Trung Quốc, Brazil, Nga, Ấn Độ, và Nam Phi) loan báo thành
lập một ngân hàng mới có vốn 50 tỷ usd để hỗ trợ cho công cuộc giảm thiểu nghèo
túng trên thế giới. Tổ chức này có tên “Ngân hàng Phát triển Mới” (New
Development Bank) trụ sở đặt tại Trung Quốc (Thượng Hải) Đây được xem là một nỗ
lực của năm nước khối BRICS nhằm thay thế Ngân hàng Thế giới (WB) và phát huy
ảnh hưởng của khối này trong hệ thống tài chánh toàn cầu.
Lãnh đạo 5 nước trong
khối BRICS tại Fortaleza, Brazil, ngày 15/7/2014.
So
sánh nguồn vốn USD từ AIIB = 50 tỷ và BRICS= 50 tỷ với ADB = 175 tỷ và WB = 223
tỷ, khoảng cách Trung Quốc đầu tư còn thấp (so với WB+ADB) tuy nhiên với con số
thặng dư ngoại hối nắm trong tay gần 4000 tỷ usd người ta không biết chuyện gì
sẽ xảy ra nếu Bắc Kinh bất ngờ mở rộng hậu bao thêm nữa? Chuyện không phải là
võ đoán, khi mới đây một quan chức ngành ngân hàng Trung Quốc khi đề cập việc
Bắc Kinh thành lập AIIB nói rằng: "Trung Quốc cảm thấy không có ảnh hưởng gì ở WB và ADB hay
IMF nên muốn thiết lập một hệ thống ngân hàng thế giới riêng như là điều tất
yếu cần phải có của một nền kinh tế lớn” (WB nằm trong quỹ
đạo của Mỹ, còn ADB là Nhật Bản. Tại ADB, Nhật Bản và Mỹ hiện là hai cổ đông
lớn nhất với quyền bỏ phiếu lên tới 26%, trong khi Trung Quốc chỉ có 5,47%.)
11/11/2014,
ngày thứ hai của Thượng đỉnh Diễn đàn (APEC) tại Bắc Kinh, Chủ tịch Trung Quốc
Tập Cận Bình “vui vẻ” thông báo, lãnh đạo các thành viên APEC đã thông qua “lộ
trình” hướng tới việc thành lập FTAAP (Khu Vực Thương Mại Tự Do Châu Á Thái
Bình Dương) . FTAAP bao gồm 10 quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cộng thêm 6 quốc gia
khác ở Châu Á là Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, New Zealand và tất nhiên là
Trung Quốc “chủ xị” - Bắc Kinh phớt lờ coi như Hoa Kỳ là khách không mời mà
đến.
Dự
án FTAAP cạnh tranh với dự án Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương “TPP” mà
Hoa Kỳ mong muốn thực hiện trong khuôn khổ chiến lược tái cân bằng lực lượng ở
Châu Á, Trung Quốc bị gạt ra ngoài dự án này (TPP) và theo giới phân tích Trung
Quốc, đây là một ý đồ của Mỹ nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng
gia tăng trên các lĩnh vực kinh tế, ngoại giao.
Các
nền kinh tế APEC chiếm tới 51% tổng sản phẩm quốc nội thế giới và 44% trao đổi
thương mại toàn cầu vì vậy Bắc Kinh rất ủng hộ dự án FTAAP ngược lại các thành
viên APEC củng ủng hộ tiến trình hội nhập FTAAP bởi quyến rũ từ một thị trường
khổng lồ hàng tỷ người tiêu dùng Trung Quốc.
Tất
cả dường như là những “nước đi” đầy tính toán trên bàn cờ di động địa chính trị
của Trung quốc phục vụ cho khát vọng “bá quyền” nhuộm màu cực đoan.
Bởi
người ta không lý giải nổi, Trung Quốc là một trong 5 thành viên “nước lớn”
trong HĐBA/LHQ với kho vũ khí hạt nhân đầy ắp, đã phóng vệ tinh, đưa được người
lên không gian trở về an toàn, cũng có nghĩa không nơi nào trên trái đất này
mà đầu đạn hạt nhân liên lục địa của TQ không chồm tới, nếu chuẩn mực sống
trong hòa bình thì liệu có nước nào dám khiêu chiến tấn công TQ? Vậy mà 2 thập
niên qua, liên tiếp % ngân sách quân sự quốc phòng luôn gia tăng 2 con số?
Trong khi thu nhập bình quân (GDP) người dân TQ chỉ 5.000 usd/năm so với khu tự
trị Macau là 91.000usd- HongKong là 36.000usd và Đài Loan là 20.000usd… Dù Bắc
Kinh đang thặng dư mậu dịch để dành trong hầu bao là 4000 tỷ USD!?
Thêm
một điều mà chúng ta cần lưu ý quan tâm là các định chế tài chính thế giới hiện
có như WB (Ngân hàng Thế giới) ADB (Ngân hàng Phát triển Châu Á) hay IMF (Quỹ tiền
tệ quốc tế) hoạt động trên tiêu chí đi kèm là “môi trường” và “nhân quyền” như
là bổn phận trách nhiệm tất yếu phải cam kết nơi các đối tác thụ hưởng thì
Trung Quốc nơi đang hy sinh môi trường để phát triển và cũng là nơi vi phạm
nhân quyền nhất thế giới lại là “chủ xị” cho 2 định chế tài chính mới là AIIB
và BRICS hầu mong cạnh tranh thay đổi cục diện!
Người
ta có quyền hỏi, tại sao thừa tiền nhưng Trung Quốc không “rót” thêm vào WB,
ADB hay IMF để nâng tỷ lệ vốn tạo thêm ảnh hưởng mà lại có chiều hướng mới như
vậy? Không cần câu trả lời mà khái quát nhìn ra 4 hướng biên giới Trung Hoa lục
địa…
Trung
Quốc có tất cả 14 láng giềng, quá khứ và hiện nay từng có tranh chấp lãnh thổ
với tất cả, trừ Pakistan. Mao Trạch Đông cho rằng các quốc gia và vùng đất gồm
Myanmar, Lào, Bắc Ấn Độ, Việt Nam, Nepal, Bhuttan, Thái Lan, Malaysia,
Singapore, các hòn đảo Ryukyu, 300 hòn đảo trên Biển Đông, biển Hoa Đông, biển
Hoàng Hải cùng với Kyrgyzstan, Mông Cổ, Đài Loan, Nam Kazakhstan, tỉnh
Bahdashan và Transbaikalia của Afghanistan và vùng Viễn Đông cho tới Nam
Okhotsk Nga... là của Trung Quốc “đáng lẽ” đã không bị mất nếu triều đại nhà
Thanh không sụp đổ.(*)
Trung
Quốc đang cuồng tín cực đoan trỗi dậy vì từ ngữ “đáng lẽ” này.
Tóm
lại với 4000 tỷ usd thặng dư ngoại hối, khối dự trữ lớn này sẽ như quả “bom
nguyên tử” đối với Mỹ nói riêng và thế giới nói chung, nếu Trung Quốc không cân
đối sử dụng chuẩn mực hài hòa giữa lợi ích và trách nhiệm thì “phóng xạ” của nó
sẽ gây nên căng thẳng tác động tiêu cực đến một phần trật tự, kinh tế tài
chính, xã hội toàn cầu.
No comments:
Post a Comment
Thanks