GIỚI THIỆU
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
Trần Quý Cao
Không nghi ngờ gì nữa, “Chính đề Việt Nam” là sản phẩm của một
trí tuệ kiệt xuất, nhìn xa trông rộng và đầy tính chất tiên tri. Nếu thực sự
cầu thị các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam hãy đọc kỹ tác phẩm này, nếu các
vị chỉ học mót được, dù chỉ vài điều trong cuốn sách này thì chắc chắn tình
hình đất nước đã sáng sủa hơn nhiều. “Lúc gặp thời kẻ hàng thịt anh câu cá
cũng làm nên công cán. Lúc không gặp thời kẻ anh hùng cũng đành nuốt hận” –
Đặng Dung. Vâng, thật tiếc cho anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu đã không
gặp thời nên đành nuốt hận.
Bauxite Việt Nam
|
Gia đình tôi có một căn
nhà mặt tiền đường Lê Văn Duyệt (nay đổi tên là Cách mạng Tháng 8) gần ngã tư
với đường Phan Thanh Giản (nay đổi tên là Điện Biên Phủ). Một buổi chiều kia,
khi còn học tiểu học, tôi được thấy Tổng thống Ngô Đình Diệm mặc bộ veston màu
trắng đứng trên chiếc xe hơi màu đỏ chạy chậm chậm ngang qua nhà tôi, vẫy tay
chào đám đông hai bên đường.
Một lần nọ, mẹ tôi, là
công chức trung cấp tòng sự tại Bộ Y Tế Sài Gòn, nằm đu đưa trên võng nói với
dì tôi rằng:
“Đời của chị, không có
ai bắt chị lăn, bò dưới đất được ngoại trừ bà Nhu”. Ấy là lúc mẹ tôi nói về
phong trào Thanh Nữ Cộng Hòa của bà Trần Lệ Xuân, phu nhân ông cố vấn Ngô Đình
Nhu.
“Ai mà như bả, cấm dân
hút thuốc phiện mà mua riêng cho chồng hút”. Không biết mẹ tôi biết rõ sự thật
hay chỉ nói theo những lời rỉ tai ngoài xã hội, nhưng rõ ràng đó là giọng nói
không ưa bà Nhu.
Lớn hơn một chút, tôi
tình cờ nghe một người khách của ba tôi nói:
“Tay này khó chơi, hiểm
độc lắm nghe. Chính sách Ấp chiến lược của chả gây cho mình tổn thất bao nhiêu
là cán bộ!”. Sau này tôi mới biết người đàn ông đó là ông Chín Hương, một cán
bộ cộng sản thâm niên đi công tác thành. Ông đang đề cập tới ông Ngô Đình Nhu.
Khi ngọn lửa tự thiêu
của Hòa Thượng Thích Quảng Đức bùng lên và bước chân các đoàn biểu tình ồn ào
băng ngang cửa nhà, một buổi sáng tôi đọc trên báo thấy danh sách của Hội đồng
Quân nhân cách mạng, và hôm sau nữa thấy hình thi thể hai anh em ông Diệm ông
Nhu.
Mẹ tôi nói: “Ác quá, sao
không để hai ông đi lưu vong như Lý Thừa Vãn? Tội nghiệp bà Nhu! Mấy ông tướng
Việt Nam mình dã man hơn bên Đại Hàn!”
Thời cuộc như trôi nhanh
hơn sau cuộc đảo chánh 1963, tướng Dương Văn Minh, tướng Nguyễn Khánh, tướng Nguyễn
Cao Kỳ, tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tết Mậu thân, mùa hè đỏ lửa, cổ thành Quảng
Trị, hải chiến Hoàng Sa, trận chiến Phước Long, tháng 4/75, chiến tranh biên
giới Tây-Nam, chiến tranh biên giới miền Bắc… các sự kiện lịch sử lớn cứ tiếp
nối cách nhau một hay vài năm… Cho tới khi ra nước ngoài, có dịp nói chuyện với
các ông Hoàng Xuân Hãn, Hồ Tá Khanh, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Biểu
Tâm… tôi mới có dịp tổng hợp một chút những kiến thức về Tổng thống Ngô Đình
Diệm và người em cố vấn Ngô Đình Nhu của ông.
Các kiến thức này cho
thấy những cách nhìn, cách cảm nhận về ông Nhu tương đối thống nhất: ông Nhu là
người làm việc tận tụy và nghiêm túc, có tinh thần kỷ luật cao nhưng sẵn sàng
phá cách nếu thấy cần thiết, quyết đoán và tham vọng với mục tiêu rõ ràng, khó
tính khi làm việc nên được cảm nhận là khó chịu, có tính xét nét chi tiết một
cách tinh tường nên được cảm nhận là đa nghi… Nói chung người ta không ưa ông
Nhu, sợ ông Nhu và phục ông Nhu.
Từng nghe tiếng ông Ngô
Đình Nhu là nhà tư tưởng, nhà lý luận của nền Đệ nhất Cộng hòa, người xướng lên
thuyết NHÂN VỊ, nhà lý luận của chính sách và kế hoạch Ấp chiến lược, tác giả
của tài liệu huấn luyện chính trị cho miền Nam: CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM. Do đó, cách
đây khoảng 5 năm, khi bắt gặp tài liệu CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM, tôi đọc đi đọc lại.
Từ 5 năm nay, các biến cố lại dồn dập xảy ra với Việt Nam, và mỗi lần một biến
cố xảy ra, khi so sánh biến cố đó với những gì được đề cập và dự đoán trong
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM tôi lại thấy sự trùng hợp đáng kinh ngạc.
Tình hình nước Việt Nam
trong vòng 5 năm nay gần như tập trung vào 2 câu hỏi chính:
Câu hỏi 1: làm sao mở
rộng Dân chủ cho đất nước, mà mục tiêu và biện pháp là bảo vệ các quyền căn bản
của người dân: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng, tự do
ứng cử và bầu cử… Nói chung là làm sao thiết lập trên đất nước ta một chính thể
Tự do, Dân chủ, Pháp trị?
Câu hỏi 2: làm sao đất
nước độc lập thật sự chứ không lệ thuộc vào Trung Quốc?
Đây cũng là hai ý chánh
mà ông Ngô Đình Nhu thảo luận kỹ lưỡng trong quyển CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM (1).
Quyển CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
(theo tài liệu của trang Dân Luận), nếu viết bằng kiểu chữ Verdana, cỡ chữ 12,
có 224 trang, được chia làm 6 phần:
Bối cảnh (22
trang)
Chương 1 – Nhận Định về
Thế Giới (76 trang)
Chương 2 – Vị Trí của
Việt Nam Trong Khung Cảnh Thế Giới (52 trang)
Chương 3 – Điều Kiện Nội
Bộ (52 trang)
Chương 4 – Một Lập
Trường Thích Hợp Với Các Nhận Định Trên (67 trang)
Kết Luận (7
trang)
Quyển sách khá dài, lại
được viết bằng văn phong cách nay gần 60 năm. Tôi xin giới thiệu bằng cách tóm
tắt quyển sách theo tinh thần: 1) Cô đọng và giản lược mà vẫn giữ trọn các ý
chánh của tác giả, và b) Giữ nguyên văn của tác giả càng nhiều càng tốt.
Trong 40 trang Giới
thiệu này, có tính luôn 3 trang Lời nói đầu và hơn 1 trang Tài liệu đọc thêm,
bạn đọc sẽ thấy:
1) Nguyên văn của tác
giả được viết bằng kiểu chữ Verdana, cỡ chữ 12.
2) Những đoạn quá dài mà
không chứa ý chính hay những nơi chuyển ý được được tóm tắt bằng văn phong của
người giới thiệu và được viết bằng kiểu chữ Arial, cỡ chữ 12.
3) Những nơi cần thiết
sẽ có FootNote để giải thích hay bình chú bởi người giới thiệu. Các FootNotes
được viết bằng kiểu chữ Arial, cỡ chữ 12.
Gần đây nhóm Thông Luận
cho rằng tác giả CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM không phải là ông Ngô Đình Nhu mà là ông Lê
Văn Đồng, một người quen biết với ông Nhu. Không phải là nhà sử học, tôi không
có điều kiện để biết rõ đâu là sự thật. Vì vậy, trước khi đọc được nhiều khảo
cứu có tính thuyết phục hơn, tôi xin được vẫn tin rằng tác giả là ông Ngô Đình
Nhu. Xin cám ơn ông đã cho tôi sự thích thú vì độ rộng của kiến thức được tổng
hợp, độ xa của tầm nhìn, và cảm giác tổng quát là sự thỏa mãn cao quí đầy tính
tri thức (intellectual satisfaction).
Từ sau năm 1945 tới nay,
dân tộc Việt Nam đã chịu đựng quá nhiều, càng lùi xa năm 1945, ta càng lùi xa
các lân bang về nhiều mặt xét trên các tiêu chuẩn chung của nền văn minh hiện
đại. Nước ta như con lươn quằn quại trong vũng lầy ô nhiễm của tôn sùng cá
nhân, tôn thờ chủ thuyết, chém giết hận thù, độc tài toàn trị… Càng muốn thoát
ra thì lại càng lún sâu!
Cho nên, xin quí độc giả
đừng nghĩ rằng tập giới thiệu này nhằm suy tôn một cá nhân, một chế độ hay nhằm
khêu gợi hận thù. Mọi việc đã trôi qua, giờ đây không còn chỗ cho hận thù,
tranh giành cá nhân hay đảng phái, vì công cuộc chấn hưng tổ quốc rộng lớn và
đầy thách thức đang chờ tất cả những người dân Việt.
Mục tiêu chánh của tập
giới thiệu này là:
1) So sánh những gì
Chính Đề viết cách nay 55 năm với những gì đã và đang xảy ra từ khi đất nước
thống nhất hoàn toàn năm 1975.
2) Từ đó, rút ra những
bài học có thể áp dụng cho nước Việt Nam hôm nay
Là kẻ hậu sinh, kiến
thức rất có hạn, người giới thiệu mong các nhân chứng của thời đại, các nhà sử
học, chính trị học, các người có quan tâm tới đề tài… góp ý kiến chỉ giáo.
Xin trân trọng cám ơn
quí độc giả,
Sydney, tháng 8/1913 –
Hà Nội, tháng 7/1914
Trần Quý Cao
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
BỐI CẢNH CỦA VẤN ĐỀ
Nước Việt Nam là một
nước nhỏ, nhỏ về dân số, nhỏ về lãnh thổ, nhỏ về kinh tế kém phát triển, và nhỏ
về sự góp phần của chúng ta vào văn minh nhân loại.
Trong suốt phần lịch sử
nhân loại mà chúng ta được biết tới ngày nay, số phận của các quốc gia nhỏ, từ
xưa vẫn không thay đổi. Lúc nào các quốc gia nhỏ cũng phải bị chi phối bởi
những trận phong ba bão táp vô trách nhiệm do các nước lớn gây ra. Và lúc nào
cũng sống dưới sự đe dọa liên tục của một cuộc ngoại xâm.
Từ ngày lập quốc, hơn
một ngàn năm lịch sử đã chứng minh rằng Việt Nam chúng ta không thoát ra ngoài
vận mạng thông thường đó. Hết phải chống Bắc, rồi phải chống Tây, rồi lại phải chống
Bắc. Liên tục, và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa dân tộc
Việt Nam.
Để duy trì ách thống trị
của mình, các cường quốc xâm lăng thường áp dụng, đối với các dân tộc bị trị,
nhiều biện pháp, tuy có khác nhau về hình thức, nhưng chung qui vẫn thuộc hai
loại chính:
1) Ngăn ngừa không
để các quyền lợi kinh tế thuộc vào tay người bản xứ.
2) Kiềm hãm không
để cho dân trí phát triển.
Các loại biện pháp thứ
nhứt nhằm mục đích tiêu diệt tất cả các phương tiện vật chất của người bị trị.
Các loại biện pháp thứ
hai nhằm mục đích tiêu diệt những người có khả năng sử dụng các phương tiện vật
chất trên, nghĩa là các nhà lãnh đạo xứng danh.
Đối với các dân tộc bị
trị hai loại biện pháp trên đều có những hậu quả vô cùng thảm khốc. Tuy nhiên,
nếu không có phương tiện của mình thì còn có thể tìm phương tiện khác, chớ nếu
không có người lãnh đạo, thì dù có phương tiện cũng không sử dụng được.
Vì vậy cho nên, đối với
một quốc gia mà nền độc lập bị đe dọa hay đã mất, thì phương pháp hữu hiệu nhứt
và điều kiện thiết yếu nhứt để chống lại ngoại xâm là nuôi dưỡng và phát triển
sự lãnh đạo.
Sự lãnh đạo của đất nước
được nuôi dưỡng theo cách nào? Cần biết trong một cộng đồng, một xã hội luôn
luôn có một số nhỏ người lãnh đạo và một số rất đông người được lãnh đạo.
Nhóm thiểu số những
người lãnh đạo phải là những người:
1. có đạo đức (có
“Nhân” theo cổ nhân)
2. có đủ khả năng
vật chất, lý trí và tinh thần để ứng phó với các tình thế (có “Dũng” và có
“Lược” theo cổ nhân)
3. thấu triệt vấn đề
cần phải giải quyết của tập thể (có “Trí” theo cổ nhân)
Các đặc tính Nhân, Dũng,
Lược đều cần thiết cho người lãnh đạo. Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng đặc tính
“Trí” là quan trọng nhất vì “Trí” nghĩa là thấu triệt vấn đề cần phải
giải quyết của cộng đồng, là một điều kiện khách quan. Bởi vì sự thấu triệt vấn
đề chỉ có thể được thực hiện bằng cách sưu tầm, khảo cứu, phân tích, lĩnh hội,
quan sát và tổng kết những tài liệu bên ngoài liên quan đến vấn đề. Không có
tài liệu bên ngoài thì một bộ óc dù thông minh xuất chúng, cũng không làm sao
hiểu được vấn đề.
Nhóm đa số những người
được lãnh đạo:
Cần nói rõ rằng trong xã
hội luôn có mâu thuẫn giữa cá nhân và cộng đồng, bởi vì:
Lý do của cuộc sống là
lý do cá nhân. Mà điều kiện của cuộc sống là điều kiện cộng đồng.
Trong thực tế, sự mâu
thuẫn giữa hai quyền lợi, cộng đồng và cá nhân, sẽ biến hình thành sự mâu thuẫn
giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu sự lãnh đạo. Do
đó luôn có sự mâu thuẫn giữa một bên là các người lãnh đạo, chính quyền và một
bên là dân chúng ([1]).
Cộng đồng lành mạnh khi
nào giữa nhóm thiểu số lãnh đạo và nhóm đa
số chịu sự lãnh đạo, sự thông cảm chạy đều, dẫn dắt đến một sự phối hợp hữu
hiệu trong mọi công cuộc của cộng đồng.
Nếu chính quyền không
thấu triệt các vấn đề, các yêu cầu của cộng đồng thì:
Sự mâu thuẫn trở thành
cực kỳ trầm trọng. Trạng thái điều hòa rất khó thực hiện và sự tan vỡ của cộng
đồng có thể đến bất cứ lúc nào ([2]).
Vậy điều kiện thiết yếu
để một cộng đồng phát triển theo hướng tiến bộ phải bao gồm:
a) Người lãnh
đạo/chính quyền phải hiểu biết thấu đáo các vấn đề phát triển của cộng đồng phù
hợp với thời đại.
b) Người được
lãnh đạo (dân chúng) phải ý thức cộng đồng quốc gia và hiểu biết vấn đề cần
phải giải quyết của cộng đồng.Đây là lợi khí sắc bén nhất để cho
một quốc gia nhỏ và yếu như chúng ta chống lại nạn ngoại xâm.
Các trường hợp đã phân
tích trên đây chứng minh rằng sự nhóm đa số chịu
lãnh đạo hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng hàm chứa nhiều hậu
quả ích lợi thiết yếu cho cộng đồng quốc gia.
Và điều này mặc
nhiên sẽ đưa đến sự nhóm đa số chịu lãnh đạo tham gia trực
tiếp hay gián tiếp vào chính sự của cộng đồng.
Và nếu chúng ta lại nhìn
nhận rằng, sự nhóm đa số chịu lãnh đạo tham gia trực
tiếp hay gián tiếp vào chính sự của cộng đồng là bản chất của tinh thần dân
chủ, thì các điểm sau đây lại được sáng tỏ:
a) Chỉ có sự tôn
trọng tinh thần dân chủ mới là một lợi khí sắc bén nhứt để cho một nước nhỏ và
yếu như nước chúng ta chống lại ngoại xâm
b) Phát huy sự hiểu
biết của nhóm đa số chịu lãnh đạo đối với vấn đề
cần phải giải quyết của quốc gia là góp phần tích cực nhất vào công cuộc xây
dựng và củng cố tinh thần dân tộc ([3]).
ĐỐI TƯỢNG CỦA QUYỂN
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
Ta đã thấy: Vấn
Đề Cần Phải Giải Quyết Của Cộng Đồng cần phải được thấu triệt bởi nhóm thiểu
số lãnh đạo (chính quyền) và được hiểu biết bởi nhóm đa số
chịu lãnh đạo (dân chúng).
Đối tượng của quyển sách
này là tìm xem vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng Quốc Gia Việt Nam trong
thời kỳ này của cộng đồng là vấn đề gì.
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM – PHẦN
I
NHẬN ĐỊNH VỀ THẾ GIỚI –
Lĩnh Vực Chính Trị
Hiện nay trong lĩnh vực
chính trị, thế giới chia làm hai khối rõ rệt: một bên là khối tự do, một bên là
khối Cộng Sản ([4]).
Lý do của tình trạng đó là sự khác biệt giữa hai khối do hai quan niệm khác
nhau về phương pháp lãnh đạo.
Hai bên đều tuyên bố mục
đích tối hậu của mình là mưu hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên, để đạt mục đích
đó, khối Tự Do chủ trương khắc phục cho được sự tự ý tham gia của quần chúng vào
công cuộc xây dựng hạnh phúc đó. Trái lại khối Cộng Sản chủ trương một sự tham
gia cưỡng bách.
Hai quan niệm đều có ưu
và khuyết điểm. Sự chọn lựa một trong hai quan niệm trên không căn cứ trên các
ưu và khuyết điểm ấy mà lại do những hoàn cảnh lịch sử, mà chúng ta sẽ thấy.
Nay chỉ cần biết rằng sự
khác biệt giữa hai quan niệm ấy đã dẫn dắt đến các sự khác biệt về lý thuyết
chính trị, về bộ máy chính phủ, về hệ thống kinh tế và về quyền sở hữu.
Dưới đây chúng ta sẽ xem
xét lý do phức tạp của sự hình thành hai hệ thống nói trên.
Văn minh Tây phương
chinh phục thế giới
Cách đây khoảng 600 năm,
các quốc gia trên thế giới có thể được xếp vào các khối quốc gia như được liệt
kê dưới đây:
a) Khối các quốc gia Tây
phương (châu Âu)
b) Khối các quốc gia Hồi
giáo (gồm cả các nước Bắc Phi)
c) Khối các quốc gia ở
phía Đông Đại lục Âu Á: Nhật, Đại Hàn, Trung Hoa, Việt Nam
d) Khối các quốc gia Ấn
Độ, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt, Mã Lai, Nam Dương
Các khối quốc gia này có
giao thương với nhau thì cũng độc lập với nhau, và trình độ kỹ thuật, sức mạnh
quân sự… cũng không chênh lệch mấy.
Nhờ thừa hưởng nền văn
hóa Hy-La có nền tảng của sự phân tích duy lý và chính xác, các quốc gia Tây
phương đã xây dựng nên một nền khoa học và kỹ thuật tân tiến, vượt xa các khối
quốc gia còn lại và khiến Tây phương hùng mạnh hơn hẳn các quốc gia còn lại.
Từ đó bắt đầu sự chinh
phục và xâm chiếm của phương Tây đối với phần còn lại của thế giới. Thế
kỷ 16: khối Hồi giáo; Thế kỷ 17-18: khối Ấn Độ; Thế kỷ 19: khối Đông Á lần lượt
trở thành thuộc địa hay bán thuộc địa.
Và, từ đó tới nay, một
kinh nghiệm, một bài học được đặt ra là: các quốc gia trên thế giới muốn phát
triển để tồn tại phải học theo khoa học và kỹ thuật phương Tây.
Không chỉ học các thành quả khoa học kỹ thuật của họ, mà cần học cái phương
pháp, cái tinh thần đã giúp họ sáng tác nên các thành quả khoa học kỹ thuật.
Việt Nam ta không thể
nằm ngoài kinh nghiệm nói trên. Trong các phần tiếp theo, chúng ta sẽ
xét xem Việt Nam ta sẽ Tây phương hóa như thế nào, và việc Tây phương hóa đó có
hại gì cho tinh thần dân tộc hay không.
Vấn đề Cộng Sản.
Từ đầu của thế kỷ XX, lý
thuyết Cộng Sản đã làm chấn động xã hội Tây phương. Sau đó lý thuyết Cộng Sản
đã trụ đóng và phát triển ở Nga. Và ngày nay lý thuyết Cộng Sản đang hoành hành
ở Á Châu và đang đe dọa Nam Mỹ ([5]).
Nhưng ở mỗi nơi lý thuyết Cộng Sản được tiếp nhận bởi những lý do khác nhau và
được giải thích theo một lối thích nghi với hoàn cảnh địa phương. Cộng
Sản Âu Châu, Cộng Sản Nga, Cộng Sản Tàu khác nhau dù đều là Cộng Sản. Các sự
kiện lịch sử dưới đây sẽ giải thích vẻ phức tạp mới xem qua đó.
Cộng Sản ở Tây phương
Khoa học kĩ thuật Tây
phương tiến triển quá nhanh so với cơ cấu xã hội, do đó tạo ra các xáo trộn xã
hội. Cuối thế kỉ 19, kĩ nghệ Tây Âu rất phát triển tạo nên một tầng lớp tư sản
nắm tư bản và máy móc sản xuất tối tân, cũng tạo nên tầng lớp thợ thuyền đông
đảo và cùng khổ do việc phân phối tài sản xã hội không đồng đều.
Các-Mác, triết gia và
kinh tế gia, nhận thấy nguyên nhân chính của sự việc trên nằm ở lực lượng sản
xuất không phù hợp với quan hệ sản xuất nên đề nghị thành lập một xã hội mới
công bằng hơn bằng một cuộc cách mạng toàn diện và triệt để.
Như vậy, thuyết Cộng Sản
là một phương thuốc của Tây phương để chữa căn bệnh cho xã hội Tây phương trong
một giai đoạn phát triển cam go.
Về sau, Tây phương đã có
những biện pháp khắc phục căn bệnh xã hội này, từ đó xã hội Tây phương phát
triển rất mạnh mẽ. Do đó hiện nay thuyết Cộng Sản rất yếu trong xã hội
Tây phương và một ngày gần đây sẽ không còn nữa ([6]).
Cộng Sản ở Nga.
Xã hội Tây phương phân
ra hai khối:
a) Nga thuộc dân tộc
Slave ở giữa Âu và Á, từng bị chinh phục bởi các đạo quân của Thành Cát Tư Hãn
hay của Attila. Nga theo đạo Gia Tô, giáo hội phương Đông
b) các nước Tây Âu thuộc
giống Latin hay là Saxon, theo đạo Gia Tô, giáo hội La Mã
Giữa Nga và Tây Âu có sự
tranh chấp liên tục trong lịch sử. Có khi Nga chiếm ưu thế, có khi Tây Âu. Hiện
nay Tây Âu đang thắng thế nhờ các phát minh khoa học kỹ thuật rất tân tiến và
hữu hiệu so với Nga. Chính vì vậy Nga phải gấp rút tổ chức cạnh tranh nhằm bắt
kịp Tây Âu trên 2 mặt trận:
a) Canh tân đất nước về
khoa học kỹ thuật theo Tây Âu-Mỹ
b) Áp dụng Chủ Nghĩa
Cộng Sản. Việc này được họ tiến hành nhằm vào 3 mục tiêu:
1. Xây dựng mô hình tổ
chức xã hội trong đó cơ cấu tổ chức của xã hội thích hợp với lực lượng sản
xuất. Họ tin rằng đây là mô hình tiến bộ nhất, đi trước, đón đầu xu hướng phát
triển của nền văn minh.
2. Cầm đầu các nghiệp
đoàn lao động, các phong trào công nhân trong lòng các nước Tây Âu-Mỹ
3. Cầm đầu các nước
thuộc địa đang có phong trào giành độc lập chống lại các chế độ thực dân trực
tiếp của các nước Tây Âu
Như vậy thuyết Cộng Sản
đối với Nga chỉ là một phương tiện và ngày nào mục đích đã đạt được, phương
tiện sẽ không còn giá trị nữa. Các biến cố hiện tại ở Âu Mỹ chứng tỏ rằng Nga
sắp đến lúc bỏ phương tiện Cộng Sản và trở về với xã hội Tây phương ([7]).
Và ngày đó sự tranh chấp
quyết liệt giữa Cộng Sản và Tư Bản, như ngày nay, sẽ tự tiêu và nhường chỗ cho
một cuộc tranh chấp khác quyết liệt hơn hiện nay đã bắt đầu thành hình giữa
khối Trung Cộng và khối Âu Mỹ ([8]).
Cộng Sản ở Á
Châu
Sở dĩ ngày nay thuyết
Cộng Sản hoành hành được ở Á Châu là vì chính Tây phương đã tạo hoàn cảnh cho
nó nẩy nở.
Sau khi đạt những tiến
bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật, Tây phương chinh phục thế giới, các quốc gia
châu Á lần lượt trở thành thuộc địa.
Các quốc gia Á châu này,
để giành lại độc lập, đã tìm đến Nga như một đồng minh tự nhiên có đủ sức giúp đỡ
họ chống lại kẻ thù, và do đó họ chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản ([9]).
Như vậy sang Á Châu
thuyết Cộng Sản chỉ còn là một phương tiện để đánh kẻ xâm lăng và là một phương
pháp phát triển.Thực ra, Mao Trạch Đông đã nhìn thấy rõ
hai điểm trên đây với phát biểu:
“Có nhiều người cho nó [thuyết
Các-Mác] là thần dược trừ bá chứng. Chính những người này đã xem thuyết
Các-Mác là một giáo lý. Phải nói cho những người này hiểu rằng giáo lý của họ
không có ích lợi bằng phân bón. Phân bón còn làm giàu ruộng đất, giáo lý không
làm được việc đó”.
Do đó, để giành độc lập
cho đất nước, những nhà lãnh đạo chủ trương theo Cộng Sản còn có lý
vững chắc. Nhưng sau đó họ hoàn toàn lầm lẫn nếu họ say mê mà tôn thờ thuyết
Cộng Sản như là một chân lý ([10]).
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM – PHẦN
II
VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM
TRONG KHUNG CẢNH THẾ GIỚI VỪA TRÌNH BÀY
Vị trí quốc tế hiện tại
của Việt Nam do các điểm dưới đây minh định:
1) Việt Nam là một
nước nhỏ và kém mở mang.
2) Theo truyền
thống văn hóa, Việt Nam thuộc vào xã hội Đông Á.
3) Việt Nam thuộc
các nước Á Châu vừa thoát ách thực dân đế quốc.
4) Việt Nam đang
cần phải Tây phương hóa như tất cả các nước không thuộc khối Tây phương để: một
là tồn tại, bảo vệ độc lập; hai là để phát triển đời sống kinh tế hầu xây dựng
hạnh phúc cho nhân dân.
Bốn điểm trên minh định
vị trí nước ta trong thế giới ngày nay, trong lĩnh vực địa dư và trong
lĩnh vực tiến hóa chung của nhân loại. Vì vậy, cùng với những điều kiện nội bộ
riêng cho Việt Nam mà chúng ta sẽ thấy sau này, các điểm này chi phối mọi đường
lối chính trị của ta trong ít lắm là vài thế kỷ.
Việt Nam là một nước nhỏ
và kém mở mang.
Trong tinh thần quật
cường và không tự ru ngủ trên dĩ vãng, không tự ti trước thực tế, chúng ta nhận
định một cách khách quan rằng:
Trong thế giới ngày nay
nước chúng ta là một nước nhỏ và dân tộc chúng ta là một dân tộc kém mở mang. Trong
suốt mấy nghìn năm lịch sử, chưa lúc nào dân tộc chúng ta đã đạt lên được mức
một văn minh chiếu sáng. Chúng ta chưa có một
đóng góp đáng kể nào cho văn minh nhân loại ([11]).
So sánh với các khối
kinh tế vĩ đại như Nga Sô, Trung Cộng, Ấn Độ, Mỹ quốc, khối Âu Châu đang
thành hình ([12]), và
so sánh với nhiều quốc gia khác (Mexico, Braxil, Thổ Nhĩ Kì…), chúng ta là một
quốc gia rất nhỏ hay nhỏ.
Chúng ta nhỏ vì diện
tích không rộng, dân số ít, tài nguyên không nhiều. Sự nhỏ này khiến kinh tế
chúng ta yếu kém, kỹ nghệ khó phát triển và văn hóa khó mở mang ([13]).
Vậy chúng ta cần tranh
đấu để thoát khỏi tình trạng kém mở mang có nghĩa là vừa tranh thủ một mức
sống cao hơn cho dân tộc, và cũng có nghĩa là sẵn sàng lãnh trách nhiệm đóng
góp vào văn minh thế giới.
Dĩ vãng của chúng ta cho
phép chúng ta tin rằng dân tộc có một năng lực tiềm tàng mà
nếu được lãnh đạo đúng đắn Việt Nam sẽ phát triển rất nhanh ([14]).
Việt Nam thuộc xã hội
Đông Á.
Xã hội Đông Á gồm có các
nước Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam bao quanh đại lục Trung Hoa.
Trong hơn sáu ngàn năm lịch sử, các quốc gia trong xã hội này đều đã tiến hóa
từ nền văn minh phát sinh trong đất Hán và lấy Hán tự làm nền tảng và phương
tiện cho sự phát triển trong các lĩnh vực. Tất cả các quốc gia đều tin tưởng
vào Phật giáo và Lão giáo, lấy giáo điều của Khổng Mạnh làm mực thước cấu tạo
xã hội. Mối liên hệ tôn giáo, văn hóa, xã hội này sẽ còn
kéo lâu dài về sau. Và người Việt Nam cần biết rõ về mặt địa lý quốc gia mình
nằm gần nước Trung Hoa rất to lớn và đông dân.
Khung cảnh hữu hình và
vô hình ràng buộc Việt Nam vào khối Đông Á là một điều chúng ta cần nhớ trong
quá trình Tây phương hóa đất nước.
Việt Nam thuộc vào khối
các nước Á Châu vừa thoát khỏi ách thống trị thực dân đế quốc
Bắt đầu từ thế kỷ thứ X,
các cường quốc trong xã hội Tây phương mới phôi thai. Dưới sự thúc đẩy của hoàn
cảnh và những biến cố lịch sử phát sinh ra người Tây phương đã phát minh
nhiều kỹ thuật tối tân, cải thiện không ngừng phát minh cũ, rèn luyện những khí
giới lý trí ngày càng tinh vi…. Và trong sự vùng lên đó, xã hội Tây phương đã
chinh phục được thế giới như chúng ta đều biết.
Lần lượt các quốc gia
trên thế giới không thuộc vào xã hội Tây phương đều bị tấn công, chiếm đóng và
chinh phục. Tùy hoàn cảnh và tùy mãnh độ cuộc kháng chiến, các dân tộc hoặc bị
tiêu diệt và đất đai bị biến thành đất đai của người chinh phục như ở Nam và
Bắc Mỹ, Úc… hoặc biến làm thuộc quốc như Thái Lan, các nước Cận Đông hay
bán thuộc địa như Trung Hoa, hay thuộc địa như Việt Nam. Và hậu quả lưu lại cho
các dân tộc bị chinh phục cũng tùy theo hoàn cảnh riêng mà nhiều hay ít tai
hại.
Trong số các quốc gia
Đông Á bị Tây phương xâm chiếm, chỉ có Nhật là đối phó hữu hiệu hơn cả. Sự hữu
hiệu này chẳng những giúp họ thoát khỏi bị lệ thuộc mà còn đưa họ lên hàng
cường quốc hơn hẳn Trung Hoa và Nga vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. 50 năm
sau khi bắt đầu công cuộc Duy tân, Nhật chiến thắng vang dội trước 2 đối thủ
lớn: năm 1895 họ hải chiến thắng Trung Quốc; năm 1905 họ hải chiến thắng Nga.
Phản ứng của Nhật Bản
Trước hết dân tộc Nhật
có được cái vận may là trong thời kỳ như chỉ mành treo chuông việc mất còn chỉ
trong ly tấc, được có một lớp người lãnh đạo cực kỳ sáng suốt. Họ nhận
thấy ngay con đường sáng của dân tộc. Họ quyết liệt gạt
bỏ tính tự phụ kiêu căng mà ý thức được ba điều tối quan trọng:
1) Tây phương hơn hẳn họ về
kỹ thuật tổ chức và kỹ thuật võ trang.
2) Cách
duy nhất thắng xâm lăng là làm chủ kỹ thuật tinh xảo của địch thủ.
3) Lợi
dụng mâu thuẫn giữa các cường quốc xâm lược Tây phương để bảo vệ nền
độc lập và phát triển dân tộc.
Cuộc Duy tân của vua
Minh Trị được tiến hành trên căn bản học và làm chủ kỹ thuật của địch
thủ để thắng địch thủ. Những kỹ thuật của Tây phương trong mọi lĩnh
vực được phân tích học hỏi và áp dụng triệt để, cấp thời đặt ưu tiên
cho lĩnh vực quân sự và chính trị. Sau đó là sản xuất, kinh
tế.
Nước Nhật đã thành công
trong công cuộc Tây phương hóa để chống lại Tây phương. Độc lập vẫn còn, chủ
quyền vẫn nguyên, người Nhật đã hoàn toàn chủ động công cuộc Tây phương hóa của
họ. Vì vậy diễn tiến lịch sử của họ không bao giờ bị gián đoạn. Điều
này tối quan trọng.
Một điều cần biết là ảnh
hưởng của sự Tây phương hóa trên nền văn minh truyền thống. Nói một
cách đại khái, một nền văn minh là một toàn bộ gồm những giá trị làm tiêu chuẩn
trong các lĩnh vực của đời sống: kỹ thuật, chính trị, văn hóa, xã hội và nghệ
thuật. Trong cái toàn bộ đó, các giá trị quân bình lẫn nhau gây nên một trạng
thái điều hòa, và trong trạng thái tương đối điều hòa đó mà nền văn
minh có khi tiến (phát triển), có khi lùi.
Khi mở cửa tiếp nhận văn
minh phương Tây, toàn bộ nền văn minh truyền thống Nhật bị chấn động dữ dội. Do
chủ động Tây phương hóa với mục tiêu và chương trình hành động xác định rõ
ràng, Nhật vẫn còn giữ được những nét truyền thống riêng. Họ chỉ phải cải tiến
thay thế sự điều hòa cổ truyền bằng một sự điều hòa mới chớ nền văn minh của họ
không bị phân rã. Đây là điều rất tai hại mà, đau đớn thay, Việt Nam ta mắc
phải khi không làm được như Nhật để cho nước thành lệ thuộc, dân thành nô lệ.
Phản ứng của Việt Nam và
các hậu quả
Khi Pháp nổ súng xâm
lăng vào Đà Nẵng, Việt Nam đã gặp phải một lớp người lãnh đạo thiếu
sáng suốt, thiếu thiết thực, kiêu căng và không thức thời, không chịu
phóng tầm mắt nhìn vào vấn đề thiết thực của dân tộc, tự giam hãm trí óc
trong những quan niệm chật hẹp về quyền bính và triều đại ([15]).
Hậu quả là: nước Việt
Nam bị chiếm làm thuộc địa. Mất chủ quyền, mất quyền điều hành và quyết định
tương lai của đất nước. Hậu quả nặng nề trên Việt Nam sau tám mươi năm lệ thuộc
là: a) Thiếu người lãnh đạo, b) sự lãnh đạo quốc gia Việt Nam bị gián
đoạn và c) xã hội Việt Nam bị tan rã.
a) Thiếu Người Lãnh
Đạo
Bởi Pháp không chú ý đào
tạo lớp người thay thế họ cho nên, các cựu thuộc địa Pháp sau độc lập rồi,
đều trải qua nhiều xáo trộn mãnh liệt, chỉ vì thiếu người có khả năng để thay
thế các người ngoại quốc. Trên đây là một nhược điểm vô cùng quan trọng mà Việt
Nam chúng ta phải mang chịu. Do đó khi thời cơ giành độc lập tới gần,
hay khi đã giành được độc lập rồi thì sự thiếu người lãnh đạo trong các
ngành là một trở lực vô cùng to tát cho công cuộc phát triển dân tộc ([16]).
Chú ý rằng điều chúng ta
nói đây không chỉ nói tới những người lãnh đạo chính trị, mà nói đến các nhà
chuyên môn trên mọi lãnh vực liên quan tới sự vận hành xã hội chạy đều đặn. Vậy
những người cộng tác với Pháp có thể hữu dụng cho công cuộc này không? Ta có
thể nói là không vì các đặc điểm sau đây của họ:
Ø Kiến thức và
kinh nghiệm của họ rời rạc, vặt vãnh, không vươn tới kiến thức tổng
hợp cho nên chỉ có thể thực thi chớ không thể lãnh đạo. Đương nhiên
họ sẽ thất bại nếu được giao những công việc có tầm quốc gia.
Ø Họ có tâm lý
kém trưởng thành của người được rèn luyện làm công cụ cho một bộ máy, và
dần dần sẽ thành vô trách nhiệm.
Ø Họ có tính
cách quan liêu, phục tùng hèn hạ kẻ trên và hà hiếp khinh miệt kẻ dưới.
b) Lãnh đạo quốc
gia gián đoạn
Trong tình trạng bình
thường, chủ quyền quốc gia truyền một cách êm thấm từ lớp người
lãnh đạo này sang lớp người lãnh đạo sau. Các bí mật
quốc gia và bí mật lãnh đạo quốc gia được lưu trữ trong văn khố hay nơi nào
khác được truyền lại. Kinh nghiệm lãnh đạo truyền đời không gián đoạn và được
lưu giữ trong văn khố là di sản vô giá của một dân tộc ([17]).
Trong một quốc gia còn
chủ quyền, lãnh đạo có thể bị gián đoạn do bạo loạn, lật đổ… nhưng sự gián đoạn
đó không cực đoan. Sự gián đoạn triệt để nhất là khi quốc gia bị ngoại bang xâm
chiếm (Khi nhà Minh chiếm nước ta [1407-1027], khi Pháp xâm chiếm ta [1883-1954]). Lớp
người lãnh đạo trước đã mất, lớp người lãnh đạo sau không có. Di sản dĩ vãng
tiêu tan. Tình trạngthật là khủng khiếp nếu chúng ta so sánh một nhà lãnh
đạo Anh có chỗ dựa vững chắc là hơn 400 năm kinh nghiệm di sản, còn nhà lãnh
đạo Việt Nam thì cô đơn không có một kinh nghiệm nào để lại.
c) Xã hội bị tan rã
Xã hội đã được định hình
nào cũng vậy, có một nền văn minh của nó, nghĩa là có một hệ thống các giá
trị tiêu chuẩn làm mực thước cho hoạt động của xã hội. Những giá trị tiêu
chuẩn đó được mọi thành viên trong xã hội hiểu, tin tưởng, ủng hộ… nên chúng
kết nối các thành viên. Thí dụ, ngày trước, mọi người đều hội ý với nhau khi
nói tới những từ như Hiếu, Trung, Quân tử…
Xã hội sẽ tan rã khi nào
tất cả hay phần lớn các giá trị tiêu chuẩn đều phá sản mà không được thay thế. Khi
Pháp xâm chiếm ta, các giá trị tiêu chuẩn của ta bị đả phá, xã hội không còn
tín hiệu tập hợp nhau. Xã hội tan rã vì không còn tính cộng đồng, chỉ gồm các
cá nhân rời rạc. Trong khi đó các giá trị mới thì xa lạ, mơ hồ cho nên chưa
được nhiều người hưởng ứng.
Việt Nam đang cần phải
Tây phương hóa để phát triển dân tộc
Cuộc xâm chiếm của Tây phương đối với nước khác thường theo các bước sau: 1) Xin trao đổi thương mại và đặt thương quán, và 2) Sau đó là hoạt động truyền đạo Gia Tô.
Cuộc xâm chiếm của Tây phương đối với nước khác thường theo các bước sau: 1) Xin trao đổi thương mại và đặt thương quán, và 2) Sau đó là hoạt động truyền đạo Gia Tô.
Chính mãnh lực của
tín ngưỡng Gia Tô làm cho các nhà cầm quyền bản xứ lo ngại. Họ lo ngại trật tự
cổ truyền của dân tộc sẽ bị xáo trộn bởi vật ngoại lai.
Các nhà cầm quyền bản xứ
phản ứng theo một trong 2 cách sau:
Cách 1: Bản năng tự
vệ.
Đa số các nước đóng cửa
không để cho vật ngoại lai xâm nhập: bế quan tỏa cảng. Bài ngoại. Đây là thái
độ tự nhiên, hợp với bản năng tự vệ, và hữu hiệu nếu kỹ thuật vật chất
có đủ tiến bộ và lực lượng võ trang có đủ hùng hậu để làm hậu thuẫn, bằng
không, thái độ đó sẽ là một tử lộ. Điều này đã được lịch sử thế giới
chứng minh, và tai hại thay, lúc vận nước ở thế nghìn cân treo sợi tóc (những
năm 1860-1880), Việt Nam đã chọn cách phản ứng này.
Cách 2: Lý trí phản
công.
Là thái độ của một vài
nước như Nga, Nhật, Thổ Nhĩ Kỳ. Thay vì chọn cách theo bản năng và dễ làm, họ
chọn cách dùng lý trí suy xét, phân tích thời thế rồi tìm phương cách chủ động
hóa giải nguy cơ. Họ biết nguy cơ của vật ngoại lai đối với nền văn minh truyền
thống, tuy nhiên bằng các nhận xét và phân tích sáng suốt, họ đã chọn phương
cách học kỹ thuật của địch thủ để chống lại địch thủ.
Lịch sử đã cho thấy các
quốc gia chọn cách 1 đều thất bại, và các nước chọn cách 2 thì thành công. Quốc
gia thất bại bị thống trị với các hậu quả nặng nề như đã nói trên: hệ thống xã hội
bị sụp đổ, phân rã. Quốc gia thành công thì giữ được nền độc lập, chủ động
trong việc cải biến xã hội thích hợp với thời đại mới mà vẫn giữ lại những giá
trị truyền thống đặc trưng.
Tây phương hóa là một sự
kiện không từ chối được.
Bởi vì đây là con đường
duy nhất để độc lập và cường thịnh. Cũng là con đường giúp ta, trong khi tự cải
biến để hùng mạnh, bảo vệ được một số giá trị truyền thống đặc biệt của dân
tộc, và do đó hệ thống giá trị của xã hội được duy trì trong tiến hóa chứ không
sụp đổ.
Vấn đề là: Tây
phương hóa như thế nào? Chúng ta cần chủ động tiến hành Tây phương hóa một
cách Toàn diện và Trình độ cao.
Như thế nào là Tây
phương hóa toàn diện?
Sự Tây phương hóa đã xảy
ra từ khi Pháp xâm chiếm ta. Các tòa nhà kiểu Pháp mọc lên, nhiều người mặc Âu
phục, cắt tóc, học trường Pháp, dùng tiếng Pháp … Tuy nhiên đây chỉ là sự Tây
phương hóa bắt buộc do hoàn cảnh bị xâm lược, cho nên được
thực hiện một cách không đường hướng, không mục đích và chỉ lên đến một mức độ
thấp kém, và không có ích cho công cuộc phát triển dân tộc.
Chúng ta cần Tây phương
hóa trên tất cả các khía cạnh. Không chỉ về quân sự, mà cả giáo dục. Không chỉ
về khoa học kỹ thuật, mà cả cách tổ chức xã hội. Không chỉ về xây dựng đô thị,
mà cả về các giá trị căn bản của sự khai phóng (tự do, bình đẳng…) ([18]).
Như thế nào là cao?
Hãy cùng xem thí dụ sau:
một người học tốt nghiệp, rồi làm việc trong một công ty sản xuất máy móc của
phương Tây, người đó có khả năng chế tạo khẩu súng tân tiến. Mức độ Tây phương
hóa của người đó đủ cao chưa?
Chưa đủ, nếu người đó
chỉ biết cách chế tạo khẩu súng. Chúng ta cần mức cao hơn là phương pháp làm
việc, phương pháp quản lý, phương pháp suy luận của lí trí… để sáng tạo ra công
cụ, chớ không chỉ là chế tạo công cụ. Và chúng ta cần cả xã hội chúng ta Tây
phương hóa, chớ không phải chỉ một số nhỏ người nào đó có cơ hội.
Như vậy chúng ta thấy
công cuộc Tây phương hóa đất nước ta là rộng lớn, đòi hỏi sự hiểu biết, quyết
tâm của cộng đồng tới dường nào. Công cuộc này thực đồ sộ…
Tóm lại, cuộc Tây phương
hóa là bắt buộc nhằm nâng nước ta lên hàng quốc gia độc lập, giàu mạnh, văn
minh. Nếu không đạt được mức độ Toàn Diện và Cao đủ thì ta chưa đạt mục đích
mong muốn mà có thể có những hệ lụy.
Tây phương hóa và bản
chất dân tộc.
Tây phương hóa như vậy
có làm mất bản chất dân tộc? KHÔNG, vì nếu không Tây phương hóa thì chúng ta
mất độc lập. Sự Tây phương hóa rồi cũng xảy ra, nhưng khi nước là thuộc địa,
dân tộc là nô lệ và được tiến hành bởi kẻ xâm lược thì bản chất dân tộc sẽ tiêu
tan, xã hội sẽ phân rã.
Nay đã có độc lập rồi,
ta cần chủ động Tây phương hóa. Càng sớm thành công, quốc gia càng sớm giàu
mạnh mà vẫn giữ được sự liên kết trong xã hội, ta càng có điều kiện bảo vệ, duy
trì và phát triển bản chất dân tộc.
Độc lập là điều kiện cần
thiết để chủ động Tây phương hóa. Các nhà lãnh đạo Việt Nam theo đường
lối Cộng Sản, đã hành động đúng khi họ qui tụ dưới lá cờ Cộng Sản của Nga trong
giai đoạn chiến đấu giành độc lập. Nhưng độc lập không phải là mục đích, mà chỉ
là một điều kiện để phát triển dân tộc.
Khi đã có độc lập và
bước sang giai đoạn phát triển dân tộc, thuyết Cộng Sản có còn
ích lợi không? Hay là
khi hoàn cảnh và vấn đề đã thay đổi, thì giải pháp không thể giữ như cũ
được?Câu hỏi này sẽ được xem xét ở phần sau.
Cơ thức Tây phương hóa
Công cuộc Tây phương đối
với nước khác thường theo các bước sau:
1) Thâu thập kỹ
thuật tổ chức quân đội và kỹ thuật võ trang quân đội
2) Tiếp
theo, dù muốn hay không muốn, là các thay đổi trong lĩnh vực cơ cấu chính trị,
là nơi mà cuộc Tây phương hóa gặp sự kháng cự nhiều nhất và đẫm máu nhất.
3) Khi
cơ cấu chính trị theo kiểu Tây phương đã được thiết lập, các bước tiếp theo về
giáo dục, kinh tế… sẽ được tiến hành thuận lợi hơn.
Từ đây, sự Tây phương
hóa có thành công hay không là do có được tiến hành đủ sâu (toàn diện và cao)
và đủ rộng không (tới nhiều tầng lớp của dân tộc). Nếu có, nó sẽ được dân chúng
củng cố và thúc đẩy hơn. Nếu không, sẽ có sự chia rẽ giữa dân chúng không ủng
hộ với nhà cầm quyền tiến hành Tây phương hóa. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng
sẽ dẫn tới xung đột xã hội. Do đó, rất quan trọng là sự
Tây phương hóa phải tỏa rộng đến toàn dân.
Vì vậy, các nỗ lực
Tây phương hóa phải đặt trọng tâm vào đại chúng. Ở xứ ta đa số quần chúng
là ở nông thôn: công tác Tây phương hóa của ta phải dồn nỗ lực về nông
thôn, nơi tập trung đa số nhân lực và tài sản của quốc gia.
Hai cơ hội
Công cuộc Tây Phương hóa
cần 2 điều kiện:
1) Nó đòi hỏi rất
nhiều kỹ thuật/khoa học và vốn Tây phương. Kỹ thuật phải hoàn
toàn ở ngoài đưa vào, đại đa số vốn phải ở ngoài đưa vào. Do đó điều
kiện thứ nhất là thời cuộc thế giới thuận tiện cho công cuộc Tây phương hóa.
Đây là điều kiện bên ngoài.
2) Khi cơ hội tới, thì
điều kiện nội bộ là rất quan trong: dân tộc có biết dùng thời cơ để Tây phương
hóa hay không (cần tầng lớp lãnh đạo sáng suốt, cần dân chúng ủng hộ công cuộc
duy tân…)
Cho tới nay ta thấy có 2
cơ hội lớn trên thế giới: 1) Thời cuộc những năm 1830-1860, và 2) Thời cuộc
những năm 1940-1960 ([19]).
1) Thời cuộc
những năm 1830-1860: Lúc này văn hóa và khoa học/kỹ thuật của Âu châu đã
đạt mức rất cao so với phần còn lại của thế giới. Sau khi xâm chiếm Ấn
Độ, Nam Dương (Indonexia) và Phi Luật Tân, các cường quốc
Tây phương bắt đầu tấn côngĐông Á. Năm 1842 Anh gây chiến tranh Nha Phiến ở
Trung Hoa, 1853 Mỹ nã pháo vào hải cảng Uraga của Nhật. Năm 1856
Pháp pháo kích Đà Nẵng.
Tình thế rất nguy cấp,
nhưng cũng là cơ hội để các nước Đông Á Tây phương hóa. Cơ hội lớn vì các cường
quốc Tây phương mâu thuẫn nhau (Anh, Pháp, Đức, Nga…). Nước Nhật biết lợi dụng
hoàn cảnh để Duy tân và trở thành hùng mạnh vài thập niên sau đó. Việt Nam chỉ
biết thần phục Trung Quốc, tự kiêu, thiển cận, không phân tích được tương quan
lực lượng Việt-Pháp, không phân tích tình hình chính trị thế giới, không dám chủ
động tiếp xúc với các quốc gia có mâu thuẫn với Pháp như Anh, Đức, rốt cuộc mất
nước và lệ thuộc. Sự kiện thảm khốc và đau đớn này có gốc rễ từ quan
niệm thấp và hẹp về ý thức độc lậpcủa Việt Nam lúc đó ([20]).
2) Thời cuộc
những năm sau thế chiến 2: Chiến tranh chưa dứt đã bắt đầu cuộc tranh chấp
Mỹ-Nga (lãnh đạo hai khối chính trị trên thế giới [Tự Do-Cộng Sản]) tạo cho
các quốc gia lệ thuộc cơ hội giành độc lập và phát triển dân tộc.
Trung Quốc đã dùng được cơ hội này để phát triển ([21]).
Việt Nam và cơ hội thứ
hai
Việt Nam đã biết tùy
hoàn cảnh tìm đồng minh trong khối Cộng Sản, và giành được độc lập. Tuy nhiên,
sau khi giành độc lập, hai miền Nam Bắc vẫn không phát triển dân tộc được. Chẳng
những chưa lợi dụng được mâu thuẫn giữa Tây phương và Nga Sô để phát
triển, chúng ta lại còn bị lọt vào cái vòng mâu thuẫn đó để bị
tiêu hao nhân lực và tài lực khủng khiếp.
Chủ Nghĩa Cộng Sản và
Phát Triển Dân Tộc Việt Nam
Ta đã thấy, chủ nghĩa
Cộng Sản:
1) Đối với Tây
phương: lý thuyết Các-Mác, là một phương thuốc do một số người Tây
phương đề nghịđể chữa bệnh cho xã hội Tây phương, trong một cơn khủng hoảng. Hiện
nay xã hội Tây phương đã dần dần khắc phục được khủng hoảng đó.
2) Đối
với Nga: là một vũ khí để đánh lại Tây phương trên hai mặt,
trong và ngoài. Tự nhận mình là thành trì của thuyết Các-mác, và lãnh
đạo cuộc cách mạng xây dựng xã hội Cộng Sản, Nga sẽ có 2 thế mạnh: a) tất
cả các đảng Cộng Sản ở các quốc gia Tây phương biến thành những đồng minh
chiến đấu của Nga Sô, và b) Hầu hết các nhà lãnh đạo các quốc gia bị Tây
phương xâm chiếm đều qui tụ dưới lá cờ Cộng Sản của Nga Sô. Đây là lý do
mà Lê-nin đề cập nhiều đến các thuộc địa.
3) Đối
với Bắc Việt: các nhà lãnh đạo còn đang say mê thuyết
Cộng Sản và tôn nó lên hàng một chân lý và tự biến mình thành một thứ nô
lệ trí thức để cho người sử dụng. Cho nên, trong nhiều hành động chính trị và trong
lĩnh vực ngoại giao giữa các quốc gia, họ tin rằng một sự đồng minh về lý
thuyết có thể đặt trên quyền lợi của dân tộc.
Cơ Hội Thứ Hai và Phát
Triển Dân Tộc Việt Nam
Việt Nam chưa tận dụng
được cơ hội thứ hai. Nhưng cơ hội này vẫn đang còn. Việt Nam sẽ bắt được cơ hội
còn lại không?
Đánh mất cơ hội thứ
nhất: Việt Nam bị lệ thuộc gần trăm năm.
Nếu lại đánh mất cơ hội
lần hai, chúng ta sẽ lọt vào một hoàn cảnh rất bi đát nhất là nếu
người láng giềng khổng lồ của chúng ta phát triển được.
Các nhà lãnh đạo, phía
Nam và phía Bắc, của chúng ta đã nhận thức tình trạng, vô cùng nguy ngập và
khẩn cấp cho chúng ta chưa?
Miền Nam: trong
hai mươi năm qua, các nhà lãnh đạo thọ lãnh trách nhiệm về vận mạng của quốc
gia, chưa tỏ ra nhìn thấy vấn đề căn bản dân tộc cần phải giải quyết trong
giai đoạn này. Chưa thấy làm sao có hành động?
Miền Bắc: các
nhà lãnh đạo còn đang say mê thuyết Cộng Sản và tin rằng sự đồng minh về
lý thuyết có thể đặt trên quyền lợi của dân tộc ([22]). Họ
chưa đặt câu hỏi: Khi viện trợ khí giới, phương tiện cho Việt Nam đánh
Mỹ, Trung Cộng xem Việt Nam là đồng chí Cộng Sản hay là một phần đất cũ,
và nay sắp được gồm thâu vào lãnh thổ của họ? Do đó, nguy cơ một Việt
Nam bạc nhược lệ thuộc một Trung Quốc hùng mạnh đang rất rõ, và mỗi người Việt
nam chúng ta khiếp sợ khi nghĩ tới hậu quả vô cùng thảm khốc trong tương lai.
Trách nhiệm này, mà
thế hệ chúng ta phải mang, đối với các thế hệ sau này, sẽ vô bờ bến. Nếu chúng
ta lại còn lỡ cơ hội nữa, thì các nhà lãnh đạo hiện nay sẽ mang nặng, đối với
dân tộc, một lỗi lầm không có gì tha thứ được.
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM – PHẦN
III
PHẦN III (A): ĐIỀU KIỆN
NỘI BỘ
Phần này xem xét các di
sản thuận lợi hay không thuận lợi cho việc phát triển dân tộc. Trong đó, mối
liên hệ giữa Việt Nam và các nước Đông Á có vai trò quan trọng.
Từ khi độc lập năm 939
tới khi Pháp tấn công, lịch sử hơn 900 năm của Việt Nam chịu chi phối bởi hai
sự kiện rất quan trọng: a) Bang Giao với Trung Hoa, và b) Nam Tiến
Liên lạc với Trung Hoa
Lịch sử bang giao
Việt-Trung do hai tâm lí ngược nhau quyết định: Việt Nam quyết bảo vệ nền độc
lập. Trung Hoa tìm cách chiếm Việt Nam mà họ cho là lãnh thổ bị tạm mất.
Quan niệm Trung Quốc: Từ
năm 939 đến năm 1840, Trung Hoa đã bảy lần đem quân toan chiếm nước ta. Điều
này chứng tỏ lúc nào Trung Hoa cũng theo đuổi chính sách thống trị Việt Nam. Từ
năm 1840 tới nay cũng vậy: Triều Thanh, dù đang rất suy yếu, vẫn có kế hoạch
chia đôi Việt Nam với Pháp! ([23]).
Tâm lý thuộc quốc của
các nhà lãnh đạo ta là do luôn bị ám ảnh bởi họa xâm lăng từ phía Bắc. Tâm lí
này khiến họ thần phục Trung Quốc và mở bờ cõi về phía Nam. Nó cũng khiến triều
Nguyễn, khi Pháp tấn công, không có chính sách ngoại giao hữu hiệu khai thác
mâu thuẫn giữa các nước phương Tây.Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ
là gởi sứ bộ sang cầu cứu Trung Hoa!
Chống ngoại xâm: Hoạt
động bang giao xưa của ta có 2 hướng chính: chống ngoại xâm Trung Hoa, và xâm
chiếm nước yếu hơn. Trong việc chống ngoại xâm thì ta cũng chỉ có 2 cách: a)
Khi quân xâm lược tới, dùng biện pháp quân sự đối phó, và b) Giữa 2 lần bị xâm
lược thì thần phục, triều cống Trung Hoa để hoãn binh.
Ngoài 2 cách trên chúng
ta không có chính sách giữ và phát triển đất nước căn bản. Đối với một nước
nhỏ, biện pháp ngoại giao là vũ khí sắc bén để bảo vệ độc lập, nhưng khi Pháp
tấn công, Việt Nam không có chính sách ngoại giao hữu hiệu ([24]).
Nhưng, hơn cả các
biện pháp quân sự và ngoại giao, là:
a) nuôi dưỡng tinh
thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và
b) mở rộng khuôn
khổ giới lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Trong khi đó: bản
chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là:
a) tiêu diệt tận
gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi người
thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển, dễ đặt để, và dễ sử
dụng như một khí cụ ([25]).
b) giữ độc quyền
lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt
các vấn đề căn bản của quốc gia trở thành những lợi khí sắc bén, để củng
cố địa vị của người cầm quyền([26]).
Một chính thể độc tài
không thể đáp ứng các điều kiện nói trên. Hơn nữa, chính thể độc tài khiến nhân
dân chán ghét người lãnh đạo, do đó làm suy yếu quốc gia. Lịch sử thế giới cho
thấy: Chỉ những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm([27]).
Triều Nguyễn xưa có thể
đã kháng Pháp mạnh hơn nếu triều đình khuyến khích tinh thần độc lập, tự do và
ý thức chống ngoại xâm của dân chúng thay vì đàn áp họ ([28]).
Vậy chúng ta có thể quan
niệm rằng để quốc gia Việt Nam giàu mạnh đủ sức giữ độc lập và tự chủ thì một
chính thể độc tài là hoàn toàn không thích hợp.
Công cuộc Nam tiến của
dân tộc Việt Nam
Cuộc Nam tiến thật sự mở
màn năm 1069 khi Lý Thường Kiệt chiếm đất Chiêm Thành lập nên tỉnh Quảng Bình
và Bắc Quảng Trị. Năm 1301, vua Trần Anh Tôn tiếp nhận hai châu Ô, Rí lập Nam
Quảng Trị và Thừa Thiên. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông chiếm tất cả phần đất đến
đèo Cù Mông (bắc Bình Định). Các chúa Nguyễn, cho tới đời chúa Nguyễn Phúc Chu,
chiếm nốt phần đất còn lại của Chiêm Thành (tới Bình Thuận).
Trước khi nước Chàm bị
hoàn toàn thôn tính, Việt Nam đã di dân sang các phần đất bỏ hoang của Cam-Bốt
tại Bà Rịa và Đồng Nai. Năm 1698, các tỉnh Miền Đông, Gia Định, Long An, một
phần Định Trường được sáp nhập. Từ 1732 tới 1780, các chúa Nguyễn chiếm nốt các
vùng đất Tiền Giang, Hậu Giang, An Xuyên, Hà Tiên và Kiên Giang.
Như vậy, ta có thể thấy
công cuộc Nam Tiến của ta có thể chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn chiếm Chiêm
Thành: Từ năm 1069 đến năm 1693. Nghĩa là hơn 600 năm để chiếm và bình
định dãy đất hẹp từ Hoành Sơn tới Bình Thuận. Một thời gian đủ dài để di dân và
thiết lập hệ thống làng xã theo thiết chế, nếp sống, phong tục Việt Nam. Trong
thời gian này có 7 cuộc chiến của đàng Trong và đàng Ngoài, nhưng chỉ xảy ra ở
hai bờ sông Gianh, không gây đảo lộn các vùng đất mới chiếm và đang được ổn
định.
Giai đoạn chiếm miền Nam:
Từ năm 1698 đến năm 1780. Chỉ khoảng 80 năm để chiếm và bình định vùng đất mênh
mông so với dân số ta lúc bấy giờ. Khoảng thời gian quá ngắn ngủi và mức gia
tăng dân số ít ỏi không đáp ứng đòi hỏi di dân và thiết lập cơ cấu dân cư, hành
chính ổn định. Hơn nữa, cuộc chiến Tây Sơn – chúa Nguyễn quét nhiều lần qua
vùng đất mới này. Sáu mươi năm đầu thế kỉ 19 chưa kịp cho nhà Nguyễn thời gian
tạm bình định tình hình thì quân Pháp tấn công và vùng đất này bị cắt ra khỏi
nước Việt Nam. Nói chung, miền Nam là một vùng đất nơi mà tổ chức xã hội chưa
định hình, tập quán dân tộc cổ truyền, ý thức quê hương xứ sở chưa bám rễ vững
chắc. Một vùng đất như vậy đương nhiên rất yếu ớt, nhất là về quốc phòng.
PHẦN III (B): CƠ SỞ HẠ
TẦNG VÔ TỔ CHỨC
Như đã nói trong phần
III (A), miền Nam được sáp nhập vào Việt Nam mà chưa có sự thiết lập vững chắc
cơ cấu dân cư, hành chính, các giá trị dân tộc cổ truyền cùng ý thức quê hương
xứ sở…
Trước khi vua Gia Long lên
ngôi, quân đội Tây phương đã tấn công các vùng đất chung quanh Việt Nam như Phi
Luật Tân, Ấn Độ, Indonesia… từ mấy trăm năm trước. Tới khi vua Minh Mạng ý thức
được tình trạng nguy ngập của quốc gia thì trong nội bộ, những biện
pháp quốc phòng không có, đối ngoại, thì quan niệm ngoại giao của chúng ta vẫn
chật hẹp và đóng cửa như xưa.Những biện pháp ngoại giao của Việt Nam lúc
đó, dù đối với Trung Hoa hay đối với Anh, Pháp bộc lộ rõ rệt “tâm lý thuộc
quốc”, nghĩa là tâm lí nô lệ.
Cùng lúc đó, sự thừa hưởng
một vùng đất chưa hoàn toàn bình định đặt miền Nam vào một tình thế khó khăn.
Cơ sở hạ tầng nông thôn thiếu tổ chức: miền Nam dễ bị xâm lăng, khó phòng thủ.
Pháp thắng dễ khi tấn công miền Nam. Hiện nay cũng vậy, quân du kích miền Bắc
dễ dàng phá rối, tấn công các vùng nông thôn của miền Nam.
Hình thức vật chất của làng.
Khi phân tích hình thức
vật chất của làng, cùng với một số tâm lí, tập quán truyền thống, cần nói rõ:
tính dân chủ của làng ta ở mức thấp, gần với mức của bộ lạc. Chúng ta không
hãnh diện về điều này trong cấu trúc Làng của chúng ta.
Làng chúng ta ở miền Bắc
được tổ chức một cách trù mật: trong vùng đất của làng, vuông rào xây
trên một đất hẹp, gồm nhiều nóc gia và dân cư đông đúc. Lối đi và nhà cửa trong
làng sắp xếp như trong một thành phố nho nhỏ, tất cả các cơ sở công cộng,
trường, đình, chùa, công sở… đều phục vụ toàn thể dân làng. Nếp sống tập thể
giữa những người trong làng đó sẽ đương nhiên, và ý thức cộng đồng thành một
tập quán của dân làng. Hai chữ “Làng tôi” khêu gợi một vũ trụ nho nhỏ, một tập
thể trong đó có tôi.
“Làng” là một đơn vị xã
hội sau gia đình, một đơn vị quốc phòng, hành chính của quốc gia, và một đơn vị
kinh tế cho vùng. Hình thức này là hình thức nguyên khởi của làng chúng ta, và
chúng ta tìm thấy hình thức này ở tất cả làng miền Bắc, Bắc miền Trung, đến
Quảng Bình và Quảng Trị.
Càng tiến về phương Nam,
tính chất “Làng” này càng nhạt nhòa rồi mất hẳn trong cấu trúc nông thôn Việt
Nam. Từ phía Nam Quảng Trị đến Bình Thuận, hình thức của làng bớt tính cách trù
mật. Sự liên lạc giữa người trong làng càng giảm, tinh thần tập thể giảm theo,
và lối sống riêng tư càng phát triển.
Nhưng bắt đầu từ các
tỉnh miền Đông Nam Bộ và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thì hình thức trù mật
hoàn toàn biến mất. Tính cách đơn vị xã hội của làng không còn nữa. Tính cách
đơn vị quốc phòng cũng biến mất, chỉ còn tính cách đơn vị hành chính.
Ở Tây Nam Bộ, hình thức
nguyên khởi của làng biến mất hoàn toàn trên những cánh đồng bao la hay dọc
theo vài mươi ngàn cây số bờ sông với chỉ vài nóc gia rải rác…
Giải thích cho sự việc
này bằng lí do là miền Nam có đất rộng, miền Bắc đất hẹp hơn, thực ra không đủ.
Quan niệm sai về tổ chức làng, bỏ quên tính chất trù mật của làng là nguyên do
chánh.
Hậu quả của hình thức
vật chất.
Làng thiếu tính “trù
mật” chịu các hậu quả xấu dưới đây:
1) Tinh thần tập thể mất
đi. Từ đó kéo theo tinh thần quốc gia cũng suy giảm;
2) Sự tiến hóa của cá
nhân bị gián đoạn vì không kế thừa được kiến thức, kinh nghiệm truyền từ đời
này sang đời khác theo nếp sống “trù mật”;
3) Sự liên lạc hai chiều
dân chúng với chính quyền không còn thông suốt
Do đó, để chống lại sự
xâm lược và phá rối của du kích quân miền Bắc, ta phải đặt biện pháp quân sự
trong một công cuộc phát triển tổng thể cho miền Nam. Trong đó, việc đầu tiên
mà chúng ta phải thực hiện là tổ chức lại các cơ sở hạ tầng nông thôn trên căn
bản cuộc sống trù mật và tập thể. Và công cuộc này, chúng ta phải nhắm tới mức
độ quốc gia chứ không phải chỉ ở miền Nam.
Những Di Sản Khác Của
Lịch Sử
Ngoài hai vấn đề “Bang
Giao với Trung Hoa” và “Nam tiến”, tám mươi năm Pháp thuộc để lại cho chúng ta
một di sản nhiều tai hại. Chỉ cần nhắc thêm vài di sản nặng nề…
Tây phương hóa bắt buộc: Vận
mạng của chúng ta không phải do chúng ta nắm. Vì vậy, công cuộc Tây phương
hóa củachúng ta từ một thế kỷ nay, là một công cuộc Tây phương hóa bắt
buộc, không mục đích, không được hướng dẫn. Dân chúng bị lôi cuốn vào phong
trào Tây phương hóa, mà không hiểu mục tiêu gì, mức độ và phương cách
nào để Tây phương hóa hữu hiệu.
Xã hội tan rã: Các
giá trị tiêu chuẩn cũ đã mất hết hiệu lực mà giá trị tiêu chuẩn mới thì không
có. Do đó, tín hiệu tập hợp các phần tử trong xã hội để tạo sự tin tưởng, thúc
giục dân chúng cùng cố gắng hướng về mục tiêu phát triển chung của đất nước, bị
suy yếu hẳn. Việc này càng nghiêm trọng khi có mặt quân đội nước ngoài ([29]).
Sự gián đoạn trong vấn
đề lãnh đạo quốc gia: Sự gián đoạn trong lãnh đạo quốc gia của chúng
ta thật trầm trọng. Sự chuyển quyền không thể thực hiện được giữa lớp
người trước và lớp người sau.Người lãnh đạo không có đủ di sản, dĩ vãng
không bảo tồn được. Bí mật quốc gia và bí mật lãnh đạo đều bị mất. Thuật
lãnh đạo và kinh nghiệm lãnh đạo không truyền lại được.
Vấn đề phân chia lãnh
thổ: Việc chia đôi lãnh thổ khiến nguồn lực phát triển, thay vì
tập trung cho toàn quốc gia, nay phải thực hiện trên từng miền riêng rẽ.
Mâu thuẫn và cơ hội: Mâu
thuẫn giữa các nước lớn là cơ hội phát triển cho nước nhỏ. Nhờ mâu thuẫn giữa
các cường quốc Tây phương hồi thế kỷ 19 mà nước Nhật đã canh tân và phát triển.
Mâu thuẫn giữa khối Cộng Sản và khối Tây phương đã giúp cho các quốc gia thuộc
địa thâu hồi được độc lập.
Từ sau thế chiến thứ
hai, cơ hội lớn đã đến, nhưng do bị phân chia, Việt Nam chẳng những không phát
triển được, mà còn để bị mâu thuẫn của hai khối Tự Do và Cộng Sản kéo vào một
cuộc chiến vô cùng tàn khốc!
Các dân tộc khác đã nắm
lấy cơ hội và thực sự phát triển. Nếu Việt Nam đễ lỡ cơ hội một lần nữa, hậu
quả sẽ vô cùng tai hại. Thế hệ chúng ta, nhất là các nhà lãnh đạo, sẽ chịu sự
nguyền rủa oán hận của các thế hệ con cháu.
Hiện trạng tâm lý: Sự
phân chia lãnh thổ còn tạo ra một hiện trạng tâm lý, thuộc về tình cảm ăn sâu
và lan rộng trong quần chúng. Mỗi người Việt Nam ở phía Nam cũng như phía Bắc
đều cảm thấy như đã bị cưỡng đoạt một phần di sản của tổ tiên.
Phân chia và phân tranh: Cuộc
phân tranh của Việt Nam hiện nay khác hẳn về bản chất với các cuộc phân tranh
trong lịch sử trước đây (phân tranh Trịnh-Nguyễn và phân tranh Nguyễn-Tây Sơn).
Những cuộc phân tranh trước đây đều do hai thế lực nội bộ tranh giành nhau. Cuộc
phân chia ngày nay là hiện tượng địa phương của sự tranh chấp giữa ba khối Tây
phương, Nga và Trung Cộng.
Lí do Việt Nam phải gánh
lấy cuộc chiến này là chúng ta, trong khi giành độc lập, phải liên kết với khối
Cộng Sản. Sau khi Pháp rút đi, thời cuộc thay đổi căn bản, chúng ta lại không
đủ khôn ngoan tách ra khỏi liên hệ đồng minh với Cộng Sản.
Các cuộc phân tranh
trước kia xảy ra khi nước ta tiến hóa trong cùng một hệ thống giá trị tiêu
chuẩn. Vì vậy, sau khi cuộc phân tranh chấm dứt thì xã hội vẫn tiếp tục phát
triển.
Cuộc phân tranh hiện nay xảy ra với các giá trị dân tộc truyền thống bị
phá hủy và các giá trị mới chưa được xác định. Cứ theo hoàn cảnh hiện nay, miền
Bắc Việt Nam sẽ theo các giá trị của xã hội Cộng Sản, miền Nam sẽ theo các giá
trị của xã hội Dân Chủ-Tự Do. Do sự khác biệt của hai hệ thống giá trị đối chọi
nhau, khi đất nước thống nhất chắc chắn sẽ gây hụt hẫng cho một nửa dân tộc
trong một thế hệ ([30]).
Hiện nay Việt Nam chỉ có
thể phát triển, giống như các nước khác, bằng cách Tây phương hóa. Sự phân
tranh của dân tộc lại đặt thêm một câu hỏi: ta nên thống nhất trước khi phát
triển, hay ta sẽ phát triển mỗi miền trước khi thống nhất?
Để có thể trả lời
cầu hỏi trên, trước hết chúng ta cần biết…
Việt Nam là một thuộc
địa của Pháp, một nước có chính sách thuộc địa hẹp hòi. Sau thế chiến 2, chính
sách trao trả độc lập cho thuộc địa cũng rất thiển cận. Do đó, Việt Nam và
Algérie phải tốn nhiều xương máu giành độc lập. Chúng ta đã giành độc lập theo
truyền thống kiêu hùng của dân tộc. Tuy nhiên, bất kì nhà lãnh đạo nào cũng cần
biết rằng sinh lực của cộng đồng là một của báu, phải được bảo vệ và tiết kiệm
một cách nghiêm nhặt. Phải chi ta giành độc lập với sinh lực ít hao tốn, thì ta
có thể dồn sinh lực cho công cuộc
phát triển. Độc Lập không phải là
mục đích, Phát Triển Dân Tộc mới là mục đích.
Thực ra thì dù chính
sách của Pháp có thiển cận, chúng ta cũng có thể đòi lại độc lập với ít tổn
thất sinh lực hơn. Chính lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng đã
khiến cho phe Cộng Sản Việt Nam chọn chiến tranh thay vì đấu tranh chính trị.
Dù không đồng ý, chúng
ta cũng thông cảm việc các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đồng minh với Nga Xô
để giành độc lập. Nhưng sau đó, để lãnh đạo công cuộc phát triển đất nước, họ
phải thoát khỏi vòng ảnh hưởng của hai khối Tự Do và Cộng Sản, nếu họ nhận thức
rõ:
1) Thâm ý chiến lược của
Nga và Trung Cộng. Chủ nghĩa Cộng Sản thực ra chỉ là một phương tiện tranh đấu
của những Nga trước đây, và của Trung Cộng hiện nay.
2) Cần chấm dứt đồng
minh với Cộng Sản khi không còn ích lợi cho dân tộc.
3) Đối với Việt Nam,
Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên,
Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp.
Tai họa thay, các nhà
lãnh đạo Bắc Việt đã không thoát ra khỏi ảnh hưởng đó, và Việt Nam biến thành
chiến trường của tranh chấp Tự Do – Cộng Sản. Mâu thuẫn giữa hai khối, lẽ ra là
cơ hội, biến thành tai họa tàn phá khủng khiếp sinh lực của đất nước! ([31])
Thời cuộc đã cho chúng
ta một cơ hội lớn để phát triển. Nhưng chúng ta đã buộc chặt vận mệnh chúng ta
vào Trung Cộng, một việc mang rất nhiều di hại to lớn về sau. Và hiện nay,
chúng ta đang bị chia làm hai! Câu hỏi lớn là: ta nên thống nhất trước khi phát
triển, hay ta sẽ phát triển mỗi miền trước khi thống nhất?
Biết rằng chúng ta không
tự chủ được trong việc phân chia, tất có những việc tiếp theo ta cũng không tự
chủ được. Nhưng nếu thấu triệt các vấn đề cần thiết cho dân tộc, chúng ta có
thể chủ động tạo nên các sự việc có ích cho nước ta, và có thể ngăn cản các
phát sinh có hại. Chúng ta thử tìm hiểu hai trường hợp:
Thống Nhất Trước Khi
Phát Triển:
1) Nếu thống nhất bởi
miền Bắc: Sau thống nhất sẽ bị Trung Cộng chi phối nặng nề. Sự phát triển của
Việt Nam không thể nào thực hiện được, bởi vì:
a. Trung Cộng đang phải
khó khăn để phát triển. Nếu để Trung Cộng chi phối thì sự phát triển của Việt
Nam còn khó khăn hơn.
b. Trung Cộng chỉ là học
trò của phương Tây. Học Trung Cộng, chúng ta sẽ mắc phải các sai lầm của người
học trò Trung Cộng.
c. Chúng ta sẽ tròng vào
cổ dân tộc cái ách nô lệ mà tổ tiên chúng ta, trong một ngàn năm đã đổ nhiều
xương máu để loại trừ ([32]).
2) Nếu thống nhất bởi
miền Nam: Sau thống nhất sẽ bị phương Tây chi phối nặng nề. Chúng ta có thể
nhận được viện trợ dồi dào từ phương Tây, nhưng dù sao sự phát triển của Việt
Nam không là mối bận tâm của họ.
Hơn nữa, nếu Thống Nhất
trước, ta không còn cơ hội lợi dụng mâu thuẫn của hai khối.
Phát Triển Trước Khi
Thống Nhất:
Hai miền sống hòa bình
và tự phát triển. Miền Bắc tận dụng khối Cộng Sản, miền Nam tận dụng khối Tự
Do. Sự tranh chấp của hai khối khiến mỗi miền nhận nhiều viện trợ kỹ thuật và
tư bản. Hơn nữa, ngoài tranh chấp của hai khối, Trung Cộng cũng chen vào tạo
nên cục diện tranh chấp ba bên: Mỹ và Tây Âu, Nga Xô, Trung Cộng.
Phát Triển trước khi
Thống Nhất có mặt bất lợi: a) hai miền phát triển theo hai phương cách khác
nhau, khi thống nhất có trở ngại không?, và, b) hai hệ thống Cộng Sản và Tự Do
có hai hệ thống giá trị khác nhau, khi thống nhất có trở ngại không?
Nếu xem kỹ ta sẽ thấy
các bất lợi, đều có thể vượt qua. Sự khác nhau về phương cách phát triển thuộc
về lãnh vực kỹ thuật, không khó để khắc phục. Sự khác biệt về giá trị thì sâu
sắc hơn, tuy nhiên khi phát triển thành công, ta vẫn còn giữ các giá trị căn
bản của truyền thống dân tộc làm nền tảng cho sự thống nhất về sau.
Như vậy, theo lý luận
trên, gạt bỏ lòng xúc động vì tổ quốc chia đôi, can đảm đối diện thực tế, chúng
ta sẽ chấp nhận giữ tình trạng phân chia để lo phát triển mỗi miền trước.
PHẦN III (C): VAI TRÒ
CỦA MIỀN NAM
Trong khi quá lệ thuộc
vào chủ nghĩa Cộng Sản, các nhà lãnh đạo miền Bắc đã tạo điều kiện cho: a) Sự
chia cắt đất nước, và b) Sự thống trị của Trung Cộng sau này.
Việt Nam đã ra ngoài sự
chi phối của Tàu gần một thế kỉ. Nay, khi tự đặt lại mình dưới sự chi phối đó,
các nhà lãnh đạo miền Bắc đã đặt dân tộc trước viễn cảnh khủng khiếp là lệ
thuộc Trung Hoa, mà kinh nghiệm ngàn năm đã cho thấy rất là tàn khốc.
Hiện nay miền Bắc đang
tiến hành xâm chiếm miền Nam. Sự tồn tại của miền Nam, trong lòng khối Tự Do,
có vai trò cực kì quan trọng: nó chưa cho phép Trung Cộng thống trị Việt Nam. Giả
sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là
một vấn đề thời gian([33]). Vậy
chúng ta bảo vệ miền Nam không chỉ cho miền Nam, mà còn giữ một lối thoát cho
miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách thống trị một lần nữa ([34]).
PHẦN III (D): ĐƯỜNG LỐI
PHÁT TRIỂN
Hiện nay, nước nào muốn
phát triển đều phải theo tinh thần khoa học, kỹ thuật của phương Tây. Ngoài các
nước phương Tây như Anh, Pháp, Đức, Ý, Mỹ, các nước Bắc Âu… các nước khác đều
theo con đường này: Nga, Nhật, Thổ Nhĩ Kì, Nga…
Ngoại trừ Nga và Trung
Hoa dùng chế độ độc tài ép dân làm việc để Tây phương hóa, các nước kia theo
đường lối Tự Do Dân Chủ. Phân tích các điều kiện về Nhân lực, Kinh tế, Chính
trị, Lịch sử, vị trí địa lý… của Việt Nam chúng ta thấy Việt Nam không thể theo
chế độ độc tài để phát triển vững bền được.
Phân tích các điều kiện
phát triển của Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thấy:
Trong quá khứ:
do lịch sử một ngàn năm lệ thuộc và hơn chín trăm năm liên tục chống chọi với
Trung Hoa mạnh gấp Việt Nam rất nhiều lần, các nhà lãnh đạo Việt Nam luôn có
tâm lí thuộc quốc trước Tàu. Từ khi Pháp chiếm Việt Nam, tâm lí này đã bị đánh
bạt.
Hiện nay:
khi đã giành độc lập, Việt Nam ở vị thế ngang với Trung Hoa vì là những nước
vừa lấy lại sự tự chủ ([35]).
Với diện tích và dân số nhỏ hơn, Việt Nam sẽ phát triển thuận lợi hơn. Việt Nam
có chữ viết theo mẫu tự La tinh, tiện giao tiếp với văn hóa Tây phương và sự
Tây phương hóa dễ hơn. Nếu tiếp thu các giá trị tốt đẹp của văn hóa Tây phương,
lấy sự phát triển con người làm phương tiện phát triển kinh tế xã hội thì Việt
Nam sẽ nhanh chóng hùng cường bền vững. Trong khi đó Trung Hoa dùng bạo lực và
độc tài cưỡng ép dân chúng lao động sẽ đem hậu quả tai hại cho nước họ về sau.
Do đó, Việt Nam cần Tây
phương hóa mau chóng. Để khoa học, kỹ thuật cùng các giá trị tốt đẹp của phương
Tây phát triển trên đất nước, Việt Nam mới có thể điều chỉnh và bảo tồn các giá
trị cổ truyền tốt đẹp của dân tộc. Việt Nam sẽ bị xáo trộn trong khi phát
triển, nhưng không bị gián đoạn lịch sử và tan rã xã hội. Cắc chắn rằng nếu ở
ngoài vòng chi phối của Trung Cộng, nước ta sẽ phát triển nhanh chóng hơn họ
bội phần.
Vậy “không thể
binh vực được sự gắn liền vận mạng công cuộc phát triển của chúng ta với vận
mạng công cuộc phát triển của Trung Cộng”, “mù quáng hy sinh quyền lợi của dân
tộc Việt Nam cho quyền lợi của dân tộc Trung Hoa”
Tuy nhiên, cho tới nay,
sự tổng kết cho kết quả đau lòng: Trong khi cơ hội phát triển đã đến từ hai
mươi năm nay thì: Từ mười năm nay, Bắc Việt chưa thực hiện được những
mục tiêu phát triển đáng kể, và Các thực hiện phát triển của
Nam Việt đều bị du kích quân Bắc Việt phá hoại.
Sau hai mươi năm, và sau
khi tiêu hao bao nhiêu sinh lực của dân tộc, chúng ta đã đạt được kết quả kể
trên. Như thế thì, các nhà lãnh đạo của chúng ta có phải đã đi đúng đường hay
không? ([36]).
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
PHẦN IV (A): MỘT LẬP
TRƯỜNG THÍCH HỢP VỚI CÁC NHẬN XÉT TRÊN
Trong khi phân tích lịch
sử để hiểu Chính Đề hiện nay của dân tộc (Phần I và II), cùng với kiểm điểm các
“vốn” chúng ta có để giải quyết Chính Đề (Phần III), chúng ta đã đề cập một
phần những suy nghĩ về các Giải Pháp.
Phần IV này tổng kết và
nêu lên minh bạch toàn bộ các Giải Pháp được đề nghị. Cần nói rõ Cai Trị Độc
Tài là một biện pháp dễ mà chúng ta không chọn bởi vì chúng ta vững tin rằng:
1) Sự hiểu biết của
chúng ta về vấn đề dân tộc đã được đặt trên căn bản vững chắc của sự kiện lịch
sử.
2) Đời sống tập thể chịu
chi phối bởi qui luật Thăng Bằng Động Tiến. Thăng bằng động tiến giữa
quyền lợi của tập thể và của cá nhân, giữa những điều kiện bên trong và điều
kiện bên ngoài… Thể chế Dân Chủ giúp chúng ta giữ gìn thăng bằng động
tiến hữu hiệu hơn.
Vậy ta sẽ xem nên có
thái độ nào trong các lãnh vực dưới đây:
Vấn đề lãnh đạo
Quan niệm về lãnh đạo
liên hệ chặt với chính thể một quốc gia. Thế giới hiện nay có 2 kiểu chính thể
chính: chính thể Độc Tài Đảng Trị (quan niệm lãnh đạo bằng cưỡng bách) và chính
thể Dân Chủ Pháp Trị (lãnh đạo bằng thuyết phục).
Quan niệm lãnh đạo:
Chúng ta nên biết rằng chọn quan niệm về lãnh đạo nào là do những sự kiện lịch
sử thực tế quyết định chớ không phải do những quan điểm triết lý trừu tượng.
Nhà lãnh đạo chịu trách
nhiệm rất lớn trong việc duy trì sự thăng bằng giữa quyền lợi của tập thể và cá
nhân, để cộng đồng tiếp tục phát triển. Trong thực tế sự thăng bằng này thường
xuyên bị đe dọa phá vỡ bởi:
1) Các nguyên nhân bên
trong: Nội loạn hay các thay đẩi sâu sắc khi cơ cấu xã hội thay đổi (cách mạng
khoa học kỹ thuật…)
2) Các nguyên nhân bên
ngoài: Ngoại xâm. Có khi chỉ là ngoại xâm như các lần Tàu mang quân đánh ta. Có
khi vừa có ngoại xâm, rồi cùng lúc ngoại xâm kích thích thay đổi cơ cấu xã hội
như khi Pháp chiếm nước ta.
Khi mất thăng bằng, sự
phát triển bị kìm hãm. Thăng bằng bị mất nghiêm trọng nhất khi cùng lúc nước bị
ngoại xâm và xã hội bị thay đổi cơ cấu.
Việt Nam ta hiện đang bị
mất thăng bằng nghiệm trọng là hậu quả của 80 năm Pháp thuộc để lại, cộng với
sự mất thăng bằng do chịu ảnh hưởng quá mạnh bởi sự tranh chấp hai khối Cộng
Sản và Tự Do.
Vậy ta nên có quan niệm
lãnh đạo nào, thể chế nào để đem lại thăng bằng cho quốc gia? Trước khi bàn sâu
hơn, ta nên xem xét kỹ quan niệm lãnh đạo Cộng Sản, một việc ảnh hưởng lớn tới
quan niệm lãnh đạo và thể chế cho Việt Nam.
Thuyết Cộng Sản phát
sinh: Thuyết này ra đời khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát
triển nhanh chóng làm nội bộ xã hội phương Tây mất thăng bằng trầm trọng.
Thuyết này quá chú trọng tới các khuyết điểm trước mắt mà phủ nhận hệ thống các
giá trị tiêu chuẩn đã trở thành di sản văn minh nhân loại, do đó đem tới nguy
cơ tiêu diệt tất cả di sản của văn minh nhân loại trong mấy nghìn năm.
Các nhà lãnh đạo Tây
phương đã từ chối phương thuốc độc hại, và nỗ lực tìm những phương thuốc khác. Họ
đã thành công một cách thuyết phục, khiến phương Tây vừa thâu nhận lực lượng
sản xuất mới, vừa tạo thăng bằng động tiến xã hội, do đó càng phát triển hùng
mạnh. Từ đó, dân chúng phương Tây không còn ủng hộ thuyết Công Sản nữa.
Thuyết Cộng Sản biến
thành lợi khí của nước Nga: Nước Nga vốn có lịch sử đấu tranh lâu dài với
Tây Âu. Đầu thế kỉ 19, nước Nga lạc hậu muốn chống lại Tây Âu cường thịnh, và
họ nhìn thấy ở chủ nghĩa Cộng Sản một lợi khí sắc bén cho tham vọng chiến thắng
của dân tộc họ.
Tự nhận là người bảo vệ
và phát triển thuyết Cộng Sản, Nga có các lợi ích:
1) Lãnh đạo các công
đoàn lao động, đảng Cộng Sản trong lòng Tây Âu,
2) Lãnh đạo các nước
thuộc địa chống lại Tây Âu bằng cách thêm vào vào thuyết Cộng Sản tinh thần
Giải Thực.
Thuyết Cộng Sản nhập
cảng vào Á Châu và Việt Nam: Lúc bấy giờ, Tây phương thống trị phần còn lại
của thế giới và đô hộ rất nhiều nước. Từng nước thuộc địa không thể đánh bại kẻ
thống trị, cho nên đa số họ chọn liên minh với Nga để phong trào giành độc lập
có tầm vóc thế giới và dễ thành công hơn.
Tác dụng của lý thuyết
Cộng Sản:
Các nhà lãnh đạo Việt
Nam đã chọn làm đồng minh với Nga. Như đã phân tích, đây là lí do khiến việc
giành độc lập của Việt Nam tốn quá nhiều xương máu. Ta kính trọng lòng anh
dũng, chí quật cường, của những kẻ hi sinh vì nghĩa lớn, nhưng ta phải trách
người lãnh đạo đã quá phí phạm sinh lực của cộng đồng. Sinh lực này đâu phải
chỉ để giành độc lập, mà chủ yếu để phát triển dân tộc sau đó, và đây mới là
mục đích chính của chúng ta ([37]).
Việc đi theo thuyết Cộng
Sản có ích lợi cho việc phát triển hay không?
Khác với Nga và Tàu, vốn
chỉ xem thuyết Cộng Sản là lợi khí để phục vụ quyền lợi dân tộc, Bắc Việt lại
tôn thờ thuyết này. Ta đã thấy, quan niệm lãnh đạo của Cộng Sản là Độc Tài Đảng
Trị, nếu nó có thể mang tới vài thành công ngắn hạn, lại gây nhiều đổ vỡ về lâu
dài cho dân tộc. Hơn nữa, khác với Nga và Tàu, Việt Nam nhỏ hơn nên dễ phát
triển thành công mà không cần các biện pháp hao tốn sinh lực. Sự nghiệp Tây
phương hóa của chúng ta dễ thành công bằng biện pháp Dân Chủ Pháp Trị. Nước
Nhật hùng mạnh mà không cần thuyết Cộng Sản là một tấm gương phát triển cho
Việt Nam.
Việc đi theo thuyết Cộng
Sản có ích lợi cho việc bảo vệ chủ quyền hay không?
Chính thể Độc Tài Đảng
Trị cưỡng bức dân chúng bất chấp ý nguyện của họ tạo sự chia rẽ trầm trọng với
dân chúng. Một quốc gia như vậy tất nhiên không tận dụng được sức toàn dân khi
có ngoại xâm.
Việt Nam ta có mối liên
hệ rất đặc biệt với Trung Hoa, và ý đồ bất biến và liên tục của họ là xâm lăng
Việt Nam. Đi theo thuyết Cộng Sản, trên thực tế nghĩa là chúng ta trở lại qui
phục Tàu sau một thế kỉ đã thoát ra và bình đẳng với họ. Và lần này ách thống
trị của họ trên con cháu chúng ta sẽ bội phần ác nghiệt! ([38]) Chỉ
nghĩ đến cái viễn ảnh ngàn năm lệ thuộc Trung Cộng mà các nhà lãnh đạo Cộng Sản
miền Bắc đang sửa soạn cho dân tộc, chúng ta cũng phải khiếp đảm, thoáng nhìn
vận mạng cực kỳ đen tối cho các thế hệ tương lai.
PHẦN IV (B): TƯ TƯỞNG,
PHƯƠNG PHÁP và HÌNH THỨC
Như đã phân tích trên,
chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản, tư tưởng Cộng Sản, phương pháp
Cộng Sản, hình thức Cộng Sản. Trong lúc đó, cần minh bạch rằng: Các kỹ thuật
như lối làm việc tập thể hay tổ chức quần chúng mà chúng ta ngộ nhận là của
Cộng Sản, thực ra là do Cộng Sản học của phương Tây. Chính lối làm việc
tập thể và sự tổ chức tinh vi trong mọi lĩnh vực của đời sống là nguồn gốc sinh
lực của Tây phương.
Bộ máy lãnh đạo.
Chủ nghĩa Cộng Sản do
phương Tây tạo ra. Bộ máy lãnh đạo của Cộng Sản cũng vậy. Sự khác biệt hiện nay
là: Cộng Sản hiện nay dùng bộ máy đó để thực hiện phương pháp lãnh đạo Độc Tài
Toàn Trị của họ. Các quốc gia Tây phương dùng bộ máy này để thực hiện phương
pháp lãnh đạo Dân Chủ Pháp Trị.
Chúng ta không chấp nhận
phương pháp lãnh đạo Độc Tài Toàn Trị của Cộng Sản, chứ không đập phá toàn bộ
bộ máy đó. Nhiều thành tố của bộ máy đó là từ kinh nghiệm, văn hóa chung của
nhân loại trước khi có thuyết Cộng Sản.
Tuy nhiên, giữ bộ máy
như thế nào, cải biến nó thế nào cho thích hợp với nền Dân Chủ Pháp Trị là việc
phức tạp. Trước khi xem bộ máy này nên áp dụng vào Việt Nam như thế nào, chúng
ta sẽ cùng nhắc lại các yêu cầu chung về bộ máy:
Hình thức của bộ máy
lãnh đạo, hiện nay của Tây phương, phải thỏa mãn những điều kiện dưới đây:
1) Bảo đảm sự liên
tục lãnh đạo quốc gia
2) Bảo đảm sự
chuyển quyền một cách hòa bình từ lớp người lãnh đạo trước cho lớp người lãnh
đạo sau
3) Bảo đảm sự thay
đổi người lãnh đạo
4) Bảo đảm được sự
áp dụng nguyên tắc thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi của
tập thể.
Ngoài bốn điều kiện
trên, bảo đảm tinh thần trường cửu của bộ máy lãnh đạo, ba điều kiện dưới đây
bảo đảm sự điều hành thiết thực và ngắn hạn của bộ máy lãnh đạo.
5.- Hình thức bộ máy
lãnh đạo phải bảo đảm một sự lãnh đạo quốc gia mở rộng, mục đích đào tạo nhiều
người lãnh đạo.
6.- Hình thức bộ máy
lãnh đạo phải bảo đảm sự kiểm soát người cầm quyền.
7.- Hình thức bộ máy
lãnh đạo phải bảo đảm sự hữu hiệu của chính quyền.
Áp dụng vào Việt Nam.
Chúng ta đã biết rằng
nguồn gốc chính của sức mạnh của các cường quốc, như Anh hay Mỹ, là sự thành
công của họ trong việc thực hiện sự liên tục lãnh đạo quốc gia trong nhiều thế
kỷ. Muốn thực hiện được sự liên tục lãnh đạo quốc gia nói trên, một bộ máy lãnh
đạo phải thỏa mãn ba điều kiện:
1) Khi cần có thể thay
đổi người lãnh đạo, 2) việc chuyển quyền được bàn giao ôn hòa và xây dựng, và
3) sự lãnh đạo quốc gia liên tục phải được thể hiện một cách vừa có tính tượng
trưng, vừa có tính thực tế.
Ta có thể thấy ngay rằng
chính thể Độc Tài Đảng Trị không thể đáp ứng các điều kiện nêu trên.
Lược qua các hình thức
chính thể của khối Tự Do, chúng ta thấy, trong hoàn cảnh thực tế của Việt Nam,
hình thức Quân Chủ Lập Hiến đáp ứng tốt nhất các yêu cầu trên. Rất tiếc là
triều Nguyễn không được duy trì để có vai trò đại diện cho nước Việt Nam.
Do vậy, chúng ta có thể
tạo một chính thể với các thành phần như sau:
a) Thượng hội đồng
quốc gia, gồm những người có công trạng với tổ quốc và thấu triệt các vấn đề
lãnh đạo quốc gia. Thượng hội đồng sẽ tượng trưng cho sự lãnh đạo liên tục
quốc gia, và sẽ bầu một Quốc Trưởng.
b) Giao quyền hành pháp
cho Thủ Tướng, là người của một chính đảng. Thủ tướng do Quốc Trưởng bổ nhiệm.
Điều này bảo đảm sự thay đổi người lãnh đạo và sự chuyển quyền ôn hòa.
Hai khuynh hướng (lưỡng
đảng)
Hai yếu tố chính, trong
trạng thái thăng bằng động tiến của một quốc gia, là quyền lợi ngắn hạn của cá
nhân của các phần tử trong tập thể và quyền lợi dài hạn của tập thể.
Hệ thống lưỡng đảng, một
đảng chú trọng hơn quyền lợi ngắn hạn của cá nhân và một đảng
chú trọng hơn quyền lợi dài hạn của tập thể. Các nhà lãnh đạo của
hai đảng thay nhau nắm quyền hành pháp. Quốc gia sẽ cung cấp phương tiện
hoạt động cho đảng cầm quyền và cho đảng đối lập.
Đại diện của hai đảng
thi hành nhiệm vụ của mình ở nghị trường. Và nhiệm vụ đó là lập pháp và kiểm
soát hành pháp.
Do trình độ dân trí hiện
tại, nhiệm vụ lập pháp không thể hoàn toàn giao phó cho tổ chức nghị
trường được. Nên có một một tổ chức lập pháp chuyên môn, gồm
những nhà luật học về hiến pháp và luật pháp. Tổ chức nghị trường có thể đề
nghị dự án luật, phản đối hay chấp nhận dự án luật.
Hai đảng chính trị có
nhiệm vụ mở rộng vấn đề lãnh đạo và đào tạo nhiều người lãnh đạo.
Dưới bộ máy lãnh đạo, có
bộ máy hành chính, bộ máy quân sự và bộ máy tổ chức quần chúng. Bộ máy lãnh đạo
là cái não, bộ máy hành chính và bộ máy quân sự là chân tay, và bộ máy tổ chức
quần chúng là trung gian đưa bộ máy lãnh đạo
đến nhân dân và đưa nhân dân đến bộ máy lãnh đạo.
Một hệ thống như vậy giữ
trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi của tập thể, là
điều chính yếu trong sự lãnh đạo quốc gia. Nhờ đó sự ổn định quốc gia
được duy trì.
Như chúng ta thấy, giải
pháp được đề nghị trên được học hỏi từ phương Tây. Nhưng chúng ta không theo
cái hình thức bề ngoài, mà theo cái bản chất. Học cái nguyên tắc của bản chất
đó rồi chúng ta sẽ xây dựng một bộ máy lãnh đạo phù hợp nhất với hoàn cảnh,
tính chất của nước ta, hữu hiệu nhất cho sự phát triển dân tộc chúng ta.
Nguyên tắc đó là gì? Là
tính cách ngăn nắp của các bộ phận của bộ máy lãnh đạo. Tính cách phân minh của
sự phân chia trách nhiệm và quan niệm chính xác về sự liên hệ giữa các trách
nhiệm.
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM – KẾT
LUẬN
Chúng ta nên theo lời
dạy của đức Phật: Phải biết TRỤ mà không TRỤ ([39]).
Một lời dạy thâm sâu bao trùm các lẽ tiến hóa trong vũ trụ.
Quốc gia cần một chủ
thuyết, một sách lược… để phát triển cộng đồng. Cần một thời gian để thi hành
chủ thuyết, sách lược đã được chọn lựa. Khi thời đại đã khác, các vấn đề và yêu
cầu của cộng đồng đã khác, quốc gia cần chọn một lý thuyết, một sách lược… mới
thích hợp với thời đại mới. Có như vậy mới bảo vệ được các thành tựu đã đạt
được và cùng lúc có đường tiến cho tương lai.
Nhưng, cái gì là căn bản
để chúng ta dựa vào mà quyết định chọn, giữ hay buông một thuyết, một chính
sách, một chiến lược? Cái căn bản là VỊ TRÍ DÂN TỘC. VỊ TRÍ DÂN TỘC mà
chúng ta quan niệm là một vị trí dân tộc nằm trong khung cảnh thế giới, với tất
cả các dây liên hệ tinh thần và vật chất cần phải có ([40]).
Các nhà lãnh đạo Cộng
Sản ở miền Bắc đã trụ vào lý thuyết Cộng Sản trong thời kỳ tranh giành độc lập. Điều
này cũng đúng một phần nào. Tuy nhiên bây giờ không THOÁT khỏi chủ nghĩa Cộng
Sản thì: a) sự phát triển của dân tộc sẽ bế tắc, và b) mở cửa đưa các thế hệ
sau này vào vòng lệ thuộc rồi bị xâm chiếm bởi Trung Cộng.
…Vì vậy cho nên, công
cuộc chống sự xâm lăng của miền Bắc, không lúc nào khẩn thiết cho cộng đồng dân
tộc Việt Nam bằng trong lúc này.
Và vì vậy cho nên, chúng
ta thành khẩn mong mỏi các nhà lãnh đạo miền Bắc, kịp thời nhận định đã đến
lúc, vì sự tiến hóa của dân tộc, không còn nên tiếp tục sự trụ đóng vào phương
tiện Cộng Sản nữa([41]).
T.Q.C
No comments:
Post a Comment
Thanks