'Hậu quả tai hại của
Hội nghị Thành Đô'
Dương Danh Dy Nhà nghiên cứu Trung Quốc
- 25
tháng 10 2014
...Hơn 20 năm sau Hội nghị Thành Đô, nay có dịp
nhìn lại vấn đề, người ta sẽ thấy “ngộ” ra được một số điều mà ngay từ khi được
phổ biến kết quả của Hội nghị, những người quan tâm đến tình hình đất nước lúc
đó đã ít nhiều biểu thị sự không đồng tình.
Bước đầu, xin mạnh dạn
công khai một số yếu kém của phía chúng ta, cũng như xin thẳng thắn đề cập tới
một vài tác hại của những “quyết đoán” sai lầm khi đó đối với đất nước.
Nêu ra một số việc,
không phải là muốn truy cứu trách nhiệm chính trị, hoặc nhằm bôi xấu, hạ thấp
uy tín của một ai mà chỉ nhằm một mục đích: nếu không thấy hết những dại khờ,
non yếu của chúng ta, không vạch trần những mưu ma chước quỷ của kẻ mà cho đến
tận giờ phút này trong chúng ta vẫn còn có không ít ngưòi lầm tưởng họ là những
đồng chí cộng sản, những người đang cùng chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
sẽ là một nguy hại to lớn, lâu dài, tiềm ẩn đối với dân tộc.
Ngoài những nhân nhượng
vô nguyên tắc về Campuchia như đã trình bày ở bài
trước, phía Việt Nam đã không hề (hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo
ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc Chiến tranh
Biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.
Phía Việt Nam đã hoàn
toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ
hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”.
Đó là những điều ngưòi
viết bài này thu nhận được sau khi đã hỏi kỹ đồng chí phiên dịch và nói chuyện
nghiêm túc nhiều lần với đồng chí Hồng Hà khi đồng chí còn sống tại một số cuộc
họp và tại phòng làm việc của đồng chí tại số 2 Nguyễn Cảnh Trân và tại nhà
riêng của tôi do đồng chí chủ động tới gặp.
Không dám hé một lời
Chúng ta không đòi Trung
Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến
tranh
Chúng ta không đòi Trung
Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến
tranh là điều kiện tiên quyết để bình thường hoá quan hệ hai nước nhưng tại sao
trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về
cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu 'lấy làm tiếc' về
hành động phi nghĩa của mình?
Nhượng bộ vô nguyên tắc
này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dường như giành được 'vị thế chính
nghĩa' trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù
họ mang hơn 60 vạn quân chính quy xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá
nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng sáu tỉnh biên giới Việt Nam.
Làm cho một bộ phận
người trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: 'Việt Nam xua
đuổi người Hoa', 'Việt Nam xâm lược Campuchia'… là đúng, việc thế giới 'lên án,
bao vây cấm vận Việt Nam' là cần thiết, việc Trung Quốc 'cho Việt Nam một bài
học' là phải đạo…trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc
đánh tan bọn Khơme Đỏ, cứu nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là
đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt
Nam.
Cho tới khi đặt bút viết
những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết
ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc,
khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam
không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc. Ngay cả tên tuổi, nghĩa
trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên
cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên.
Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi
đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một
sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để bôi xấu, xuyên tạc Việt Nam
về mọi mặt, đến nỗi phần lớn người dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về
Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là 'vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát'...
Theo tài liệu chính thức
của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung
Quốc - tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học - tán
thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông.
Cảm tình, ấn tượng tốt
đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến
đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như không
còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được.
Chấp nhận yêu sách trắng
trợn của phía Trung Quốc gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn
Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến Đại hội 8 Đảng Cộng
sản Việt Nam chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít
người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi
dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước Phương Tây là một việc làm thể
hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc
làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”...
Có thể nói mà không sợ
quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một
nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập
Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình
thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm.
Ban lãnh đạo Bắc Kinh
các thế hệ, lo sợ ảnh hưởng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải
nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ
Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để
con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam (lời nguời lãnh đạo đảng ta
lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh
trực tiếp cho biết)
Cần nói thêm, việc ngoan
ngoãn chấp hành yêu sách gạt bỏ đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đã tạo điều kiện để từ
sau đó, Bắc Kinh can thiệp ngày càng sâu hơn vào công tác cán bộ, nhân sự chủ
chốt của đảng và nhà nước ta qua mấy kỳ đại hội Đảng (IX, X, và XI) nhằm có
người thân Trung Quốc trong cơ cấu lãnh đạo cấp cao.
Việc tỏ ý không muốn thấy con trai đồng chí
Nguyễn Cơ Thạch nêu trên chỉ là một ví dụ gần đây nhất.
Đây là việc chưa từng có
trong Đảng ta. Chúng ta đều biết thời Bác Hồ, trong Đảng ta tuy có người này kẻ
kia thân Liên Xô, thân Trung Quốc nhưng ngưòi nào cũng phải nghiêm chỉnh chấp
hành đường lối của Đảng, thời đồng chí Lê Duấn là người lãnh đạo chủ yếu đã
không duy trì được nếp chung sống đó, nhưng bất kể là ai hễ thân Liên Xô, thân
Trung Quốc trong đảng đều bị loại trừ.
Có thể nhận định thế này
thế nọ về hiện tượng trên nhưng có một điều có thể khẳng định, thời đó nước
ngoài và nhất là Trung Quốc, không thể trực tiếp thò tay can thiệp vào nội bộ
Đảng ta nhất là vê công tác nhân sự tổ chức.
Nhưng từ năm 1991 đến
nay, việc Trung Quốc can thiệp vào nội bộ ta đã hầu như đã diễn ra thường xuyên
và chưa hề bị lên án. Phải chăng đã xuất hiện 'Nhóm lợi ích thân Trung Quốc'
trong Đảng ta? Không giải quyết được tình trạng này thì hậu hoạn khôn lường.
Bài học bị dắt mũi nhớ
đời
Không thể dùng các từ
ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “cái giá phải trả
bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề.
Hội nghị Thành Đô đã,
đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả to lớn, cay đắng, nhục
nhã...
Vì vậy một vấn đề cũng
quan trọng không kém mà người viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái
giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học
nào?
1. Những ngưòi lãnh đạo
chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn
biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước XHCN Đông Âu, tình hình Liên
Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung
Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định
rất sai lầm.
Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan,
sự kiện Bức tường Berlin bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yeltsin giành chiến thắng
trong cuộc bầu cử tại Liên bang Nga, Gorbachev từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng
cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng
chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa
thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên.
Trong tình hình như thế
mà lại chủ trương 'bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã
hội, chống đế quốc', 'Mỹ và Phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản'.
"Nó đang xoá ở Đông
Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù
trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”
(trích Hồi ký Trần Quang Cơ)
Cần thấy rằng, trước đó
Liên Xô là chỗ dựa về nhiều mặt của Việt Nam, tuy vậy phải nói thẳng ra rằng,
so với Cuba thì Việt Nam tương đối ít lệ thuộc hơn. Thế nhưng trong khi Cuba
phụ thuộc nặng nề vào Liên Xô, lại ở ngay sát nách Mỹ đã không tỏ ra hoảng hốt
khi Liên Xô tan rã, và các bạn ấy vẫn hiên ngang đứng vững từ đó đến nay, Mỹ
không dám can thiệp… thì Việt Nam đã phải vội vã quay sang tìm đồng minh ngay
với kẻ đang là đối thủ nguy hiểm trực tiếp của mình chỉ vì cái đại cục chung chung,
chỉ vì sợ mất chỗ dựa, sợ có thể mất chủ nghĩa xã hội, mất Đảng.
Không thấy hết những khó
khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xảy ra sự kiện
Thiên An Môn, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao
bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Do đàn áp đẫm máu học
sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước Phương Tây chủ yếu cấm vận về chính trị,
kinh tế, quân sự, có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn
chưa huỷ bỏ.
Họ ở vào thế không có
lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo
chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng
được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc 'dắt mũi' kéo theo, thiệt đơn thiệt
kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới
tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.
Không thể không đề cập tới một vấn đề nữa là
trong hơn 10 năm đối kháng, nhà nước Xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, Đảng Cộng sản
Trung Quốc đã không từ thủ đoạn nào trong đối xử với nước ta, không những thế
thái độ của họ trong đối xử với Liên Xô, trong đối xử với nước Ấn Độ láng giềng
đồng tác giả với họ trong đề xướng 5 nguyên tăc chung sống hoà bình những năm
trước đó.
Chẳng lẽ Ban lãnh đạo
Việt Nam lúc đó lại không thấy chút nào?
2. Bằng những thoả thuận
tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh
mất bản lĩnh kiên cường, bất khuất, không sợ địch mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã
nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình trước kẻ thù, tuỳ tiện đổ lỗi cho
người tiền nhiệm.
Người viết bài này không
hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn
với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối cải cách và Đổi mới và
chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước
đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết
cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa
bịp 'vì chủ nghĩa xã hội', 'vì đại cục' của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để
họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.
Bài học này, cần được
phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá
khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi 'láng
giềng bốn tốt', của 'những đồng chí' luôn rêu rao '16 chữ vàng' đang không
ngừng vận dụng những thành quả cũ vào trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện
nay và trong tương lai.
No comments:
Post a Comment
Thanks