Thực
hư tài liệu tuyên truyền Thành Đô
- 6 giờ trước
Mới đây, xuất hiện một
văn bản lưu truyền trên mạng Internet, được cho là do Ban Tuyên giáo Trung ương
biên soạn, để tuyên truyền về Hội nghị Thành Đô và để các cấp ủy, chính quyền
cơ sở triển khai, tổ chức quán triệt, phổ biến tới cán bộ, đảng viên và người
lao động.
Giới chức Việt Nam từ
chối bình luận với BBC về tin này, nhưng một cựu cán bộ cao cấp thuộc Ban Dân
vận Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam nói "có căn cứ" để ra đời
tài liệu này.
Trong khi đó, một cựu
thành viên Tổ tư vấn của Chính phủ thời các Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải
không bình luận trực tiếp về tài liệu. Nhưng bà nói chính quyền nếu không công
bố nhiều thì cũng nên có lộ trình bạch hóa từng bước, chứ không nên giữ im lặng
về cuộc đàm phán cấp cao Trung - Việt.
'Có văn bản ấy'
Được hỏi liệu văn bản
này có phải là thật hay không, ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân
vận Trung ương Đảng nói với BBC:
"Theo tôi nghĩ có
một văn bản ấy để giải thích thắc mắc của nhân dân cũng như ở trong Đảng.
"Hiện nay như tôi
thì chưa thấy nó xuống đến cơ sở, chưa thấy, mới thấy nó ở trên mạng.
"Nhưng tôi biết là
có một cuộc họp mà ban tuyên huấn phải mời những người lãnh đạo cao cấp đến để
tường trình."
Theo cựu Vụ trưởng này,
văn bản tuyên truyền này đã ra đời trước áp lực của dư luận trong nước, đặc
biệt của các giới từ tướng lĩnh, cán bộ cao cấp, các nhà nghiên cứu, tới nhiều
người dân.
Ông Nguyễn Khắc Mai
nói: "Và như thế là đứng trước một áp lực cần phải trình bày, trình bày có
thỏa đáng hay không còn là một việc khác nữa."
Cựu quan chức dân vận
của Trung ương Đảng cho biết chi tiết thêm về một cuộc họp của Ban tuyên giáo
có liên quan tới văn bản này mới đây.
"Theo tôi biết, Ban
tuyên giáo trung ương họ đã có một cuộc họp, đầu tiên là mời các cán bộ cao
cấp, từ Bộ trưởng, Ủy viên Trung ương đã về hưu đến để họ thông báo tình hình
này.
"Và sau đó họ đưa
ra chuyện ấy, đó là vấn đề mà buộc Ban tuyên giáo phải có một động tác để đáp
lại yêu cầu từ người dân thường cho đến các tướng lĩnh, cho đến các nhà trí
thức người ta yêu cầu phải minh bạch vấn đề này," ông Mai nói với BBC.
'Không thấy văn bản'
Tuy nhiên hôm thứ Năm,
nguyên Thứ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông nói với BBC ông không hề biết
tới văn bản này.
"Tôi đã nghỉ hưu
được hơn một năm, bản thân tôi không thấy văn bản này," ông Đỗ Quý Doãn
nói với BBC.
Khi được hỏi liệu văn
bản này có thể được phổ biến tới cấp ủy Đảng nơi ông sinh hoạt hay không, cựu
Thứ trưởng khẳng định thêm.
"Cái đó tôi không
biết đâu, tôi không hề thấy văn bản đó và cũng chưa nghe thấy."
Cũng hôm thứ Năm, bà
Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ bình luận với
BBC về hiện tượng xuất hiện của 'tài liệu tuyên huấn' này, cũng như một lá thư
liên quan tướng Giáp được cho là của vợ cố Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam,
ông Lê Duẩn, được lưu hành trên mạng gần đây.
Bà Chi Lan nói: "Xã
hội đang có nhiều luồng suy nghĩ khác nhau, có nhiều điều trăn trở, kể cả đã
được thể hiện bằng văn bản, của những người đã tham gia cách mạng từ rất lâu.
"Nên có một phản
hồi nhất định của lãnh đạo hiện nay, của những người đang cầm quyền, đang chịu
trách nhiệm, thì họ nên có thái độ, ít nhất họ nên có một lời giải trình.
"Bởi vì chính sự im
lặng, không có giải thích gì, không có phản ứng gì từ phía chính quyền thì
nhiều khi lại càng gây thêm những điều nghi ngại, những điều băn khoăn tiếp và
càng có thể tiếp tục chia rẽ trong dự luận hoặc suy nghĩ trong xã hội Việt Nam,
nó không có lợi gì cả."
'Tăng độ minh bạch'
Nguyên Phó Chủ tịch,
kiêm Tổng thư ký Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng
chính quyền nên xem lại chính sách giữ bí mật với nhiều thông tin, hồ sơ, tài
liệu trong quá khứ của mình. Bà nói:
"Có lẽ ở Việt Nam
lâu nay xã hội cũng hơi bức xúc là số tài liệu mà được coi là mật thì nhiều
quá. Thành ra cũng nên giảm bớt dần những tài liệu không được coi là mật, cần
tăng thêm độ minh bạch về thông tin."
"Còn kể cả những
thông tin cũ cũng vậy, có lẽ nên rút ngắn quá trình công khai hóa nó ra, chứ
không nên giữ lâu quá.
"Tôi cho là với
Thành Đô là hiện nay trong quan hệ với Trung Quốc cũng đang có những cái phức
tạp.
Thứ hai nữa là một số người liên quan đến Thành Đô thì đang còn đây. Cho
nên có thể có những điểm nhạy cảm nào đó mà người ta chưa muốn đưa ra."
Cũng về điểm này, hôm
15/4, một cựu quan chức ngành ngoại giao, ông Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh
sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc nói:
"Phê phán tại sao
Hội nghị đó có những kết quả như thế này, như thế kia, nói thế thì nó đụng
nhiều người."
"Tôi biết chuyện này
khá rõ nhưng chưa tiện nói bây giờ, bởi vì Trung Quốc rõ ràng có ý định trong
chuyện đưa một số nhà lãnh đạo Việt Nam vào bẫy, mắc bẫy của họ.
"Chẳng hạn như
chuyện phía Trung Quốc họ bảo rằng để rất kính trọng ba đồng chí lão thành của
Đảng Cộng sản Việt Nam, thì họ để ba ông ở ba biệt thự khác nhau, thế thì những
ông đã già bảy mươi, tám mưới như ông Phạm Văn Đồng, ông Đỗ Mười, ông Nguyễn
Văn Linh lúc đó thì làm sao mà hội ý được với nhau..."
'Để thử phản ứng'
Nhà ngoại giao nói:
"Văn bản này ra là
chịu áp lực của dư luận, nay thì không thể không nói ra. Nhưng cách người ta
chọn để nói nửa kín, nửa hở như thế càng không ổn.
"Mặt khác, nếu bạch
hóa sẽ động chạm tới rất nhiều người, sẽ rất phức tạp.
"Nhưng tôi khẳng định
là việc bảo có thỏa thuận Việt Nam là một tỉnh tự trị của Trung Quốc vào năm
2020 bởi phía Việt Nam trong hội đàm với Trung Quốc là bịa.
"Nhưng Trung Quốc
họ đưa ra tin đó lại chính là vì Việt Nam muốn giấu nhẹm đi thông tin và các
thỏa thuận, kể cả một số thỏa thuận của một số cá nhân trong Hội nghị này.
"Và do đó mà họ
tung ra thông tin ấy, tạo sức ép với nội bộ của Việt Nam," cựu viên chức
ngoại giao này nói với BBC.
**********************
Nhắc lại 'Món
nợ Thành Đô'
- 14 tháng 10 2014
Hồi ký 'Hồi ức và Suy nghĩ' của cựu Thứ trưởng
Ngoại giao Việt Nam, ông Trần Quang Cơ đã đề cấp đến những gì xảy ra sau Hội
nghị Thành Đô 3-4 tháng 9/1990 giữa lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc năm 1990,
chủ đề hiện được dư luận ở Việt Nam quan tâm trở lại:
Sau đây là hai chương
BBC Tiếng Việt xin trích dẫn từ các nguồn mở đã đăng trên mạng Internet ở nước
ngoài ở dạng tư liệu, mở đầu là chương 16 dưới tiêu đề 'Món nợ Thành Đô':
“Từ tháng 9/90, Trung
Quốc luôn coi ta mắc nợ họ về thoả thuận Thành Đô, đòi ta thực hiện thoả thuận
đó, cụ thể là tác động với Phnom Penh nhận SNC có 13 thành viên và do Sihanouk
làm Chủ tịch. Với cách làm đó, họ khơi sâu thêm bất đồng trong nội bộ ta… Trung
Quốc thấy rằng việc thực hiện thoả thuận Thành Đô gặp trở ngại chính từ Bộ
Ngoại giao nên chủ trương chia rẽ nội bộ ta càng trắng trợn hơn. Đại sứ mới của
Malaysia ngày 3.10.90 đến chào xã giao, nói với tôi là ở Bắc Kinh người ta đưa
tin là có sự khác nhau giữa Bộ Ngoại giao và lãnh đạo Đảng về chủ trương đối
ngoại cho nên trong chuyến đi Thành Đô gặp cấp cao Trung Quốc không có ông
Nguyễn Cơ Thạch.
Sau Thành Đô, trong khi
ta nới rộng hoạt động của sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam thì phía Trung Quốc lại
tỏ ra lạnh nhạt với Bộ Ngoại giao công kích lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam;
hạn chế hoạt động của Đại sứ ta ở Bắc Kinh, không sắp xếp Đại sứ ta tham dự vào
cuộc Lý Bằng tiếp anh Võ Nguyên Giáp, anh Vũ Oanh; cử cán bộ cấp thấp tiếp và
làm việc với Đại sứ ta.
Trung Quốc một mặt khẳng
định là vấn đề Campuchia chưa giải quyết thì quan hệ Trung – Việt “chỉ có bước
đi nhỏ”, mặt khác thăm dò và tích cực tác động đến vấn đề nhân sự và phương án
chuẩn bị Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ họp vào giữa năm 1991.
Từ
tháng 3/91, tại kỳ họp Quốc hội Trung Quốc khoá 7, Lý Bằng tuyên bố “quan hệ
Trung – Việt đã tan băng” và có một số điều chỉnh mềm dẻo hơn trong vấn đề
Campuchia. Về vấn đề SNC của Campuchia. Trung Quốc không cố bám giữ con số 13,
tạm gác vấn đề chủ tịch, phó chủ tịch, đưa ra công thức “Sihanouk chủ trì các
cuộc họp SNC”.
Từ chỗ chỉ có quan hệ với 3 phái, sau cuộc gặp SNC ở Pattaya
(Thái Lan), Trung Quốc chuyển sang quan hệ trực tiếp với Nhà nước Campuchia,
mời Hun Sen thăm Bắc Kinh trong 3 ngày (22-24/7/91).
Chiều Chủ nhật 18/11/90
họp Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia. Từ sau khi P5 thoả thuận về văn kiện
khung (28/890) cuộc đấu tranh về vấn đề Campuchia đi vào giai đoạn cuối, gay
gắt và quyết liệt. Thay mặt Bộ Ngoại giao, tôi trình bày đề án về nguyên tắc đấu
tranh về văn kiện khung của P5 và về vấn đề SNC để Bộ Chính trị cho ý kiến. Khi
tôi trình bày xong, anh Thạch đề nghị Bộ Chính trị khẳng định 2 điểm:
1. Vấn đề SNC là vấn đề
nội bộ của Campuchia, ta không ép bạn được, phải tôn trọng chủ quyền của bạn;
2. Về văn kiện khung, ta
phải bác những điểm vi phạm Hiến chương LHQ. Nếu không sau này có ảnh hưởng đến
vấn đề xử lý Trường Sa… Ta thấy rõ Trung Quốc và Mỹ đều nhất trí xoá Nhà nước
Campuchia bằng cách khác nhau.
Cuối cuộc họp, Tổng bí
thư Linh kết luận: “Về SNC ta không thể góp ý với bạn được… Nếu nói Trung Quốc
và Mỹ như nhau thì tôi không đồng ý. Sau hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị sẽ
đánh giá lại một số vấn đề liên quan đến ngoại giao như nhận định về Trung Quốc
thế nào, tuyên bố hoặc nói về Trung Quốc như thế nào?”
Nguyễn Cơ Thạch nói
luôn: “Đồng ý đánh giá lại cả cuộc hội đàm ở Thành Đô”.
Dự thảo Hiệp định toàn
bộ về Campuchia ngày 26/11/90 do P5 thảo ra đã được các thành viên SNC
Campuchia chấp nhận về cơ bản tại cuộc họp ở Paris ngày 23/12/90. Chủ trương
của ta là giải pháp chính trị về Campuchia, nhất là những vấn đề nội bộ
Campuchia, phải do bạn tự quyết định và chịu trách nhiệm với dân tộc Campuchia.
Ta hết sức giúp đỡ họ, gợi ý để họ tránh được những thất bại không đáng có,
nhưng ta không thể làm thay. Như vậy ta vừa hết lòng giúp bạn vừa không để Việt
Nam một lần nữa bị sa lầy vào cuộc đấu tranh nội bộ của Campuchia. Không để vấn
đề giải pháp chính trị về Campuchia lại một lần nữa trở thành vấn đề lịch sử
trong quan hệ Việt Nam – Campuchia.
Theo yêu cầu của bạn,
ngày 14/1/91, tôi cùng các anh Huỳnh Anh Dũng, Lê Công Phụng, Vũ Tiến Phúc,
chuyên viên về giải pháp Campuchia, sang Phnom Penh làm việc với bạn với mục
đích:
a. Tìm hiểu suy nghĩ và
ý định của bạn về giải pháp Campuchia sau khi bạn đã chấp nhận văn kiện khung
của P5 tại cuộc họp Jakarta 10/9/90 và chấp nhận về cơ bản dự thảo Hiệp định
26/11 của P5 tại cuộc họp Paris 23/12/90;
b. Thuyết phục bạn kiên
quyết tách riêng các vấn đề nội bộ thuộc chủ quyền Campuchia để chỉ thảo luận
và giải quyết trong SNC;
c. Thoả thuận kế hoạch
chuẩn bị cho việc họp lại Hội nghị quốc tế Paris.
Khi tiếp tôi, anh Hun
Sen nói: “Trong nội bộ Campuchia, xu hướng mạnh nhất là muốn có một giải pháp
chính trị giữ được thành quả cách mạng, không để cho Pol Pot quay trở lại… Tình
hình hiện nay rất tế nhị. Tình hình phức tạp sẽ xảy ra nếu ta chấp nhận một
giải pháp vô nguyên tắc. Chỉ cần chấp nhau một giải pháp như vậy thì nội bộ
Campuchia đã hỗn loạn rồi chứ chưa nói là ký kết. Ta giữ lập trường cứng như
vừa qua là tốt. Đề nghị Việt Nam không để đẩy quá nhanh tiến trình giải pháp.
Như vậy, qua các cuộc
gặp Bộ trưởng Hor Nam Hong, Thứ trưởng Dith Munty và Thứ trưởng Sok An, nhất là
qua phát biểu của Chủ tịch Hun Sen chiều 16/11, có thể thấy được chủ trương của
bạn cố kéo dài trạng thái đánh đàm hiện tại vì nhiều yếu tố chủ quan khách quan
khác nhau, song chủ yếu vì trong nội bộ lãnh đạo bạn xu hướng chưa muốn đi vào
giải pháp còn rất mạnh. Hun Sen cho biết theo quyết định của Bộ Chinh trị
Campuchia, trong cuộc họp Trung ương ngày 17/1/91, ông ta sẽ thông báo cho
Trung ương là “năm 1991 sẽ chưa có giải pháp”.
Tuy nhiên, tôi lại có
cảm thấy trong suy nghĩ cũng như trong hành động lãnh đạo Campuchia đang có
nhiều mâu thuẫn lúng túng, chưa xác định được cho mình một đường lối rõ ràng
mạch lạc, mà chỉ lo đối phó từng bước với những vấn đề trong nội bộ cũng như
với đối phương.
Trong lần gặp Heng
Somrin ở Hà Nội ngày 24/2/91, anh Nguyễn Văn Linh vẫn cố ép bạn “cần thực hiện
tốt chính sách hoà hợp dân tộc, không nên nhấn mạnh vấn đề diệt chủng, nên SNC
gồm 13 thành viên và Sihanouk làm Chủ tịch”. Heng Somrin về nói lại với Bộ
Chính trị Đảng Campuchia thì tất cả đều băn khoăn và ngại rằng Heng Somrin
không thạo tiếng Việt nên nghe có thể sai sót. Thực ra, như Hun Sen nói với anh
Ngô Điền, khi nghe Heng Somrin nói lại những ý kiến của anh Linh, Bộ Chính trị
Campuchia rất lo vì thấy Việt Nam khác Campuchia nhiều quá.
Ngày 13/3/91 Hun
Sen nói với anh Thạch: “Có thể có sách lược phân hoá Khmer đỏ, nhưng dứt khoát
không thể bỏ vấn đề diệt chủng. Nếu bỏ sẽ có 3 mối nguy hiểm: sẽ mất con bài
mặc cả trong đàm phán ngay từ đầu; mất lợi thế trong tổng tuyển cử; kẻ thù sẽ
có lợi trong việc vu cáo Việt Nam là mọi chuyện xảy ra 12 năm qua đều do Việt
Nam gây ra cả. Số lượng thành viên SNC có thể là 12 hoặc 14, không thể chấp nhận
con số 13, sẵn sàng cho Sihanouk làm chủ tịch, Hun Sen làm phó, không đòi chức
chủ tịch luân phiên hay đồng chủ tịch nữa”.
Trong cách làm này của
ta cho thấy ta chỉ quan tâm đến điều mà ta cho là có lợi ích đối với ta mà
thiếu cân nhắc xem điều đó có phù hợp với lợi ích của bạn không. Cách làm đó
tất yếu ảnh hưởng xấu đến quan hệ gắn bó lâu nay giữa ta với Phnom Penh.
Đầu năm 1991, Bộ Chính
trị đã có cuộc họp tại T78 thành phố Hồ Chí Minh (24-25/1/91) để bàn về vấn đề
Campuchia. Tôi trình bày chủ trương tách mặt quốc tế với mặt nội bộ của giải
pháp Campuchia, đồng thời báo cáo ý kiến của Hun Sen cho biết là Bộ Chính trị
Campuchia quyết định không đi vào giải pháp trong năm 1991.
Bộ Chính trị quyết
định cần thăm dò khả năng họp Bộ Chính trị 3 nước để hướng Campuchia đi vào
giải pháp, họp có tính chất trao đổi, gợi ý chứ không quyết định, ta không thể
ép bạn, đồng thời phải tỏ được thiện chí, tránh mọi việc làm ta bị cô lập.
Nhân dịp này, tôi đã ngỏ
ý với anh Thạch là tôi muốn rút khỏi Trung ương khoá tới. Anh Thạch tỏ ý không
tán thành. Đến tháng 2/91, khi có cuộc bầu đại biểu ở các tỉnh để đi dự Đại hội
VII, tôi đã gửi thư cho anh Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, xin
rút khỏi danh sách dự Đại hội VII. Lúc này tinh thần tôi đã có phần mệt mỏi vì
những sự việc trong thời gian qua. Nhưng yêu cầu của tôi không được đáp ứng.
Tôi nhận được giấy đi dự Đại hội tỉnh Đảng bộ Sơn la và được bầu vào Đoàn đại
biểu tỉnh Sơn la đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.Tháng 6/91, tôi có
giấy đi dự Đại hội Đảng với tư cách đại biểu tỉnh Sơn La rồi tiếp tục tham gia
Trung ương khoá VII.
Tình hình bất đồng ý
kiến trong Bộ Chính tri càng đến gần Đại hội càng bộc lộ gay gắt. Ngày 13/4/91,
trong cuộc họp Bộ Chinh trị bàn về tình hình thế giới và đường lối đối ngoại để
chuẩn bị báo cáo chính trị tại Đại hội, sau khi anh Thạch bản báo cáo về “Tình
hình thế giới và chiến lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”, Lê Đức Anh giới
thiệu đại tá Lân, cán bộ Cục II Bộ Quốc phòng, trình bày về tình hình thế giới
và mưu đồ đế quốc”. Nghe xong, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chủ quan
tôi nghĩ giữa bản trình bày sáng nay (của Bộ Ngoại giao) và bản trình bày tình
hình quân sự chiều nay của Bộ Quốc phòng có nhiều chỗ khác nhau. Muốn thảo luận
chủ trương thì phải thảo luận tình hình trước, nhưng cách đánh gia tình hình
còn khác nhau.”
Cố vấn Phạm Văn Đồng:
“Nói khôi hài lúc này thật không phải lẽ. Chúng ta cần cố gắng làm việc đúng
lương tâm, nghiêm chỉnh, đúng trách nhiệm của mình. Bộ Chính trị đã giao cho 3
đồng chí phụ trách 3 ngành làm nhưng lại chưa làm”.
Lê Đức Anh: “Bộ Chính
trị nên nghe tình hình nhiều mặt, ngay trong nước chúng ta cũng đánh giá khác
nhau. Căn cứ vào đánh giá chung, mỗi ngành có đề án riêng, không làm chung
được.”
Nguyễn Cơ Thạch đồng ý 3
ngành thảo luận để đi tới nhất trí về tình hình, còn công tác thì mỗi ngành
làm.
Trên tinh thần đó, ngày
2/591, đã có cuộc họp giữa Ngoại giao, An ninh và Quốc phòng để thống nhất nhận
định tình hình thế giới. Dự họp về phía Bộ Quốc phòng có: Lê Đức Anh, Trần Văn
Quang, Đại tá Lân, Bộ Nội vụ có: Mai Chí Thọ; Bộ Ngoại giao có Nguyễn Cơ Thạch
và 4 thứ trưởng.
Còn 3 phó ban Đối ngoại: Nguyễn Thị Bình, Trịnh Ngọc Thái,
Nguyễn Quang Tạo. Thu hoạch của cuộc họp khá nghèo nàn, không đem lại được sự
nhất trí trong nhận định tình hình, chỉ nhất trí được mấy điểm lý luận chung
chung.
Chỉ còn một tháng đến
ngày họp Đại hội VII, Chính trị B họp liền gần 3 ngày (15,16 và 17/5/91) để
thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình thế giới và việc thực hiện đường
lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới”.
Bộ Chính trị có mặt đông đủ.
Theo dõi cuộc họp ở ghế dự thính. Số dự thính lúc đầu có 10 người, từ chiều
16/5 khi đi vào kiểm điểm việc thực hiện các Nghị quyết về đối ngoại của Đại
hội VI thì dự thính thu hẹp lại chỉ còn có Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Đinh Nho
Liêm và tôi. Từ đầu đến cuối, tôi đã nhận rõ sự đấu tranh giữa hai quan điểm về
mặt quốc tế, nhất là khi đi vào phần kiểm điểm thực hiện đường lối đối ngoại,
nói đến vấn đề Campuchia và quan hệ với Trung Quốc.
Bản dự thảo báo cáo của
Bộ Ngoại giao có nêu “đã có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của
Bộ Chính trị”, “thái độ đối với Trung Quốc có sự thay đổi qua 2 giai đoạn
(trước và sau năm 1989) trái với Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (20/5/88)”,
“giữa ta và bạn Campuchia đã bộc lộ sự khác nhau khá rõ rệt”, về đối ngoại, ta
“lúng túng, thiếu bình tĩnh” trước cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và Liên
Xô…; đã bỏ lỡ cơ hội cải thiện với ASEAN (khi Thái Lan mời Thủ tướng Đỗ Mười
sang thăm, nhưng anh Mười nói phải đi Liên Xô, đi Ấn Độ rồi mới đi Thái), đã
làm nảy sinh tranh cãi khá căng, đặc biệt khi bàn đến đúng sai trong chuyện gặp
cấp cao Trung Quốc ở Thành Đô tháng 9.90 và vấn đề chống diệt chủng và “giải
pháp Đỏ”.
Anh Võ Chí Công: “Về
Trung Quốc rất phức tạp… Bộ Chính trị đã đánh giá Trung Quốc có hai mặt xã hội
chủ nghĩa và bá quyền. Về xã hội chủ nghĩa cũng cần thấy là trong “nháy nháy”…
Khó khăn là chưa bình thường hoá quan hệ… Họ đưa ra 5 trở ngại, có cái hàng
trăm năm không giải quyết nổi. Ví dụ như chuyện “Liên bang Đông Dương”, họ biết
ta không có ý đồ đó song cứ nêu lên cốt để chia rẽ và giành lấy Lào và
Campuchia, gạt ta ra… Chuyện “giải pháp Đỏ” là không được, vì như vậy thì có
nghĩa là Trung Quốc sẽ đi với ta chống Mỹ trong lúc chủ trương của họ là tranh
thủ khoa học – kỹ thuật của phương Tây để hiện đại hoá, còn gì là Trung Quốc
nữa?
Tới cuối cuộc họp,
Nguyễn Đức Tâm còn nói:
“Chưa làm dự thảo Nghị
quyết ngay được vì qua thảo luận thấy ý kiến Bộ Chính trị còn khác nhau về đánh
giá đúng thành tích, đúng bạn thù, đối sách. Đại hội đến nơi, sau Đại hội không
còn Bộ Chính trị này nữa, tuy một số đồng chí còn ở lại… Mặc dù vậy Nguyễn
Thanh Bình chủ trì cuộc họp vẫn kết luận làm dự thảo Nghị quyết về đối ngoại.”
'Lịch sử chưa
sang trang'
Chương 20 là chương kêt thúc hồi ký, dưới tiêu
đề “Kết thúc một chặng đường nhưng lịch sử chưa sang trang”, ông Trần Quang Cơ
viết:
“Sau 12 năm ròng rã, đối
với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như đã kết thúc và đã trở thành một hồ sơ
của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại giao Việt Nam. Nhưng những bài học của 12
năm ấy vẫn còn có nhiều tính chất thời sự, nhất là bài học về chính sách và
thái độ cư xử với các nước lớn.
Tiếp sau việc vấn đề
Campuchia được giải quyết là việc thực hiện bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc. Theo thoả thuận giữa hai bên, ngày 5/11/91, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ
tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc đi thăm chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa, đánh dấu sự bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.“Quan hệ Việt – Trung
tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau… Quan hệ
Việt – Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại quan hệ như những
năm 50-60…”
Tuy nhiên sau khi bình
thường hoá quan hệ, lại dồn dập diễn ra những sự kiện xấu trên nhiều mặt quan
hệ giữa hai nước, tập trung gay gắt nhất là các vấn đề liên quan đến lãnh thổ
trên bộ vùng biên giới Hà Giang tháng 2, 3, 4/92; vụ nối lại đường xe lửa Liên
vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn tháng 12/91 rồi 4.5.92; Lục Lầm, Quảng Ninh tháng
5.92) và tranh chấp biển đảo mà đỉnh cao là vụ Trung Quốc công khai hoá việc ký
kết họp đồng thăm dò khai thác dầu khí với Công ty Năng lượng Mỹ Crestone tại
một vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt Nam (bãi Tư Chính).
Vì sao Trung Quốc tăng
cường lấn ép ta vào thời điểm này? Vì Trung Quốc cho rằng tình hình đó đang
thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện yêu cầu tăng thế và lực (xây dựng
hải quân nhanh, nổ thử bom 1000 kilôton, thi hành chiến lược “biên giới mềm”)
nhằm tạo cho mình một vị thế đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong
đó có ý đồ gấp rút biến biển Nam Trung Hoa – mà ta gọi là Biển Đông – thành
vùng biển độc chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á.
1. Trật tự thế giới cũ
không còn, trật tự thế giới mới chưa hình thành. Các đối thủ chính của Trung
Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương đều đang gặp khó khăn, Liên Xô vừa tan rã. Liên
bang Nga trước mắt chưa phải là thách thức đáng kể, Mỹ đang giảm bớt sự có mặt
về quân sự ở châu Á – Thái Bình Dương, tránh can thiệp nếu lợi ích của Mỹ và
đồng minh không bị đụng đến.
2. Đông Nam Á mới bắt đầu quá trình nối lại các quan hệ giao lưu giữa hai nhóm nước đối đầu cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá Đông Nam Á, bất lợi đối với ý đồ bá quyền của Trung Quốc, đang còn có những trở ngại (nghi ngờ nhau do khác ý thức hệ, va chạm lợi ích, ý đồ của Thái Lan đối với Lào, Campuchia) đòi hỏi thời gian khắc phục Trung Quốc muốn tranh thủ thời gian này để cản phá xu thế hợp tác khu vực giữa Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam và ASEAN tạo ra một tập hợp lực lượng thân Trung Quốc ở Đông Nam Á (quân phiệt Thái, quân phiệt Myanmar, Khmer đỏ ở Campuchia và Lào nếu có thể) để khuất phục Việt Nam.
3. Bản thân Việt Nam còn
đang lúng túng về những vấn đề chiến lược (vấn đề đồng minh, vấn đề tập hợp lực
lượng, vấn đề bạn thù) trong tình hình mới sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ với
Mỹ chưa bình thường hoá, Trung Quốc muốn đi vào bình thường hoá quan hệ với
Việt Nam trên thế mạnh.
Vì vậy Trung Quốc nhẩn
nha trong các bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, vừa tạo bề mặt thân
mật gắn bó Trung – Việt, vừa siết chặt bên trong, giành lợi thế cho mình trên
mọi lĩnh vực quan hệ.
Cả hai mặt đều nhằm đạt
mục tiêu khẳng định Việt Nam – Đông Dương là thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung
Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam Á và thế giới bên ngoài.
Nội dung cuốn hồi ký (2005) thể hiện quan điểm
riêng của nhà ngoại giao Trần Quang Cơ đã được công bố lần đầu năm 2008 trên
nhiều trang mạng ở nước ngoài. BBC Tiếng
Việt chưa có điều kiện phỏng vấn chính tác giả về những nội dung này.
Xem thêm về Cuộc
chiến Campuchia.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks