Đại Học chăn Trâu




Monday 13 October 2014

NHÂN TRỊ VÀ PHÁP TRỊ


Nguyễn Hoài Vân - NHÂN TRỊ VÀ PHÁP TRỊ

www.ducme.tv Phóng sự tài liệu Tổng thống Ngô Đình Diệm - Tập 1

http://www.youtube.com/watch?v=pD1Elwnpr4A&list=PL72356A39F0532411

Chủ Nhật, ngày 12 tháng 10 năm 2014

Chúng tôi nhận thấy nhu cầu suy nghĩ về hai khuynh hướng tổng quát ảnh hưởng trên mọi thể chế chính trị từ xưa tới nay : đó là các khuynh hướng « Nhân » và  « Pháp » thường được đề cập đến trong tư tưởng chính trị của người Đông Á.
Dẫn Nhập :
- Trước hết, chúng tôi xin trình bày văn tắt các nguyên tắc căn bản của Nhân trị và Pháp trị theo cách hiểu của người xưa.
- sau đó, sẽ xin bước sang sự phân định các yếu tố có tính cách tương đối « Nhân » và tương đối « Pháp » trong các trào lưu tư tưởng hiện đại.

- Rồi, để cho vấn đề được thêm rõ nét, chúng tôi sẽ phân tích hai mô hình tổ chức xã hội có tính cách tiêu biểu, là Tư Bản Chủ Nghĩa và Xã Hội Chủ Nghĩa dưới các cách nhìn « Nhân » và « Pháp ».
- Sau nữa, chúng ta mới rút tỉa vài ưu và khuyết điểm chính yếu của Nhân cũng như Pháp trị.
- Trước khi kết luận, với ba vấn đề căn bản cần được đặt ra khi suy nghĩ về Nhân và Pháp trị.
- Vào năm 2014 có thêm một số « phụ chú và tạp ghi », nhân một buổi nói chuyện ở Hà Nội. Đoạn « viết thêm » để tránh những lẫn lộn giữa khuynh hướng « Pháp trị » của Đông Á, với quan niệm « dân chủ Pháp trị » của người Tây Phương, từ phiên bản 1991, được đưa vào các « phụ chú và tạp ghi » này. 

Khuynh hướng Nhân trị 
Phát nguồn từ Đạo Nhân, tức từ một tổng hợp bổn phận để con người có thể sống đúng với địa vị của mình đối với mọi người trong xã hội và đối với vạn vật (« Nhân dã giả, nhân dã » - Mạnh Tử). Tập hợp bổn phận này được xây dựng trên quan niệm mọi người đều cùng một bản thể với nhau và cùng bản thể với vũ trụ vạn vật, ví như anh em một nhà, nên có bổn phận phải nâng đỡ nhau để cùng triển nở tốt đẹp (Tử Hạ: « tứ hải chi nội giai huynh đệ »- Trình Minh Đạo: « Vạn vật dữ ngã nhất thể dã »). Bản thể ấy cũng là bản thể của Trời, khiến con người cũng như thiên nhiên đều có phần linh thiêng tôn quý.
 Áp dụng vào việc điều hành xã hội, Đạo Nhân cho ra những quan niệm căn bản của lý thuyết Nhân trị:
Quan niệm con người:
Con người được quan niệm một cách toàn diện, với phần vật chất, phần tinh thần và phần linh thiêng như vừa nói. Chính vì có phần linh thiêng còn gọi là Thiên Tính này mà mọi người đều phải được kính trọng.
Quan niệm giáo dục
trong thuyết Nhân trị là tìm lại và dưỡng nuôi cái Tính Trời tiềm tàng nơi mỗi cá nhân làm cho Tính ấy không bị tư dục che lấp, để được thể hiện mạnh mẽ trong cuộc sống. Giáo dục ở đây chủ trương hướng nội và tin tưởng vào Tính thiện trong mỗi con người.    
Quan niệm lịch sử:
Thuyết Nhân trị cho chân lý, hay « Đạo », hiển lộ ở quá khứ, rồi dần dần lu mờ đi với thời gian. Vì thế, cần lấy người xưa làm gương mẫu và đi tìm chân lý trong truyên thống. Đó là quan niêm lịch sử tiến hóa theo chu kỳ.
Quan niệm xã hội
Xã hội được coi như một đại gia đình như ý nghĩa câu « dân ngô đồng bào » của Trương Tái. Xã hội cũng có thể được ví như một cơ thể lớn.
Quan niệm chính quyền
Trong thuyết Nhân trị nhà cầm quyền không khác gì Cha, Mẹ, người dân, có bổn phận phải « thương dân như con đỏ ». Quan niệm chính quyền này trọng bổn phận hơn là quyền hành.
Quan niệm pháp luật:
Pháp luật ở đây bị coi như chỉ là sự bổ túc cho một tập hợp quy ước gọi là Lễ. Lễ là một thứ « luật » tự nhiên mà mọi người đều chấp nhận trong thâm tâm mình. Lễ được hình thành từ những yếu tố bẩm sinh, tức phần nào từ cái Tính Thiện nơi mỗi người, được cụ thể hóa bởi một quá trình giáo dục, đào luyện. Khi Lễ không còn đủ để điều hành việc nhân sinh, người ta cực chẳng đã mới phải dùng đến pháp luật. 
Khuynh hướng Pháp trị
Phát nguồn từ trường phái Lão Trang và học thuyết của Tuân Tử. Học phái Lão Trang chú trọng ở sự tuân theo định luật tự nhiên của vũ trụ, không làm gì cưỡng lại định luật ấy mà dẹp bỏ mọi tư dục để cho định luật ấy tự nhiên « làm » mọi việc qua mình. Đó là lý thuyết « Vô vi nhi vô bất vi »  (không làm nhưng không gì không làm).
Tuân Tử chủ trương không thể chờ đợi giác ngộ định luật của Trời Đất, mà phải đặt ngay ra những quy luật làm tiêu chuẩn giải quyết việc nhân sinh xã hội. Ông cho Đạo không phải là Đạo Trời, mà là Đạo người. Ông cũng đề ra quan niệm con người mang tính ác, cần có những tiêu chuẩn từ bên ngoài để theo đó sửa đổi, điều tiết.
Từ khái niệm « định luật của vũ trụ » nơi Lão Trang đến sự phân biệt Đạo trời, Đạo người, của Tuân Tử, người ta đi tới khái niệm « Pháp », tức một hệ thống quy luật điều khiển toàn bộ nhân sinh hành vi có tính cách tuyệt đối, không được bàn cãi (Pháp bất nghị). Trên nền tảng ấy, lý thuyết Pháp trị được hình thành với những yếu tố cơ bản sau :
Quan niệm chính quyền:
Pháp gia chủ trương nhà cầm quyền không nên làm gì cả, mà chỉ dựa vào « Pháp » để thưởng phạt người dưới. Vì ai cũng ham được thưởng, sợ bị phạt nên sẽ đều tự động làm đúng « Pháp ». Đó là thái độ « Vô vi nhi vô bất nhi » của Pháp gia, ảnh hưởng bởi Lão học. Quan niệm này trọng quyền hành hơn bổn phận. Việc cai trị hoàn toàn dựa trên « Pháp » nên có căn bản là Vô Tư, Vô Tình, khác với kuynh hướng Nhân trị coi việc công như việc tư, coi người dưng như thuộc gia đình mình, trị nước như cha anh lo cho con em trong nhà vậy. Pháp gia có thể từ bỏ chính gia đình mình, trong khi người Nhân coi mọi người như người nhà, để cho dù thưởng hay phạt cũng không quên cái thân tình ấy.
Quan niệm xã hội:
Xã hội ở đây là một cái máy lớn, hành động của mỗi người đều phải phù hợp một cách chính xác với danh phận của mình như đã được quy định bởi « Pháp ». Làm sai, làm thiếu, hay làm quá lố, làm dư ra, đều bị trừng phạt. Công nhỏ quá hay công lớn quá đều mang tội (Hàn Phi Tử, Thiên 7). Thật vậy, một cơ phận trong bộ máy không thể chạy nhanh hay chậm hơn tốc độ đã được quy định.
Quan niệm lịch sử
của Pháp gia là quan niệm tân tiến, tức tin vào sự tiến bộ, vào sự giải quyết các vấn đề nhân sinh trong tương lai, nhờ vào việc đặt ra và thi hành « Pháp ». Khác với khuynh hướng Nhân trị (lịch sử đi theo chu kỳ), lịch sử ở đây tiến theo đường thẳng. Pháp Gia Hàn Phi cũng khẳng định điều kiện kinh tế quy định bước đi của lịch sử, trong khi Pháp Gia Thương Ưởng đề ra một tiến trình của lịch sử dựa trên một loại biện chứng pháp sơ khai, với từng giai đoạn mang mầm mống của sự tự hủy diệt, để hình thành giai đoạn sau.
Quan niệm giáo dục
 ở đây thiên về hướng ngoại , dựa trên việc rập khuôn theo một tiêu chuẩn bên ngoài. Pháp Gia nghĩ con người mang Tính Ác, cần phải biến hóa cái tính ấy đi cho phù hợp với « Pháp ». Từ đó, họ coi con người như gỗ đá, có thể dư thì cắt bớt, thiếu thì chắp thêm (Hàn Phi – Hiển Học) họ cũng quan niệm « Chính giáo hợp nhất » (Lý Tư) đặt giáo dục dưới sự kiểm soát của nhà chính trị (dĩ lại vi sư), và triệt để bài bác văn học, coi đó như nguồn gốc của sự chống lại « Pháp ».

Quan niệm con người:
Pháp gia coi con người như gỗ đá có thể đẽo gọt, hay như cơ phận của một bộ máy, phải chạy đúng như đã được quy định. Với quan niệm ấy, họ có thể tiêu diệt một phần xã hội theo chủ trương « lấy số nhiều bỏ số ít » (dụng chúng nhi xả quả - Hàn Phi), khác với người Nhân, tôn trọng mỗi người như một biểu hiện của Thượng Đế.

« Nhân » và « Pháp » trong trào lưu tư tưởng hiện đại :
Ngày nay người ta có thể coi như thiên về « Nhân » những tư tưởng quan niệm con người một cách toàn diện và từ đó tôn trọng con người với tính cách « con người nói chung », đề cao sự ôn hòa rộng rãi, chấp nhận những khác biệt, hướng về lý tưởng tự do, đặt nặng quyền lợi cá nhân. Trên trường chính trị, đó là những thể chế dân chủ, đặc biệt là dân chủ đa nguyên, là cách cầm quyền khách quan thực tế, là lý tưởng Nhân Quyền, là chủ trương bảo vệ thiên nhiên.
Ngược lại các tư tưởng thiên về “Pháp” thu hẹp định nghĩa con người, thí dụ như coi con người chỉ là con người kinh tế, con người giai cấp, con người sinh lý, ý tưởng loại bỏ Thượng Đế trong đời sống con người, hay những tư tưởng gián cách con người với Thượng đế, phủ nhận tính linh thiêng tự nhiên của con người và vạn vật nơi vài tôn giáo mặc khải.

Các tư tưởng thiên về « Pháp » thường quá khích, giáo điều chủ nghĩa, đề cao « Đồng » hơn là « Hòa », trọng bình đẳng hơn tự do, bảo vệ quyền lợi cộng đồng (cộng đồng đân tộc, Quốc gia, giai cấp, tôn giáo...) hơn quyền lợi cá nhân. Trên trường chính trị, đó là những thể chế độc tài, là cách cầm quyền chủ quan duy ý chí, là kinh tế chỉ huy, là những mô hình phát triển tàn phá thiên nhiên, phung phí tài nguyên thiên nhiên. Nói rộng hơn, sự hệ thống hóa việc nhân sinh hành vi, tức mọi chủ thuyết, ý thức hệ ... đều dễ thiên về « Pháp ». Thật vậy nếu chấp nhận rằng con người có những phần vượt ngoài mọi sự lý luận thì người ta buộc phải suy ra cái tác dụng căn bản của các hệ thống lý luận là thu hẹp định nghĩa con người.

Hai mô hình tổ chức xã hội tiêu biểu dưới cái nhìn “ Nhân” và “Pháp” :

 Tư Bản Chủ Nghĩa :
Có thể định nghĩa như một mô hình tổ chức xã hội trong đó phương tiện sản xuất và phương tiện trao đổi nằm trong tay tư nhân. Tư nhân đương nhiên là có khuynh hướng đặt Tư Lợi lên trên hết. Vì thế, một trong những động cơ chính yếu của xã hội tư bản là Hiếu Lợi.
Để được lợi nhà tư bản luôn cố gắng đẩy mạnh Sản Xuất và Tiêu Thụ.
Vì cần có người Tiêu Thụ nên Xã hội tư bản thường ôn hòa rộng rãi, tôn trọng cá nhân và khuyến khích con người phát triển toàn diện. Thật vậy, nếu hẹp hòi, quá khích, thì sẽ phải loại bỏ một phần xã hội, giảm bớt số người tiêu thụ. Sự tôn trọng quyền lợi cá nhân cũng là hậu quả của tính hiếu lợi. Lý do vì mỗi cá nhân là một người tiêu thụ, cần làm cho cá nhân ấy có một mức sống nào đó, đủ để  hăng hái tiêu thụ mỗi ngày một thêm lên. Mặt khác, tính hiếu lợi cũng khiến nhà tư bản không ngần ngại cổ động sự phát triển con người một cách toàn diện, vì điều này giúp gia tăng nhu cầu tiêu thụ. Mỗi bước phát triển của các khía cạnh vật chất, tâm trí, tâm linh, tín ngưỡng ... của con người đều tạo thêm những nhu cầu mới, mở ra những thị trường mới để nhà tư bản có thể bán những sản phẩm liên hệ, từ cái lò vi ba tới các thần thánh, guru … đủ loại.
Về chính trị, xã hội tư bản thường thiên về thể chế dân chủ đa nguyên, tuy điều này còn tùy thuộc một số điều kiện khác. Lý do vì phương tiện sản xuất và trao đổi là thực chất của quyền hành trong xã hội. Quyền hành ấy vì nằm trong tay tư nhân nên dễ bị phân tán, đưa đến nhiều « đầu mối nắm quyền » và nhiều « đầu mối phản quyền » tương ứng, tất cả đều ảnh hưởng một cách tương đối trực tiếp vào đời sống chính trị. Tình trạng này dễ đưa đến thể chế đa nguyên.
Vì ôn hòa rộng rãi, trọng quyền lợi cá nhân, đề cao sự phát triển con người toàn diện và khuynh hướng Dân Chủ Đa Nguyên, nên xã hội tư bản có nhưng nét thiên về Nhân Trị.
Thật ra, người ta đã nghĩ nhu cầu đẩy mạnh Sản Xuất có thể đưa dến những phương pháp quản trị nhân công khắt khe, với sự bóc lột ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, trong thực tế, điều này đã không xảy ra. Nhiều xã hội tư bản đã đạt được phần nào đến sự quân bình giữa quyền lợi của người làm công, cũng phải được coi như người tiêu thụ, và quyền lợi của chủ nhân, tùy thuộc vào sự tiêu thụ này.
Điều cần nhận rõ là sự quân bình ấy chỉ có được ở các nước tư bản tiên tiến. Tại các nước kém phát triển, người dân vì quá nghèo nên gần như chỉ đơn thuần là « con người sản xuất » chứ chưa được coi như « con người tiêu thụ » một cách đúng mức. Thế quân bình như vừa nói trở nên lệch lạc, sự bóc lột có phần trội hơn việc đem lại cho người dân một mức sống vừa đủ để họ có thể tham dự vào xã hội tư bản với tính cách « người tiêu thụ ».
Nhiều yếu tố khác trong xã hội tư bản cũng có khuynh hướng phản lại lý tưởng Nhân trị.

Thí dụ: nhu cầu thúc đẩy tiêu thụ thường đưa đến đánh giá con người theo mức độ tiêu thụ của mình: anh « hơn » tôi, vì anh có xe tốt hơn, nhà lớn hơn ... Điều này đương nhiên, là thu hẹp định nghĩa con người, giam hãm con người trong khuôn khổ những quy luật và hệ thống giá trị của sự tiêu thụ.
Thêm vào đó, nhu cầu sản xuất hàng loạt để giảm giá thành của hàng hóa cũng khiến nhà tư bản tận dụng mọi phưng tiện truyền thông, quảng cáo ... để làm cho mọi người phải lọt vào những khuôn mẫu tiêu thụ, quanh một số mặt hàng được coi như « biểu tượng của đời sống văn minh ».
Ngoài ra xã hội tư bản dễ khuyến khích sự phát triển lệch lạc, ích kỷ, với cách nhìn hiếu lợi, ngắn hạn, khó giải quyết được những vấn đề căn bản trường kỳ của nhân loại. Điều này đưa đến sự chênh lệch giàu nghèo càng ngày càng gia tăng và sự tàn phá thiên nhiên, phung phí tài nguyên thiên nhiên một cách vô cùng tệ hại. Đó là những sắc thái Phi Nhân của xã hội tư bản.
Xã Hội Chủ Nghĩa
được bàn đến ở đây là mô hình tổ chức xã hội thoát thai từ Chủ Thuyết Marx. Chúng ta có thể định nghĩa Chủ Thuyết Marx như một quan niệm lịch sử dựa trên thuyết Duy vật và biện chứng pháp.

Biện chứng duy vật cho rằng con người trong căn bản tùy thuộc vào các điều kiện vật chất. Vì thế, đa số các học giả thuộc học phái Marx đã gặp nhiều trở ngại trong việc thừa nhận ý niệm « con người nói chung ». Thật vậy, điều kiện vật chất luôn thay đổi, khiến con người, được tin là bị quy định bởi vật chất, cũng buộc phải thay đổi theo, và, như thế, không thể có được một thực thể gọi là « con người nói chung », trường tồn, biệt lập với các đổi thay ấy. Các học giả này coi ý niệm « con người nói chung » là một thần thoại không có thật.

Mặt khác, sử quan duy vật cho lịch sử là « lịch sử đấu tranh giai cấp » (Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản) nên khi được đặt trong dòng lịch sử, những điều kiện chính yếu quy định bản chất con người buộc phải là những điều kiện đấu tranh và những điều kiện giai cấp (« Bản chất con người là sự tổng hợp của những tương quan xã hội » - Marx - Luận cương 6 về Feuerbach.). Như vậy, theo các học giả này, con người là con người giai cấp (và con người đấu tranh).

Cần nhắc lại là sử quan cũng như biện chứng duy vật đều đã được nhận thấy nơi Pháp Gia thời Chu Tần, dù rằng lúc ấy mới ở trạng thái sơ khai.

Hậu quả của ý tưởng không có “con người nói chung” mà chỉ có « con người giai cấp », là : giữa con người ở giai cấp này với con người ở giai cấp khác không có gì chung cả, không cùng nhau chia sẻ những thành tố cấu tạo căn bản. Từ đó, người ta có thể coi người của giai cấp khác như thuộc về một loài vật khác, để nếu cần thì thản nhiên giết bỏ, như trừ sâu, trừ kiến. Đó chính là căn bản của « Thuyết Phi Nhân » đã ngự trị trên học phái Marx và cái gọi là « thế giới Cộng Sản » suốt nhiều thập niên, cho đến khi bị một số nhà tư tưởng thuộc chính học phái này lên án hầu tìm cách xây dựng một « xã hội chủ nghĩa nhân bản ».
Ngoài khả năng giết người như sâu kiến ấy, các mô hình Xã Hội Chủ Nghĩa được áp dụng trong « thế giới Cộng Sản » còn mang nhiều đặc tính Pháp Trị khác, như: trọng bình đẳng hơn tự do, tập thể hơn cá nhân, đấu tranh hơn hòa giải, kinh tế chỉ huy hơn kinh tế thị trường, thêm vào với lề lối cầm quyền độc tài, duy ý chí, giáo điều chủ nghĩa.
Tuy nhiên, lý tưởng của học thuyết Marx là đi đến một « thiên đường » gọi là « Xã Hội Cộng Sản Văn Minh » trong đó không còn giai cấp, không còn đấu tranh, không có chính phủ và cũng không cần đến quyền tư hữu. Xã hội lý tưởng này có một mức sản xuất cực cao, dư dùng cho mọi người dân, và người dân cũng đạt đến một trình độ tự giác cực cao, khiến không còn vấn đề chiếm hữu, không còn phải dùng đường lối đấu tranh để giải quyết các mâu thuẫn. Sự hiện diện của chính phủ cũng không còn cần thiết. Xã hội lý tưởng này phù hợp với khuynh hướng Nhân Trị.
Phê bình nhân trị và pháp trị:
Nhân Trị là một lý tưởng cao đẹp, phù hợp với ước vọng của con người, dễ được con người chấp nhận và trong sự áp dụng, dễ ứng phó với thực tại, dễ sửa sai hơn khuynh hướng Pháp Trị.
Tuy nhiên, Nhân Trị không phải lúc nào cũng áp dụng được, mà tùy thuộc vào ba điều kiện chính yếu, đó là:
-     mức sống vật chất của người dân
-          trình độ ý thức của họ
-          và tình trạng an ninh của quốc gia, bên ngoài cũng như bên trong.
Vì thế, Nho Gia đã đặt ra ba mục tiêu cốt yếu cho việc chính trị, là: bảo vệ dân, lo cho dân no đủ và giáo dục dân. Có lẽ cổ nhân đã muốn truyền lại một bài học thực tế, rằng: Nhân trị không phải chỉ là « làm » Đạo Nhân, mà cũng là tạo điều kiện để Đạo Nhân có thể « làm » được . Nếu không thì sẽ lại rơi trở vào lề lối chủ quan, duy ý chí, như trong khuynh hướng Pháp Trị.

Pháp Trị vì duy ý chí nên ít lệ thuộc hoàn cảnh, dễ thống nhất mục tiêu và phương tiện, thuận lợi cho việc đấu tranh ngắn hạn. Ở thời xưa, nó làm cho quốc gia hùng cường mau lẹ (trường hợp nước Tần). Thời nay, người ta thường dùng nó một cách hiệu quả trong việc cướp chính quyền và giữ chính quyền một cách chắc chắn. Ngoài ra, việc sử dụng Pháp Trị để xây dựng những đế quốc chuyên chế dường như đang trên đà giảm bớt, tuy người ta vẫn không từ bỏ một hình thức đế quốc mới , có khi được gọi là « đế quốc kinh tế ».

Cầm quyền theo khuynh hướng Pháp Trị có thể mang đến nhiều nguy hại, vì ba lý do:
1)      Pháp Trị rất dễ sai lầm, vì quan niệm con người và sự vật một cách chủ quan, giáo điều, đưa đến tổ chức xã hội xa rời thực tại, khó đáp ứng được với những đòi hỏi thực tế của người dân nên dần dần cách biệt với dân, đi đến chỗ bị dân oán ghét .
2)      Khi đã xa rời dân, đi ngược lại với nguyện vọng của họ, thì muốn cho họ tiếp tục phục tùng mình, nhà cầm quyền cần phải hà khắc, đàn áp, trừng phạt gắt gao, thậm trí giết bỏ thẳng tay. Điều này đưa đến không khí căm hờn nặng nề trong xã hội , ít thuận lợi cho sự hợp tác, và thường kết thúc trong những cuộc nổi dậy đẫm máu . Pháp Trị dễ thống nhất mục tiêu và phương tiện của quốc gia trong ngắn hạn, nhưng với thời gian nó lại hay đưa đến bất hợp tác, đối kháng, thậm chí đụng độ đẫm máu, tiêu hao lực lượng.
3)   Khi đã sai lầm, một xã hội Pháp Trị rất khó sửa sai, do nguyên tắc « Pháp bất nghị » đã nói ở trên. Vì thế, khi cần thay đổi một chính sách, người ta thường buộc phải lật đổ cả một chế độ, vừa tốn thì giờ, vừa tốn hao tài nguyên xương máu.
Tóm lại,
Tuy lý tưởng Nhân trị phản ảnh những ước vọng thâm sâu nhất của con người trong đời sống xã hội, người ta vẫn buộc phải công nhận rằng không phải lúc nào điều kiện thực tế cũng cho phép xây dựng xã hội lý tưởng này. Vì thế, khi suy nghĩ về Nhân và Pháp, người ta cần đặt ra ba vấn đề:
Thứ nhất, trong một thời điểm nhất định, điều kiện thực tế cho phép thi hành một chính trị với bao nhiêu phần « Nhân » bao nhiêu phần « Pháp » ?
Thứ nhì : trong tiến trình quản lý quốc gía, làm sao để một mặt sáng suốt nhận thức những giai đoạn cần phải thi hành Pháp Trị, mặt khác ngăn ngừa những sự lạm dụng việc này ?
Sau hết, người ta có thể tự hỏi : thế nào là dung hòa Nhân và Pháp ?
Có lẽ câu trả lời là : nhìn về những giá trị căn bản của con người mà lập Pháp, với một tinh thần rộng rãi , không cố chấp giáo điều, chủ thuyết, chấp nhận sửa sai, thích nghi với thực tại (Pháp hữu nghị). Nói cách khác, là lấy tinh thần Đạo Nhân mà lập Pháp.
Có thể được chăng ? Các bậc hiền giả sẽ luận bàn vậy.
Nguyễn Hoài Vân
16/7/1991
Buổi họp của đội Cải cách. Sự thật.
Đấu tố chủ nhân trước tòa án nhân dân. Nguồn: Franz Faber. Rot Leuchtet der Song Cai. 1955. Berlin, Kongress Verlag
Tranh tuyên truyền.
http://www.talawas.org/wp-content/uploads//2010/06/111.jpg
Bà cụ bần nông lên tố cáo địa chủ
http://www.talawas.org/wp-content/uploads//2010/06/13.jpg
Đảng tử hình người có ruộng.
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjq3b6xOyjYuujytwsZa-NLhLMak_max4N6ec3UsVxqrD9WPJtBbOI_KOw_80v9qxK8Ed26ZYMWLnT_9cIsMWgO2-0VEx8Km1YiOENjEIkbSg9o1NUiN9-ltBB12rgGmA1jGVQY4iuLDuk/s1600/ccrd-30399-danlambao.jpg
alt
Điạ chủ và đầy tờ thời Nguyễn Phú Trọng.
Đảng cướp đất người có ruộng.
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhWlUuB0bIM1BuxQj_sbAh4oeRr8RRCf5GIx2ppceUr3JS46qhyphenhyphenI-4eVN81TFlAk-jr2z9MQZSdpeDGTMTZ7w7bIgNh9EsSsx3HtCUuKquJiLfdY0eQv3oWVvHT6wO7dYfLO5Fwpo4xtCo/s1600/xe+ui.jpg
Nhao1Nhao2

Chương trình phát thanh ngày 12/10/2014

alt
[RadioCTM] - Trong chương trình phát thanh ngày 12/10/2014, kính mời quý thính giả theo dõi các tiết mục: Tiếng Nói Đa Nguyên – Một Thoáng Hương Xưa.       (12/10/2014) 
alt

Những hệ quả của cuộc « Cải Cách Ruộng Đất »

Tiếng Nói Đa Nguyên
12/10/2014
0
RadioCTM - Thanh Lan
alt Những hệ quả của cuộc « Cải Cách Ruộng Đất » [ 16:34 ] Hide Player | Play in Popup | Download
caicachruongdat

Cải cách ruộng đất là một sự kiện rất lớn ở miền Bắc Việt Nam sau năm 1954. Trên thực tế nó đã bắt đầu vài năm trước đó khi đang CSVN chưa giành được quyền cai trị ở miền Bắc. Cuộc cải cách nhằm lấy đất của tầng lớp địa chủ, phú nông chia cho nông dân nghèo. Rất  nhiều người đã bị giết chết trong các phiên tòa sơ xài hay còn gọi là phiên tòa đấu tố địa chủ.

Mời quý thính giả theo dõi nhận xét về sự kiện gây ra bao đau thương, tang tóc cho dân tộc Việt Nam của Giáo sư Lưu Trung Khảo với phóng viên Thanh Lan.

 Cải cách ruộng đất là một sự kiện rất lớn ở miền Bắc Việt Nam sau năm 1954. Trên thực tế nó đã bắt đầu vài năm trước đó khi đang CSVN chưa giành được quyền cai trị ở miền Bắc. Cuộc cải cách nhằm lấy đất của tầng lớp địa chủ, phú nông chia cho nông dân nghèo. Rất  nhiều người ... (12/10/2014) 
Những hệ quả của cuộc « Cải Cách Ruộng Đất » - Radio Chân Trời Mới



image





Nhng h qu ca cuc « Ci Cách Rung Đt » - Radio Châ...
Ci cách rung đt là mt s kin rt ln min Bc Vit Nam sau năm 1954. Trên thc tế nó đã bt đu vài năm trước đó khi đang CSVN chưa giành được quyn cai tr ...
View on radiochantroimoi.com
Preview by Yahoo



Cứ lễ lạc ăn chơi, nợ nần con cháu trả

Cứ lễ lạc ăn chơi, nợ nần con cháu trả







Cứ lễ lạc ăn chơi, nợ nần con cháu trả
Song Chi. Báo chí trong nước đưa tin Hà Nội long trọng kỷ niệm 60 năm “Ngày Giải phóng Thủ đô” 10.10.1954-10.10.2014.
View on www.facebook.com
Preview by Yahoo


Song Chi.
Báo chí trong nước đưa tin Hà Nội long trọng kỷ niệm 60 năm “Ngày Giải phóng Thủ đô” 10.10.1954-10.10.2014. Một lễ kỷ niệm hoành tráng tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia với hơn 3500 quan chức đại biểu tham dự, nhiều hoạt động văn hóa xã hội, ca nhạc chào mừng, cờ hoa biểu ngữ trang trí khắp các tuyến đường…Và hoạt động bắn pháo hoa tưng bừng tại 30 điểm.
Một bài báo trên VTC News (“Nếu chim hòa bình không bay được thì dân thông cảm”) đã hé lộ kinh phí Hà Nội phải bỏ ra cho ngày lễ này là 800 tỷ đồng Việt Nam (gần 38 triệu USD). Riêng việc bắn pháo hoa khoảng 30 tỷ đồng Việt Nam (khoảng hơn 1, 4 triệu USD).
Đã có nhiều lời chỉ trích, kể cả thư kiến nghị của một số người dân yêu cầu Hà Nội hủy bỏ bắn pháo hoa tại 30 điểm vì quá lãng phí, nhưng rồi những người lãnh đạo nhà nước cộng sản nói chung và Hà Nội nói riêng vẫn tiến hành. Một số blogger bình luận: Đúng là nhà nghèo chơi hoang. Lấp lánh rực rỡ chừng mươi, mười lăm phút mà bay vèo 30 tỷ lên trời, tiền thuế mồ hôi nước mắt của người dân.
Trước đó, lãnh đạo Hà Nội đã lên tiếng cãi chính về việc hủy bỏ bắn pháo hoa. Thế đấy. Pháo hoa đã mua rồi, tiền “phần trăm” cũng đã bỏ trong túi ai đó rồi, hủy làm sao được. Ở xứ này ý kiến, nguyện vọng của người dân là cái gì, như muỗi vo ve một lúc rồi hết, chưa kể, quan chức chính khách Việt có mấy khi đọc báo “lề trái”, thế là khỏi phải nghe thấy cái gì cả.

Mà đã thấm tháp gì so với hồi kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, phóng tay đến 94 ngàn tỷ đồng Việt Nam tức khoảng 4, 7 tỷ USD thời điểm đó. Dư luận rồi các đại biểu quốc hội đã từng chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài chính và những người có trách nhiệm, nhưng cũng chẳng hề có được con số cụ thể, minh bạch, rồi khi đại lễ qua đi, mọi người cũng quên.
Đó là chưa nói, nhiều công trình được gấp rút xây dưng chào mừng nhân dịp 1000 năm đó bây giờ nhìn lại đã bị xuống cấp hư hại do làm ẩu, làm gấp ra sao.

Đã thành cái lệ ở xứ Việt ta cứ mỗi khi có dịp là phải tổ chức cho thật to, thật hoành tráng, vẽ ra đủ thứ để có cớ chi tiền ngân sách, có cớ chia nhau bỏ túi. Hết kỷ niệm mấy chục năm ngày Quốc khánh 2 tháng Chín, lại mấy chục năm ngày thống nhất đất nước 30 tháng Tư, rồi kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ, rồi trận Điện Biên Phủ trên không….

Chỉ có chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Cộng hay ngày mất Hoàng Sa, Trường Sa, cuộc chiến với Khơ Me Đỏ là không thấy kỷ niệm, trái lại còn cố quên đi như hoàn toàn không có. Mãi sau này internet, báo chí “lề trái” phát triển, nhà cầm quyền biết có dấu cũng không được, mới thi thoảng cho nhắc đến mà thôi.
Trong cái sự tổ chức ăn mừng những “chiến thắng trong quá khứ” ấy ngoài cái lý do mà ai cũng biết là để tiêu tiền, và chia chác với nhau bất kể nền kinh tế nước nhà đang kiệt quệ, đời sống nhân dân đang khốn khó, còn có những lý do thuộc về tâm lý khác, của nhà cầm quyền.

Thứ nhất, bằng vào sự “ăn mày dĩ vãng”, họ muốn sơn phết, tô vẽ lại cho bộ mặt và “tính chính danh” của đảng cộng sản. Họ muốn nhắc đi nhắc lại với người dân rằng đảng cộng sản đã có công đánh Pháp đuổi Mỹ, thống nhất đất nước, không một đảng phái nào có thể so bì hay tranh giành được cái “công lao” ấy. Mặc dù họ thừa biết rằng vào thời buổi có nhiều nguồn thông tin để kiếm tra như hiện nay thì một bộ phận người dân Việt Nam đã thừa biết sự thật về “tính chính danh” ấy của đảng, về nguyên nhân, mục đích, kể cả “những chiến thắng” của đảng cộng sản trong hai cuộc chiến tranh với Pháp, với Mỹ và với chế độ VNCH vừa qua.

Thứ hai, mỗi một lần lễ lạc, kỷ niệm là dịp để nhà cầm quyền lên dây cót tinh thần tự hào của người dân, và “tự sướng”. Tự sướng về chiến thắng đã đành, tự sướng về những “thành quả” đạt được.

Kỷ niệm 60 năm ngày giải phóng thủ đô chẳng hạn, là dịp để nhắc lại những hình ảnh của Hà Nội thời chiến tranh, thời bao cấp, thành phố cũ kỹ nghèo nàn không được xây dựng, cuộc sống người dân khốn khó tằn tiện…để so sánh với bây giờ. Cái sự so sánh bằng cách lộn sòng sự thật đó chỉ có thể có tác dụng với một số người Hà Nội, người miền Bắc. Còn với người Sài Gòn hay dân miền Nam thì cứ mỗi lần kỷ niệm ngày Thống nhất đất nước là người ta lại nhớ tới mức sống, nền kinh tế hay về nhiều mặt khác, Sài Gòn và miền Nam thời đó so với các nước láng giềng ra sao còn bây giờ thì thế nào, thành ra lại đâm phản tác dụng.

Nói là so sánh bằng cách đánh tráo sự thật bởi vì không thể cứ so sánh với chính mình trong quá khứ chiến tranh hay thời bao cấp, mà phải so sánh Việt Nam với các nước láng giềng chung quanh và thế giới trong thời điểm hiện tại, sau cùng một khoảng thời gian.

Phải nhìn lại Việt Nam bây giờ thống nhất về mặt lãnh thổ thì đã rõ, nhưng đã thống nhất được lòng người hai miền, trong và ngoài nước chưa; thống nhất nhưng có thực sự độc lập hay luôn bị khống chế, điều khiển từ xa và luôn bị đe dọa bởi Trung Cộng, còn cuộc sống của người dân đã thực sự có hạnh phúc tự do dân chủ hay chưa?

Ăn mừng hoành tráng để mà làm gì khi số tiền hàng chục, hàng trăm tỷ đồng Việt Nam ấy lẽ ra có thể tiết kiệm, làm nhiều việc có ích hơn cho dân. Khi mà người dân đa số vẫn còn phải chạy ăn từng bữa. Khi xã hội vẫn còn đầy dẫy những câu chuyện thương tâm như một em bé học sinh lớp 3 đạp xe đi học về vì đói quá mà loạng quạng ngã xuống mương chết đuối, một người mẹ vì quá quẫn bách đã thắt cổ chết để chồng con có chút tiền phúng điếu và để địa phương thương tình xét cho gia đình chị vào sổ hộ nghèo, có thể vay vốn làm ăn, vay tiền cho con đi học; một người bán vé số chỉ vì bị kẻ xấu lừa khoảng 3 triệu đồng (tức chưa đến 150 USD) mà phải tự tử…
Có những ông bố bà mẹ phải ngủ trong ống cống hay bán máu để nuôi con ăn học, có những bệnh nhân phải chết chỉ vì không có nổi tiền đóng viện phí. Những người con Việt phải bỏ nước ra đi làm thuê ở xứ người hay nhắm mắt chấp nhận những cuộc hôn nhân khập khiễng với những ông chồng Đài, Hàn, Trung xa lạ để có chút tiền giúp cha mẹ…
Ăn mừng hoành tráng để làm gì khi cái được so với 60 năm “ngày giải phóng thủ đô” chẳng là gì so với cái mất đi. Với Hà Nội, là mất đi cái hồn của thành phố, nếp sống thanh lịch, tử tế của người Hà Nội xưa cũ. Còn lại một Hà Nội bây giờ tuy to hơn gấp nhiều lần, nhà cửa đường xá xây mới nhiều, hàng hóa phong phú thừa mứa, đời sống của một thiểu số là giàu có hơn hẳn. Nhưng đạo đức xã hội, những giá trị về văn hóa, nếp sống, sự lương thiện tử tế của con người thì xuống cấp trầm trọng.
Mà có riêng gì Hà Nội, đó là tình trạng chung của cả nước sau 40 năm thống nhất!
Ăn mừng hoàng tráng để làm gì khi mang tiếng là một Thủ đô ngàn năm tuổi, nằm trong số 17 thủ đô rộng lớn nhất thế giới, mà kiến trúc quy hoạch lộn xộn, hệ thống thoát nước kém gây ngập lụt, khói bụi ô nhiễm, giao thông hỗn loạn, hệ thống giao thông công cộng chưa phát triển, nhà nhà mở cửa buôn bán xô bồ… Nói ngắn gọn, Hà Nội vẫn chưa phải là một đô thị đúng nghĩa.
Còn người Hà Nội bây giờ thì thường xuyên tạo nên hình ảnh mất thiện cảm trong mắt du khách nước ngoài cũng như người dân cả nước nhìn vào bởi những thói xấu như hay chửi tục, coi thường khách hàng với những kiểu “bún mắng cháo chửi”, không tôn trọng luật lệ giao thông, rất hay phân biệt vùng miền, phân biệt người Hà Nội gốc với người nhập cư…
Hãy nhìn sang nước Đức cũng vừa mới kỷ niệm 25 năm bức tường Berlin sụp đổ, 25 năm thống nhất, tự do, dân chủ và cường thịnh, họ mới đáng để ăn mừng thật sự.
Nhưng như những kẻ điếc, câm, mù, những người lãnh đạo Hà Nội nói riêng và nhà cầm quyền nói chung vẫn cứ tiếp tục tìm cách phá tiền, hết nghĩ ra kỷ niệm ngày lễ này lại đến dự án xây cái kia làm cái nọ, cái nào cũng hàng trăm hàng ngàn tỷ đồng Việt Nam. Cứ tiêu rồi con cháu đời sau trả, lo gì.
FB Song Chi


Chùa Liên Trì Trong Chính Sách Đàn Áp Tôn Giáo Của Công Sản Việt Nam — Lien Tri Pagoda A Victim Of The All-Out Effort To Suppress Religious Freedom In Vietnam By The Communist Party of Vietnam

Huỳnh Trọng Hiếu
September 30, 20140 Bình Luận
Chùa Liên Trì Trong Chính Sách Đàn Áp Tôn Giáo Của Công Sản Việt Nam
Thời gian gần đây, dư luận trong nước, hải ngoại và quốc tế hết sức phẫn nộ trước các cuộc đàn áp nhân quyền được thực thi bởi Hà Nội, đặc biệt là chiến dịch triệt hạ các cở sở tôn giáo không nằm dưới sự quản lý của Đảng.
Chùa Liên Trì là một trong các trọng tâm của chính sách tiêu diệt tôn giáo được chính quyền nổ lực thực hiện dưới danh nghĩa “ thực thi các biện pháp cưỡng chế hành chính”. Thủ đoạn “quy kết” trách nhiệm cho các đơn vị hành chính nhỏ nhất tại địa phương giúp chính quyền Hà Nội có đầy đủ các bằng chứng ngoại phạm trước sự quan sát của quốc tế, giảm thiểu mọi nguy cơ dẫn đến bất lợi trong các cuộc đàm phán với chính giới phương Tây.

Chúng tôi cung cấp chi tiết thông tin về chùa Liên Trì như bằng chứng vi phạm nhân quyền trắng trợn của chính phủ Việt Nam cho công luận am tường.

Chùa Liên Trì tọa lạc trên bán đảo Thủ Thiêm đối diện khu Trung tâm Thành phố, địa chỉ 153 Lương Đình Của, thuộc phường An Khánh, Quận 2, Sài Gòn. Được xây dựng vào những năm 1956 – 1957, do các Phật tử đóng góp để hiến cúng Cố Viện trưởng Viện Hóa đạo Hòa thượng Thích Thiện Hoa thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Ngôi chùa với diện tích khoảng 800m vuông do Thượng tọa Thích Không Tánh tiếp quản và sử dụng vào năm 1969. Sau năm 1975, Thầy Không Tánh nhiều lần xin phép chính quyền địa phương tu sửa ngôi chùa, phục vụ  cho việc cư trú của chư Tăng nhưng bị chính quyền bác bỏ. Vị trú trì thường thổ lộ: “Hồi mới tiếp quản, Liên Trì chỉ nhỏ như mái đình thôi, nhưng sau này, nhờ Phật tử cúng dường nên có chỉnh sửa đôi chút cho khang trang. Sau năm 1975, Thầy muốn tu bổ chánh điện, sửa lại tượng Phật cho trang nghiêm, xây thêm Tăng xá cho Tăng chúng ở nhưng bị chính quyền cản trở, nhiều lần ra quyết định phạt vi phạm hành chính vì xây dựng trái phép”.
Tình hình Phật giáo ở Miền Nam sau năm 1975 bị chính quyền triệt tiêu và lũng đoạn sâu sắc. Dưới chỉ thị của nhà cầm quyền, Ban trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố  đã ban hành Công văn chính thức không công nhận sự tồn tại hợp pháp của chùa Liên Trì, không thừa nhận tư cách tu sĩ đối với Tỳ kheo Không Tánh. Đây cũng là thảm trạng chung của các tu sĩ không chấp nhận sự can thiệp của Đảng vào sinh hoạt đạo pháp.

Xin được nói thêm, Thượng tọa Thích Không Tánh – thế danh là Phan Ngọc Ấn, là tu sĩ thuộc Giáo hội Phật giáo Thống nhất. Năm 1976, ông bị chính quyền Cộng sản Việt Nam kết án 10 năm tù giam vì viết đơn kêu gọi nhà nước Việt Nam không ép buộc tu sĩ thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Năm 1987, ông được thả sau khi mãn hạn tù. Đến năm 1992 ông bị chính quyền TP kết án 5 năm tù giam và 5 năm quản chế vì tham gia các hoạt động khôi phục Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cùng với vị Cố Tăng thống Hòa thượng Thích Huyền Quang.

Tháng 10 năm 1993, ông được trả tự do về sinh hoạt tại chùa Liên Trì. Tháng 11 năm 1994, công an TP ra lệnh bắt giam vị Tỳ kheo này khi ông tham gia cứu trợ nạn nhân lũ lụt ở Đồng bằng Sông Cửu Long cùng với ngài Viện trưởng viện Hóa đạo Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Ngày 14/8/1995 Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên án Thầy 5 năm tù giam, với tội danh: Phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước.
Sau khi mãn hạn tù, Thầy Thích Không Tánh quay về sống tại Chùa Liên Trì và tiếp tục các hoạt động đòi quyền Tự do Tôn giáo cũng như Nhân quyền cho Việt Nam.
Cuộc đời của vị chân tu hiếm có này gắng liền với sự hy sinh vì đạo pháp và dân tộc được minh chứng qua những năm tháng ngục tù. Chính quyền Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ từ bỏ thủ đoạn, âm mưu nhằm triệt hạ uy tín của Thầy. Kế hoạch sử dụng các nữ nhân viên an ninh quấy rối và vu cáo Ngài đã vấp phải sự phẫn uất của cộng đồng Phật tử và nhiều thành phần dân chúng.

Với các hoạt động tích cực để xây dựng và phát triển đạo pháp, Vị tu sĩ Phật giáo này trở thành mối nguy và là trở lực không nhỏ cho kế hoạch xóa bỏ tôn giáo nói chung và triệt tiêu Phật giáo nói riêng của đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 3/9/2014 Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Quận 2, TP HCM là ông Nguyễn Cư ký Quyết Định “phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ thiệt hại Cơ sở thờ tự Chùa Liên Trì trong khu quy hoạch xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm”.

Bản Quyết Định quy định mức bồi thường thiệt hại cho chùa Liên Trì với mức giá 5 tỷ bốn trăm triệu đồng. Điều bất thường là nội dung của văn bản không nêu ra điều khoản nào về việc hỗ trợ di dời tái định cư sau khi ngôi chùa bị giải tỏa. Với quyết định bất thường trên, Chùa Liên Trì – cơ sở tôn giáo quan trọng của Tăng Đoàn phải đối diện với nguy cơ bị xóa sổ vì không có nơi tái định cư để xây dựng.
Tưởng cũng tốt để nói thêm, khu vực bán đảo này từng là nơi sinh sống của 15 ngàn hộ dân. Tuy nhiên, việc chính quyền quận 2 cưỡng chế giải tỏa không đúng luật khiến cho 11 ngàn hộ dân phải đâm đơn khiếu kiện. Việc di dời mà không bố trí khu tái định cư hoàn toàn trái với thông lệ từ trước đến nay
Quyết Định di dời do chủ tịch UBND Quận 2 ký sẽ được giao cho các cơ quan: Chánh văn phòng UBND Quận,  Chủ tịch Hội đồng bồi thường, các sở ban ngành cấp Quận và địa phương chịu trách nhiệm giám sát thực hiện.

Ngoài ra, văn bản thu hồi đất thờ tự Chùa Liên Trì được gửi kèm với bản Phụ Lục do Hội đồng bồi thường Khu đô thị mới Thủ Thiêm soạn thảo trong đó có các điều khoản mang tính đe dọa cưỡng hành.

Tình hình hiện nay của chùa Liên Trì, trao đổi với Thầy Thích Không Tánh, chúng tôi được biết:
Thầy Không Tánh với tư cách trú trì của ngôi chùa đã gửi một bản kháng thư yêu cầu UBND quận và UBND TP rút lại Quyết Định giải tỏa chùa Liên Trì. Thầy khẳng định:

“ Chúng tôi tuyệt đối không nhận tiền bồi thường. Trong trường hợp Nhà nước Việt Nam muốn xóa sổ, hủy diệt cơ sở tôn giáo Chùa Liên Trì thì hãy gửi Quyết Định cưỡng chế theo đúng trình tự luật pháp để các tôn giáo hiệp thông, cầu nguyện
Điều Thầy lo lắng nhất hiện nay, khi chính quyền giải tỏa san lấp mặt bằng rồi, không biết Tượng Phật sẽ đặt ở đâu, các hủ linh cốt không biết bỏ đâu, hàng trăm vong linh không có chỗ nương nấu

Tính đến thời điểm này, chính quyền TP chưa có văn bản chính thức để phản hồi kháng thư của Thầy Không Tánh. Theo thông báo trong Phụ Lục của Ủy ban bồi thường, ngày 30/9 sắp tới, chính quyền sẽ tiến hành các biện pháp cưỡng chế để thu hồi đất.
Chúng tôi thực sự quan ngại trước quyết tâm xóa bỏ Chùa Liên Trì của chính quyền sở tại. Được biết, chùa Liên Trì là nơi diễn ra các cuộc họp của các tổ chức xã hội dân sự trong nước. Thượng tọa Thích Không Tánh thường tổ chức các buổi phát quà tri ân các Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa, phát quà cho các bệnh nhân ung bứu, và là nơi nương tựa của nhiều bà con dân oan.

Hiện nay, chỉ còn 3 cơ sở tôn giáo chưa bị thu hồi đó là chùa Liên Trì, Nhà thờ Thủ Thiêm, và nhà thờ Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm. Chúng tôi được biết, chính quyền địa phương đang ra sức loại bỏ các cơ sở tôn giáo này.
Quyết định thu hồi đất đối với chùa Liên Trì – Cơ sở tôn giáo thuộc Tăng Đoàn Phật giáo Thống nhất đã vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ từ các tổ chức tôn giáo, các Hội doàn dân sự cũng như Phật giáo đồ tại Quốc nội và Hải ngoại.

Trong nước, Hội đồng Liên Tôn ra Tuyên bố phản đối việc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam triệt hạ chùa Liên Trì. Các chức sắc tôn giáo của 5 tôn giáo lớn tại Việt Nam là Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hòa Hảo, Cao Đài đồng lên tiếng phản đối Quyết Định Vi Hiến của chính quyền.
Đã có nhiều nổ lực trong cuộc vận động lấy chữ ký ủng hộ chùa Liên Trì, và chiến dịch này đang có nhiều tiến triển tích cực.
Những hình ảnh hiện nay về chùa Liên Trì có thể sẽ là những hình ảnh cuối cùng mà chúng ta nhìn thấy. Ngày 30/9 tới đây, nơi đây có thể biến thành một bãi đất hoang tàn, những thứ còn sót lại chỉ là tượng Phật đổ nát, tro cốt vung vãi trong cảnh đìu hiu, các vong linh tảng mát khắp nơi không chỗ nương nhờ. Tiếng chuông chùa từ nay vắng bặt để thay vào đó là các lời xưng tụng Chủ nghĩa Duy vật khoa học. Đời sống tâm linh của cư dân ở đây sẽ mất dần nhường chỗ cho những tranh giật hỗn độn theo lối tư duy vật chất quyết định ý thức.
Tiếp theo sau Liên Trì sẽ là cơ sở tôn giáo nào nữa?
Sài Gòn  26/9/2014
Huỳnh Trọng Hiếu
 
Lien Tri Pagoda – A Victim of the All-Out Effort to Suppress Religious Freedom in Vietnam by the Communist Party of Vietnam (CPV)


 Đời Mồ Côi

Em sinh ra đã không hề biết mẹ
Hàng ngày Em theo chị để ăn xin
Ngày đầu đường đêm ghế đá công viên
Sống lay lắt nhờ đồng tiền thiên hạ.













Nhiều khi đói sữa thay bằng nước lã
Hai chị em vật vã dạ cồn cào
Dế ve Sầu nướng lót dạ đêm thâu
Mong trời sáng xin cơm thừa hàng quán.












Cha chết sớm mẹ bị người ta bán
Sang bên Tàu vào động bán dâm
Nhà cửa ruộng nương
Đảng qui hoạch chẳng bồi thường
Nghe người nói cán bộ phường chia chác














Mình sống được nhờ tấm lòng cô bác
Nín đi nào chị sẽ hát ầu ơ
Mất mẹ cha đời đói rét bơ vơ
Đừng khóc nữa em thơ xin hãy hiểu.













Chuyện xui xẻo đẩy đưa đời cô lựu
Chị bị tông xe nằm ngất bên đường
Khi mọi người đưa chị đến nhà thương
Chị đã chết từ trên đường nhập viện.

















Kẻ tông chị là đảng viên say xỉn
Sợ liên quan chúng đã biến vào đêm
Hết họ hàng giờ chỉ còn mình em
Nên ánh mắt mới buồn lên đến thế.














Anh xin lỗi mấy tháng rổi mới kể
Chỉ mong sao ánh mắt bé vơi buồn
Trẻ ăn mày không được đảng yêu thương
Nhưng còn có những trại cô nhi viện

Uyển Thi 
danlambaovn.blogspot.com


MUA ĐÀN BÀ VN : Không ưng được đổi lại

http://m.9gag.com/gag/6699050

Đây là thi đi siêu xa l tin tc, đâu phi chúng mun làm gì thì làm.

Linh Nguyên

 

 

Ngốc ơi là ngốc . Một lũ cán ngố đứng xếp hàng một để ... ngửi . Đúng là một đám hề ! 

Còn mụ "y tế" thì ... nếm . Chán ơi là chán ! Kết quả là đã 40 năm , VN vẫn còn thù lù hàng đống thực phẩm độc hại và bẩn cuả bọn Chệt cộng tống sang . Hiện nay VNcs đang đứng đầu bảng thế giới về ung thư , thì mụ "y tế " có "nếm" cho lắm , cũng bằng thừa . 

Xem kết quả , biết việc làm .

 

HY.

              

 

Cán Ngố Gộc đi thanh tra kiểm soát...

 

Bó tay Bó tay ! Hết ý, hết ý kiến.

 

Cùng nếm, ngửi, gõ với các Bộ trưởng Ngố: Kim Tiến - Khôi Nguyên - La Thăng:

Mụ Kim Tiến, Bộ trưởng Y té (giếng) Ngố đi kiểm tra thực phẩm ở chợ như vầy nè !!!!

thugian07
Chị Kim Tiến, bộ chưởng Y tế đi kiểm tra thực phẩm ở chợ

thugian08
Anh Phạm Khôi Nguyên, bộ chưởng bộ Tài Nguyên và
Môi trường và bầu đoàn đi kiểm tra chất lượng môi trường"
thugian09
 Chỉ bọn quan chức Việt Nam mới có hành động kỳ quặc và ngu xuẩn thế này!
thugian10
Ối trời ơi là ông Tiến sĩ ! Ông nghè Phạm Khôi Nguyên ơi
thugian11
 Anh Đinh La Thăng, bộ chưởng bộ Rao Thông đi kiểm tra độ lún của mặt đường



CHÂN DUNG 'CÁC ĐẦY TỚ NHÂN DÂN'



Ngạo mạn, dâm ô chính là Lê Duẩn
Già mà lắm con là lão Đỗ Mười
Mưu mô quỷ quyệt là Lê Đức Anh
Nhẫn nhục sống lâu là Võ Nguyên Giáp
Chưa nói đã cười là Nguyễn Minh Triết
*

Giả danh Mác xít là Lê Khả Phiêu
Tham nhũng đớn hèn là cậu y tá (Nguyễn Tấn Dũng)
Ác thú lộng hành là Nguyễn Văn Hưởng
Gian manh, trí trá là Nguyễn Sinh Hùng
Cái gì cũng nhặt là Tô Huy Rứa
*
Không bộ nào chứa là Nguyễn Thiện Nhân
Vì gái quên thân là Nông Đức Mạnh
Thức thời, né tránh là Nguyễn Hải Chuyền
Miệng lưỡi dịu mềm là Vương Đình Huệ
Thiểu năng trí tuệ là Đinh La Thăng
*
Định hướng tối tăm là Nguyễn Phú Trọng
Ghét trung yêu nịnh là Lê Hồng Anh
Phát biểu lăng nhăng là Phạm Vũ Luận
Quen đánh giặc miệng là Trương Tấn Sang
Hán tặc chính danh là Hoàng Trung Hải
*
Thầy gét bạn khinh là Hồ Đức Việt
Dối gian lật lọng là Vũ Văn Ninh
Đổi trắng thay đen là Trương Vĩnh Trọng
Triệt suy phù thịnh là Trần Đình Hoan
Đã dốt lại tham là Lê Thanh Hải
*
Ăn vụng nói dại là Đinh Thế Huynh
Cạn nghĩa cạn tình chính là Tô Lâm
Juda phản chúa là Nguyễn Đức Tri
Tình duyên lận đận là chị Kim Ngân
Vừa béo vừa dâm là Tòng Thị Phóng
*
Dối gian lật lọng là Vũ Văn Ninh
Lên chức nhờ cha là Nguyễn Thanh Nghị
Mặt người dạ thú là Phạm Quý Ngọ
Tính tình ba phải là Phạm Gia Khiêm
Chưa từng thanh liêm là Nguyễn Thế Thảo
*
Ăn tiền tàn bạo là Nguyễn Đức Nhanh
Chạy trốn an toàn là Dương Chí Dũng
Nghìn tỉ tham nhũng là Vinashin
‘Bà con’ Thủ Tướng là Phạm Thanh Bình
Ngậm thị ăn tiền là Vũ Huy Hoàng
*
Xôi thịt mê gái là Trịnh Đình Dũng
Lừa thầy phản bạn là Trương Hòa Bình
Cướp, Giết la làng là Thống đốc Bình
Ăn no kín tiếng là Cao Đức Phát
Móc ngoặc đi đêm là Ngô Xuân Dụ

 Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu

Lửa trong Vùng đất của Tuyết: Các vụ tự thiêu ở Tây Tạng
image
Lửa trong Vùng đất của Tuyết: Các vụ tự thiêu ở Tây Tạng
View on www.youtube.com
Preview by Yahoo
Bà con hãy tìm đường chạy ra nước ngoài cho sớm như hồi 1975 kẻo bọn Tàu cộng đến cai trị thì chạy không kịp nữa!

Một vị ni sư bị đối xử tàn nhẫn:




Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu ...

https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=kpc3wmwKit0

Chiến tranh biên giới Việt Trung năm 1979

http://www.youtube.com/watch?v=eEBkpsCwsDY

Battlefield Vietnam - Part 01: Dien Bien Phu The Legacy
http://www.youtube.com/watch?v=eQdFGr7NQ4o&list=PLCABD020D6B200061

SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P1)

https://www.youtube.com/watch?v=NTZGFJyF2pQ 

SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P2)

https://www.youtube.com/watch?v=LSpiyHxlK5I 

SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P3)

https://www.youtube.com/watch?v=P2Zbrz4iJbc

Tham, Dốt, Ngu không lối thoát của Cộng Sản
image

http://baomai.blogspot.com/2014/07/tham-dot-ngu-khong-loi-thoat-cua-cong.html
Về văn học miền Nam 1954-1975
image
http://baomai.blogspot.com/2014/07/ve-van-hoc-mien-nam-1954-1975.html


Văn học và chính trị
image
http://baomai.blogspot.com/2014/07/van-hoc-va-chinh-tri.html

Israel: Một đất nước thần kỳ
image
http://baomai.blogspot.com/2014/07/israel-mot-at-nuoc-than-ky.html

Đừng sống bằng sự dối trá
image
http://baomai.blogspot.com/2014/07/ung-song-bang-su-doi-tra.html

Chọn ai: Thời gian quyết định không còn dài nữa
image
http://baomai.blogspot.com/2014/07/chon-ai-thoi-gian-quyet-inh-khong-con.html
Tố cáo thẳng thừng "Súc vật hồ chí minh" trên Yout...

http://baomai.blogspot.com/2014/07/to-cao-thang-thung-suc-vat-ho-chi-minh.html

HCM chính là thiếu tá Hồ Quang thuộc QĐND Trung Cộ...
image
http://baomai.blogspot.com/2014/07/hcm-chinh-la-thieu-ta-ho-quang-thuoc.html



Ha ha ha !
http://lh3.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
Hố hố hố !
http://lh6.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
Không biết làm thịt em nào trước đây?
http://lh4.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
http://lh4.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
xem thêm


Ảnh
 của Ngoc Bui.

HTTP://DANLAMBAOVN.BLOGSPOT.COM/2014/05/HANG-VAN-CONG-NHAN-BINH-DUONG-INH-


Sốc - Lính Trung cộng hành hạ tra tấn tù binh VN vô cùng tàn bạo dã man

https://www.youtube.com/watch?v=GwhBJ6Y-Aks

Nhà báo Bùi Tín phản bác luận điệu xuyên tạc của báo QĐND ngày 26-08-2012.

 

https://www.youtube.com/watch?v=I2jL0S8GnoQ

 

 

 

 

 

SỐNG VỚI BỌN "ĐỈNH CAO TỘI ÁC" VIỆT CỘNG, "CHÚA TRÙM THAM NHŨNG" 

TỤI MÌNH CŨNG KHỐN NẠN VỚI CHÚNG NÓ, NÓI CHI CON NGƯỜI -

amp; lt; /div>

Nghệ sĩ Tạ Trí Hải nói về cộng sản

Nghệ sĩ Tạ Trí Hải nói về cộng sản



image





Nghệ sĩ Tạ Trí Hải nói về cộng sản



image





Nghệ sĩ Tạ Trí Hải nói về cộng sản
View on www.youtube.com
Preview by Yahoo






__._,_.___
View attachments on the web

Posted by: hung vu

No comments:

Post a Comment

Thanks

Featured post

Lisa Pham Vấn Đáp official 8/6/2023

Popular Posts

Popular Posts